Tải bản đầy đủ (.pptx) (23 trang)

Tiểu Luận - Quan Hệ Quốc Tế Nửa Sau Những Năm 1970 Đến Năm 1991

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

QUAN HỆ QUỐC TẾ NỬA SAU NHỮNG NĂM 1970 ĐẾN NĂM 1991

<small>  </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Mục lục :

<small>I.Khái quát nguyên nhân mâu thuẫn Đông-Tây và sự khởi đầu của chiến tranh lạnh </small>

<small>II.Đông –Tây hồ dịu </small>

<small>III.Liên Xơ-Mỹ chấm dứt chiến tranh lạnh . 1. Biểu hiện </small>

<small> 2. Nguyên nhân </small>

<small>IV. Sự sụp đổ hai cực I-an-ta</small>

<small>V. Thế giới sau “chiến tranh lạnh”.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i><b>I. Khái quát nguyên nhân mâu thuẫn Đông-Tây và sự khởi đầu của chiến tranh lạnh :</b></i>

<small>Sau chiến tranh quan hệ Xô – Mỹ chuyển từ liên minh chống phát xít sang thế </small>

<i><small>đối đầu và tình trạng ”chiến tranh lạnh ”.</small></i>

<i><b><small>* Nguyên nhân: do sự đối lập nhau về mục tiêu và chiến lược.</small></b></i>

<i><small> -Liên Xơ: chủ trương duy trì hịa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành </small></i>

<small>quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới.</small>

<i><small> -Mỹ: </small></i>

<small> + Chống phá Liên Xô và phe XHCN, chống phong trào cách mạng, mưu đồ làm bá chủ thế giới.</small>

<small> + Lo ngại trước ảnh hưởng to lớn của Liên Xô và Đông Âu, sự thắng lợi của CHND Trung Quốc, CNXH đã trở thành hệ thống thế giới từ Âu sang Á.</small>

<small> + Sau CTTG II, là nước tư bản giàu mạnh nhất, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử, tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>II. Đơng –Tây hồ dịu :</b></i>

<small> Sau hơn hai thập niên chạy đua vũ trang đầy tốn kém và hao tổn nhiều sức lực, đặc biệt trong bối cảnh lực lượng so sánh trên thế giới đã có những thay đổi căn bản khác trước, từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, đã xuất hiện xu hướng hịa hỗn Đơng – Tây, biểu hiện qua những cuộc thương lượng giữa Liên Xô và Mỹ.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>Trước tiên phải kể đến xu hướng hòa dịu trong quan hệ giữa </i>

<i>hai miền của nước Đức. Trên cơ sở những nguyên tắc đã được thỏa </i>

thuận giữa hai siêu cường, vào tháng 11 năm 1972, Cộng hòa Dân

<i>chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức đã kí kết tại Bon “Hiệp định </i>

<i>về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức”. Theo đó, </i>

hai bên thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện, bình thường với nhau trên cơ sở bình đẳng; hai nước sẽ giải quyết các vấn đề tranh chấp hồn tồn bằng biện pháp hịa bình và sẽ tự kiềm chế việc đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực. Như vậy, sau nhiều năm căng

thẳng, Mỹ, Cộng hòa Liên bang Đức và các nước phương Tây khác đã phải thừa nhận trên pháp lý sự tồn tại như một thực thể chính trị của Nhà nước Cộng hịa Dân chủ Đức, thừa nhận đường biên giới và sự tồn vẹn lãnh thổ của Cộng hịa Dân chủ Đức. Nhờ vậy, tình hình châu Âu đã khơng cịn ngột ngạt như giai đoạn trước đó.Việc giải quyết vấn đề Đức là một biểu hiện cho xu thế hịa dịu trong quan hệ Đơng – Tây

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i> Thứ hai, việc Liên Xô và Mỹ đạt được thỏa thuận nhằm hạn </i>

chế vũ khí chiến lược có thể coi là một biểu hiện khác của sự hịa hỗn Đơng - Tây. Sau 7 vòng đàm phán, ngày 26 tháng 5 năm

<i>1972 . Liên Xơ và Mỹ đã kí kết “Hiệp ước về hạn chế hệ thống </i>

<i>phòng chống tên lửa” (gọi là ABM), quy định mỗi bên được xây </i>

dựng hai hệ thống ABM, một ở chung quanh thủ đô, một ở chung quanh căn cứ tên lửa chiến lược, mỗi hệ thống có 100 tên lửa

chống tên lửa. Ngày 3 tháng 7 năm 1774, Liên Xô và Mỹ đã ký tiếp Nghị định thư bổ sung Hiệp ước ABM, quy định mỗi bên chỉ triển khai một hệ thống ABM. Điều quan trọng là Hiệp ước ABM có giá trị vơ thời hạn. Cũng trong ngày 3 tháng 7 năm 1974, hai

<i>siêu cường đứng đầu hai cực Đơng, Tây cịn ký “Hiệp định tạm </i>

<i>thời về một số biện pháp trong lĩnh vực hạn chế vũ khí tiến cơng chiến lược” và quy định mức độ duy trì vũ khí chiến lược của mỗi </i>

bên (tên lửa vượt đại châu, tàu ngầm hạt nhân, máy bay ném bom chiến lược, gọi tắt là SALT-1).

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Trong những năm 1974 -1979, sau nhiều lần đàm phán và gặp gỡ ở cấp nguyên thủ, Liên Xơ và Mỹ đã kí kết Hiệp ước

<i>hạn chế vũ khí hạt nhân có tính chất tấn công (Strategic Arms </i>

<i>Limitation Talks - I, gọi tắt là SALT-1). Nghị định bổ sung </i>

Hiệp ước ABM, quy định mỗi bên chỉ triển khai một hệ thống phòng, chống tên lửa (7 – 1974), Hiệp ước SALT-II (6 –

1979) quy định giới hạn tổng số vũ khí chiến lược tấn cơng và phương tiện phóng vũ khí hạt nhân của mỗi bên. Năm 1982, Mỹ cịn đàm phán với Liên Xơ về cắt giảm tên lửa tầm trung (INF). Có thể thấy, việc hàng loạt các hiệp ước liên quan đến vũ khí chiến lược được kí kết đã giúp cho cuộc chạy đua vũ trang căng thẳng giữa hai cực Xô – Mĩ có xu hướng giảm dần, cho thấy thế cân bằng chiến lược quân sự chung giữa Liên Xô và Mỹ được xác lập trên phạm vi thế giới. Thực tế này góp phần làm giảm nguy cơ một cuộc chiến tranh hủy diệt không có người chiến thắng và kẻ chiến bại, củng cố nền hịa bình, an ninh của các dân tộc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Tuy vậy, sau khi Rigân lên làm Tổng thống Mỹ, Rigân và các thế lực phản động lại tìm cách phá vỡ thế cân bằng chiến lược đã được thiết lập, ra sức tái khởi động cuộc chạy đua vũ trang. Tháng 3 năm 1983, Rigân đã đề ra kế hoạch “cuộc chiến tranh giữa các vì sao”

nhằm xây dựng hệ thống tên lửa nhiều tầng, từ 200 km đến 1000 km trong không gian nhằm vơ hiệu hóa tên lửa tấn cơng, tạo ra một thách thức đối với Liên Xô. Đáp lại, Liên Xô buộc phải tăng ngân sách quân sự lên tới 25% tổng sản phẩm quốc nội (GNP), triển khai hệ thống tên lửa tầm trung ở Đông Âu và khu vực châu Á thuộc lãnh thổ Liên Xô.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Do khó khăn về kinh tế của cả hai siêu cường nên q trình cắt giảm vũ khí tiến cơng chiến lược vẫn khơng bị bỏ rơi hồn tồn. Nhờ vậy, ngày 13 tháng 7 năm 1991,

<i>Liên Xô và Mỹ đã ký “Hiệp ước nhằm hạn chế và giảm </i>

<i>bớt vũ khí chiến lược” (Hiệp ước START-1), theo đó 30% </i>

kho vũ khí hạt nhân sẽ được phá hủy từ thời điểm đó đến năm 1998 và triệt phá hồn tồn những đầu đạn có nhiều đầu đạn hạt nhân có căn cứ trên mặt đất.

Tuy còn bất đồng, nhưng hai nước đã từng bước

nhượng bộ nhau, khơng làm cho tình hình căng thẳng hơn và đi đến kết thúc tình trạng đối đầu, gây tổn thất cho cả hai bên. Con số thống kê 19 cuộc gặp cấp cao giữa Liên Xô và Mỹ trong những năm 1972-1996 đã cho thấy thiện chí và nỗ lực giảm căng thẳng của từng siêu cường đứng đầu mỗi cực.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>Từ cuối thập niên 60 đầu thập niên 70 của thê kỷ XX, mối </i>

<i>quan hệ giữa các nước TBCN Tây Âu và Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu cũng dần được cải thiện, cho thấy xu thế hịa hỗn giữa hai cực. Ngày 19 tháng 3 năm 1970, tại </i>

Erfurt (Đông Đức) đã diễn ra cuộc gặp lịch sử giữa Thủ tướng Tây Đức Brandt và người đứng đầu chính phủ Đơng Đức Willy Stoph , mở ra một chương mới giữa hai quốc gia láng giềng vốn cùng chung một mái nhà quê hương sau hơn hai thập kỷ đối đầu. Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức Brandt đã nhận được sự chào đón nồng ấm của nhân dân Cộng hịa Dân chủ Đức. Cuộc gặp gỡ thứ hai giữa các nhà lãnh đạo hai nước Đức đã diễn ra vào ngày 16 tháng 5 năm 1970 tại Cassel (Tây Đức).

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Nhờ những cuộc tiếp xúc này mà một số hiệp định đã được ký kết, đưa lại sự cải thiện trong quan hệ giữa các nước Tây Âu với Liên Xô và các nước Đông Âu. Cụ thể, ngày 12 tháng 8 năm 1970, một Hiệp định Liên Xơ –

Cộng hịa Liên bang Đức được ký tại Matxcơva, trong đó hai bên khẳng định mục tiêu quan trọng hàng đầu là hịa bình và thừa nhận tính bất khả xâm phạm của các đường biên giới đang tồn tại ở châu Âu, bao gộp cả đường Oder-Neisse, duy trì các quyền của bốn cường quốc đang chiếm đóng Beclin . Tiếp đó, vào tháng 11 năn 1970, tại

Vacxava, một hiệp định đã được ký giữa Tây Đức và Ba Lan, trong đó tái khẳng định tính bất khả xâm phạm của đường biên giới Oder-Neisse.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Sau một thời gian dài thương lượng, cuối cùng một

bằng chứng quan trọng khác của sự hịa hỗn Đơng - Tây, sự tháo ngịi cho các cuộc xung đột có thể xảy ra ở châu Âu, cũng đã diễn ra đó là cuộc gặp gỡ của Bộ trưởng Ngoại giao các quốc gia châu Âu tại thủ đô Helsinki của Phần Lan trong các ngày 3-7 tháng 7 năm 1975. Những người đứng đầu

ngành Ngoại giao của các nước châu Âu đã thành lập 3 ủy ban, trong đó có một ủy ban đảm trách về tự do và các

quyền của con người. Cuộc gặp mặt trên là bước đi dọn đường cho cuộc gặp thượng đỉnh của nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ các nước châu Âu tại Helsinki vào cuối tháng 7 năm 1975.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Văn kiện cuối cùng (thường được biết đến với tên gọi là Định ước Helsinki) được kí ngày 1 tháng 8 năm 1975 bởi nguyên thủ của Mỹ và 25 quốc gia châu Âu ở cả 2 khối liên minh, các nước trung lập, thậm chí cả các nước nhỏ bé (San Marino, Leichtenstein, Monaco, Vatincan), trong đó đáng chú ý nhất là sự hiện diện của người đứng đầu của Mỹ (Gerald Ford), Liên Xô (Leonid Brejnev) và Pháp (Valéry Giscard d’Estaing) . Định ước Helsinki đề cập đến nhiều nội dung quan trọng như: sự bình đẳng giữa các quốc gia, việc loại trừ sự đe dọa hay sử dụng vũ lực trong quan hệ, tính bất khả xâm phạm của các tuyến

đường biên giới, sự không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tăng cường phối hợp kinh tế, khoa học, kỹ thuật, trao đổi thông tin về các số liệu thống kê; tuân thủ quyền tự do và các quyền cơ bản của con người.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Có thể khẳng định rằng, Định ước Helsinki năm 1975 đã có một tầm quan trọng đặc biệt trong quan hệ quốc tế ở châu Âu khi đó. Văn kiện này đã chấm dứt sự đối đầu gay gắt giữa hai nhóm nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ở châu Âu, tạo lập một cơ chế nhằm duy trì sự ổn định, an ninh, cũng như tìm kiếm các giải pháp hịa bình cho các cuộc xung đột, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới, chung sống hịa bình giữa Đơng và Tây.

Định ước Helsinki cịn có một ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ quốc tế thế giới, bởi lẽ, châu Âu là nơi bùng nổ hai cuộc chiến tranh thế giới, là nơi diễn ra cuộc chạy đua vũ trang lớn nhất trong lịch sử và cũng là trung tâm của cuộc chiến tranh lạnh đối đầu giữa hai cực Xô – Mỹ, giữa hai khối Đông – Tây. Một chương mới đã được mở ra trong quan hệ quốc tế ở châu Âu và thế giới. Rõ ràng, một châu Âu hịa bình, hợp tác và ổn định sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới xu thế hịa bình và hợp tác trên tồn thế giới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i><b><small>III. Liên Xơ-Mỹ chấm dứt chiến tranh lạnh :</small></b></i>

<small>     </small> <i>1. Biểu hiện :</i>

Cùng với q trình hịa hỗn Đơng – Tây là q trình tiến tới chấm dứt chiến tranh lạnh. Quá trình này được xúc tiến mạnh mẽ thông qua sự chấm dứt đối đầu và bình thường hóa quan hệ giữa các cường

quốc: Mỹ - Trung và Xô – Mỹ. Sự kiện Tổng thống Mỹ R. Nixon thăm chính thức Trung Quốc năm 1972 và ký “Thông cáo Thượng Hải” đã mở đường cho thỏa thuận thiết lập quan hệ ngoại giao và chấm dứt sự đối đầu giữa hai nước bắt đầu từ năm 1949. Cũng trong năm 1972, Tổng thống Mỹ R. Nixon còn thăm Liên Xô, ký văn kiện “Cơ sở quan hệ Xô – Mỹ” và một số văn kiện khác. Mùa hè năm 1973, quan hệ Xô – Mỹ được sưởi ấm bằng chuyến thăm đáp lễ Mỹ của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xơ L. Brejnev.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>       </small>

Cuối cùng, vào tháng 12 năm 1989, tại cuộc gặp gỡ khơng chính thức tại đảo Malta, người đứng đầu Liên Xô và Mỹ đã cùng nhau tuyên bố chấm dứt tình trạng cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài suốt từ năm 1947 đến năm 1989. Tuyên bố này đã củng cố thêm xu thế hịa hỗn trên thế giới và mở ra chiều hướng giải quyết các cuộc tranh chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới vào thời điểm đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i>2. Nguyên nhân chấm dứt “chiến tranh lạnh” :</i>

<i><small> -Thứ nhất, cuộc chạy đua vũ trang kéo dài hơn bốn thập kỷ và “bao” </small></i>

<small>về chi tiêu quân sự hầu khắp thế giới (trong thời gian chiến tranh lạnh, hai nước Xô – Mỹ đã gánh chịu từ 50% đến 55% chi tiêu qn sự tồn cầu) làm cho hai nước Xơ – Mỹ quá tốn kém và suy giảm “thế mạnh” của họ về nhiều mặt so với các cường quốc khác.</small>

<i><small> -Thứ hai, hai nước Mỹ và Liên Xơ đều đứng trước những khó khăn </small></i>

<small>và thách thức rất to lớn trong một thế giới mà mọi chuyển biến diễn ra hết sức mau lẹ, bất lợi cho hai nước này: Hai nước Tây Đức và Nhật, vốn là những nước phát xít chiến bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, từ đống đổ nát của chiến tranh, nay họ vươn lên mạnh mẽ, trở thành đối thủ cạnh tranh đáng lo ngại. Châu Âu đã liên minh với nhau thành </small>

<small>“Khối thị trường chung châu Âu” (EEC) và ngày càng trở nên mạnh. Tất cả đều thoát khỏi sự kiềm chế của Mĩ và cạnh tranh với Mỹ và vượt </small>

<small>Liên Xô về kinh tế.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i><small> -</small>Thứ ba, cuộc “chiến tranh kinh tế” mang tính tồn cầu </i>

mà cả thế giới đang ra sức chạy đua. Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra sôi nổi mà tất cả các nước muốn vươn lên thì đều phải để tâm và tận dụng những thành tựu của nó.

Tình hình nêu trên đặt ra cho hai nước Liên Xô và Mỹ muốn lấy lại vị trí của mình như trước đây, muốn vươn lên đuổi kịp và vượt các nước khác thì cần phải thốt ra khỏi thế đối đầu và cục diện ổn định.

Ngoài ra, những vấn đề toàn cầu đang đặt ra trước nhân loại, trước hai nước Xô – Mỹ, nhân dân Mỹ và Liên Xô cùng nhân dân thế giới địi hỏi phải có sự hợp tác chung để giải quyết, như vấn đề môi trường, môi sinh, bảo vệ trái đất – ngôi nhà

chung của loài người; chấm dứt các cuộc xung đột khu vực… Nếu tiếp tục đối đầu thì giải quyết những vấn đề chung này rơi vào bế tắc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<i><b>IV. Sự sụp đổ hai cực I-an-ta :</b></i>

<b><small> </small></b> _ Sau hơn 40 năm, trật tự hai cực Ianta đã bị xói mịn:

+ Thắng lợi của CM Trung Quốc (1949) đã đập tan âm mưu của Mỹ khống chế Trung Quốc và Liên Xô buôc phải bỏ những đặc quyền ở vùng Đông Bắc Trung Quốc.

+ Sự lớn mạnh về kinh tế của các nước tư bản phương Tây, đặc biệt là sự ra đời của khối thị trường chung châu Âu (EEC - 1957) làm suy giảm nghiêm trọng phạm vi ảnh hưởng của Mỹ ở Tây Âu. + Sự phát triển "thần kỳ" của kinh tế Nhật Bản đã dẫn đến sự hình thành 3 trung tâm kinh tế - tài chính thế giới. Các nước Tây Âu, Nhật Bản trở thành đối thủ cạnh tranh nguy hiểm của Mỹ.

+ Sự phát triển và thắng lợi của phong trào GPDT ở Á, Phi, Mĩ latinh đã làm thay đổi bộ mặt của khu vực này và làm mất phạm vi ảnh hưởng của Mỹ và các nước Tây Âu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

_ Từ 1988 - 1991, sau những biến động to lớn ở Đông Âu và Liên Xô, "trật tự hai cực Ianta" bị phá vỡ :

+ Khối Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô bị phá vỡ, kéo theo sự chấm dứt hoạt động của liên minh chính trị - quân sự (khối Hiệp ước Vácsava) và liên minh kinh tế (khối

+ Thế hai cực giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô bị phá vỡ: Liên Xơ bị sụp đổ, tan vỡ từ góc độ nhà nước; sức mạnh kinh tế, quân sự của Mỹ bị suy giảm so với Tây Âu và Nhật Bản.

+ Liên Xơ và Mỹ rút dần sự "có mặt" của mình ở nhiều khu vực quan trọng trên thế giới (phạm vi ảnh hưởng của liên Xơ bị mất hết, cịn phạm vi ảnh hưởng của Mỹ bị thu hẹp khắp nơi).

+ Sự vươn lên của Đức và Nhật Bản về kinh tế, chính trị đang là mối lo ngại cho các nước thắng trận trước đây (Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp ...).

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<i><b>=> Tóm lại:</b></i>

<b> Sau hơn 40 năm tồn tại, trật tự hai cực Ianta đã </b>

từng bước bị xói mịn và đã hồn toàn sụp đổ từ sau sự tan vỡ của khối Đông Âu và Liên Xô. Một trật tự thế giới mới – “đa cực” đang dần dần hình thành.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<i><b>V. Thế giới sau “chiến tranh lạnh”.</b></i>

<small> -Từ 1989 – 1991, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. -Ngày 28/6/1991, khối SEV giải thể</small>

<b><small> -01/07/1991, Tổ chức Varsava chấm dứt hoạt động.</small></b>

<small> -Trật tự ”hai cực ” Yalta sụp đổ, phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á mất đi, ảnh hưởng của Mỹ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi.</small>

<small> -Từ 1991, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn và phức tạp:</small>

<small> + Trật tự hai cực I-an-ta sụp đổ. Một trật tự thế giới đang dần dần hình thành theo xu hướng đa cực. + Các quốc gia tập trung phát triển kinh tế.</small>

<small> + Mỹ đang ra sức thiết lập một trật tự thế giới ”đơn cực” để làm bá chủ thế giới, nhưng không thực hiện được.</small>

<small> + Sau ”chiến tranh lạnh”, nhiều khu vực thế giới không ổn định, nội chiến, xung đột quân sự kéo dài (Ban-căng, châu Phi, Trung Á).</small>

<small> Sang thế kỷ XXI, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang diễn ra thì vụ khủng bố 11/09/2001 ở </small>

<i><small>nước Mỹ đã đặt các quốc gia, dân tộc đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố với những </small></i>

<small>nguy cơ khó lường, gây ra những tác động to lớn, phức tạp với tình hình chính trị thế giới và trong quan hệ quốc tế.</small>

<small> Ngày nay, các quốc gia dân tộc vừa có những thời cơ phát triển thuận lợi, đồng thời vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay gắt.</small>

</div>

×