Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN QUAN hệ QUỐC tế LIÊN hợp QUỐC và VAI TRÒ của VIỆT NAM TRONG HOẠT ĐỘNG của LIÊN hợp QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.54 KB, 21 trang )

LIÊN HIỆP QUỐC VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM
TRONG LIÊN HIỆP QUỐC
1. LIÊN HIỆP QUỐC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG QUỐC TẾ.

Liên Hiệp Quốc được thành lập trên cơ sở tổ chức tiền thân là Hội
Quốc Liên (League of Nations), theo sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ
W.Wilson sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Hoa Kỳ tuy sáng lập ra Hội Quốc
Liên nhưng lại không chính thức làm hội viên, hơn thế quy chế hoạt động của
hội lại lỏng lẻo, các cường quốc như Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc
Ireland, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật Bản tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh
hưởng của mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong công cuộc
giải phóng phụ nữ cũng như những hoạt động nhân đạo, nhưng chiến tranh
thế giới thứ hai bùng nổ Hội quốc liên buộc phải giải tán.
Trước sự tàn phá có tính hủy diệt của chiến tranh thế giới lần thứ hai,
các nước khối Đồng minh và nhân dân thế giới có nguyện vọng lập lại, giữ
gìn hòa bình thế giới và ngăn chặn các cuộc chiến tranh thế giới mới. Xuất
phát từ sáng kiến của Tổng thống Mỹ Roosevelt, tại Hội nghị Yalta ở Crưm,
nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh đã thống nhất cùng Trung Quốc thành
lập một tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới và gửi thư mời
các nước chống Phát xít tham gia. Từ 25 tháng 4 đến 26 tháng 6 năm 1945,
đại diện của 50 quốc gia đã họp tại San Francisco, California, Hoa Kỳ để
thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Liên
Hiệp Quốc chính thức được thành lập với sự tham dự của 51 nước.
Đến năm 2006 có 192 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, gồm tất cả
các quốc gia độc lập được thế giới công nhận. Trong số những nước không
phải thành viên, đáng chú ý nhất là Đài Loan, vì ghế của họ tại Liên Hiệp

1


Quốc đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm


1971; Tòa Thánh Vatican, vốn đã từ bỏ quy chế thành viên nhưng vẫn là một
“quốc gia” quan sát viên. Thành viên mới nhất của Liên Hiệp Quốc là
Montenegro, chính thức gia nhập ngày 28 tháng 6 năm 2006.
Những mục đích được nêu ra của Liên Hiệp Quốc là ngăn chặn chiến
tranh, bảo vệ nhân quyền, cung cấp một cơ cấu cho luật pháp quốc tế, và để
tăng cường tiến bộ kinh tế, xã hội, cải thiện các điều kiện sống và chống lại
bệnh tật, đói nghèo. Liên Hiệp Quốc tạo cơ hội cho các quốc gia nhằm đạt tới
sự cân bằng trong sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện thế giới và giải quyết
các vấn đề quốc tế. Nhằm mục đích đó, Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn một
Tuyên ngôn Chung về Nhân Quyền năm 1948.
Sứ mệnh cao cả của Liên Hiệp Quốc được ghi rõ trong những dòng đầu
tiên của Hiến chương Liên Hiệp Quốc là sự phản ánh nguyện vọng cháy bỏng
của các dân tộc mới trải qua những mất mát chưa từng có trong chiến tranh
thế giới thứ hai - đó là “ngăn ngừa một cuộc chiến tranh thế giới mới”. Nhận
thức sâu sắc về sự cần thiết của một cơ sở toàn diện cho hòa bình, các quốc
gia thành viên đề ra mục đích hàng đầu của Liên Hiệp Quốc là duy trì hòa
bình và an ninh quốc tế, đồng thời xác định những mục đích quan trọng khác
cho các hoạt động của Liên Hiệp Quốc là tăng cường quan hệ hữu nghị giữa
các dân tộc, thúc đẩy hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã
hội, văn hóa, nhân đạo và bảo đảm quyền con người. Các quốc gia cũng trao
cho Liên Hiệp Quốc vai trò là trung tâm điều hòa các hành động của các dân
tộc hướng theo những mục đích đó.
Để tạo điều kiện về tổ chức, thể chế cho Liên Hiệp Quốc đảm nhiệm
được vai trò của mình, Hiến chương đã quy định những nguyên tắc cho quan

2


hệ giữa các quốc gia và hoạt động của Liên Hiệp Quốc mà sau này trở thành
những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

Cùng với đó là bộ máy gồm sáu cơ quan chính chịu trách nhiệm về các
lĩnh vực hoạt động khác nhau là Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng
Kinh tế và Xã hội (ECOSOC), Hội đồng Quản thác, Tòa án quốc tế và Ban
Thư ký được thành lập. Trong số đó, Hội đồng Bảo an được trao trách nhiệm
hàng đầu trong việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế và được các quốc gia ủy
quyền đưa ra các biện pháp, kể cả các biện pháp cưỡng chế nhằm giải quyết
hòa bình các tranh chấp, chống lại các đe dọa xâm lược, phá hoại hòa bình.
Hội đồng Quản thác (chính thức chấm dứt hoạt động theo quyết định của Hội
nghị thượng đỉnh năm 2005).
Vai trò quan trọng của Liên Hiệp Quốc cũng thể hiện qua thực tiễn
hoạt động trong hơn 60 năm qua, tác động tích cực, to lớn đến mọi mặt của
đời sống quốc tế và từng dân tộc, tuy rằng tổ chức này đã phải trải qua nhiều
khó khăn. Từ con số 51 quốc gia thành viên vào năm 1951, Liên Hiệp Quốc
hiện có tới 192 quốc gia thành viên và trở thành một hệ thống toàn diện gồm
các cơ quan chính nêu trên, nhiều cơ quan phụ trợ, 20 tổ chức chuyên môn và
5 Ủy ban kinh tế - xã hội đặt ở các khu vực. Nói đến số lượng thành viên
đông đảo như hiện nay của Liên Hiệp Quốc, chúng ta có thể kể đến thành
công của Liên Hiệp Quốc trong việc thúc đẩy quá trình phi thực dân hóa, góp
phần đưa các vùng lãnh thổ không tự quản gồm tới 750 triệu người trở thành
80 quốc gia độc lập.
Đóng góp lớn nhất của Liên Hiệp Quốc là đã góp phần ngăn ngừa
không để xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới mới trong 64 năm qua. Một số
cuộc khủng hoảng quốc tế đã được giải quyết với sự trung gian hòa giải của

3


Liên Hiệp Quốc. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, tổ chức này đã hỗ trợ
các cuộc thương lượng đưa đến giải pháp hòa bình cho hơn 170 cuộc xung
đột ở các khu vực trên thế giới.

Trong lĩnh vực phát triển, việc tạo môi trường kinh tế, thương mại, tài
chính quốc tế bình đẳng và quan tâm thích đáng đến lợi ích của các nước đang
phát triển là ưu tiên trong hoạt động của Liên Hiệp Quốc, trong đó có việc
nhằm thúc đẩy “Vòng đàm phán Doha” về thương mại vì phát triển. Từ năm
1960, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đề ra các chiến lược phát triển cho từng
thập kỷ nhằm huy động hợp tác quốc tế cho các mục tiêu phát triển chung,
nhất là ở các nước đang phát triển; bên cạnh đó, các tổ chức của Liên Hiệp
Quốc đã có sự hỗ trợ trực tiếp về vốn, tri thức cho các nỗ lực phát triển kinh
tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và y tế của các nước này. Tại diễn đàn này, các
quốc gia đã ký kết hơn 500 điều ước quốc tế đa phương quan trọng trong
nhiều lĩnh vực của giao lưu quốc tế, trong đó có Công ước về Luật biển (năm
1982), đưa ra khuyến nghị định hướng cho các chủ đề của luật pháp quốc tế
và xây dựng chuẩn mực cho các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Trong lĩnh vực bảo đảm, thúc đẩy quyền con người, các quốc gia thành
viên đã xây dựng các văn kiện cơ bản nhất trong lĩnh vực nhân quyền là
Tuyên ngôn Nhân quyền, Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và
Công ước về quyền dân sự và chính trị làm cơ sở cho hơn 80 công ước, tuyên
bố được thông qua sau này về các vấn đề khác nhau về quyền con người.
Tại Hội nghị cấp cao thế giới năm 2005, các nhà lãnh đạo các quốc gia
đã nhất trí về ý nghĩa sống còn của việc xây dựng một hệ thống đa phương
hữu hiệu, lấy Liên Hiệp Quốc làm trung tâm nhằm đối phó với những thách
thức đa dạng, những vấn đề toàn cầu như hiện nay.

4


Tại các Hội nghị Thiên niên kỷ năm 2000, Hội nghị cấp cao năm 2005
và tại Phiên thảo luận cấp cao chung Khóa 62 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
có sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam,
các vị lãnh đạo các quốc gia đã đề ra những định hướng lớn cho công việc của

Liên Hiệp Quốc trong thời gian tới. Đó là thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng
các mối quan hệ quốc tế công bằng, lành mạnh, dựa trên cơ sở luật pháp quốc
tế và các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc; đóng góp tích cực vào
việc thu hẹp khoảng cách phát triển, trong đó có việc thực hiện các Mục tiêu
phát triển Thiên niên kỷ, để toàn cầu hóa trở thành một lực lượng tích cực đối
với toàn thể nhân dân thế giới; thực hiện cải tổ toàn diện Liên Hiệp Quốc…
Hiện nay, Liên Hiệp Quốc đang triển khai nhiều biện pháp cụ thể theo các
định hướng này. Thực tế cho thấy những nhân tố quyết định thành công các
hoạt động của Liên Hiệp Quốc là ý chí chính trị của các quốc gia và sự tôn
trọng những nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Vai trò cơ bản của
Liên Hiệp Quốc được thể hiện trên một số vấn đề cơ bản sau:
Về kiểm soát và giải giáp vũ khí.
Thực hiện sứ mệnh cao cả là bảo đảm an ninh thế giới và “ngăn ngừa
một cuộc chiến tranh thế giới mới”, vấn đề kiểm soát và giải giáp vũ khí nói
chung, vũ khí hủy diệt nói riêng, luôn được Liên Hiệp Quốc quan tâm. Trên
thực tế, nghị quyết đầu tiên của phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng (ngày 24
tháng 1 năm 1946) có tiêu đề "Sự thành lập một Ủy ban giải quyết các vấn đề
phát sinh do sự phát minh ra năng lượng nguyên tử" và kêu gọi đưa ra những
đề xuất khoa học cho "sự hạn chế trang bị các loại vũ khí nguyên tử và tất cả
các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt", chính là sự thể hiện mục tiêu xuyên suốt
của Liên Hiệp Quốc. Gần đây nhất, tháng 9/2009, tại phiên Thảo luận chung
cấp cao Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khóa 64 tập trung vào chủ đề “ứng phó

5


hiệu quả với các cuộc khủng hoảng toàn cầu: Tăng cường chủ nghĩa đa
phương và đối thoại giữa các nền văn minh vì hòa bình, an ninh quốc tế và
phát triển”. Nội dung chủ yếu được thảo luận và thông qua tại phiên họp, đó
là: tầm quan trọng của việc chống phổ biến và giải trừ vũ khí hạt nhân; tăng

cường các biện pháp nhằm thúc đẩy vấn đề này; khẳng định lại cam kết với
các hiệp ước đa phương về kiểm soát vũ khí hạt nhân và ủng hộ các nỗ lực
quốc tế về giải trừ quân bị hạt nhân và các vấn đề hỗ trợ kỹ thuật, quyền của
các nước được sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình...
Liên Hiệp Quốc đã lập ra nhiều diễn đàn nhằm giải quyết các vấn đề
giải giáp vũ khí. Các diễn đàn chính là Ủy ban Thứ nhất của Đại hội đồng và
Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Giải giáp vũ khí. Những vấn đề được đưa vào
chương trình nghị sự gồm việc ước tính những giá trị có được sau những hiệp
ước cấm thử hạt nhân, kiểm soát vũ khí không gian, những nỗ lực nhằm ngăn
chặn các loại vũ khí hóa học, giải giáp vũ khí hạt nhân và vũ khí thông
thường, những khu vực không vũ khí hạt nhân, giảm bớt ngân sách quân sự,
và các biện pháp nhằm tăng cường an ninh quốc tế.
Hội nghị Giải giáp vũ khí là một diễn đàn được cộng đồng thế giới lập
ra để đàm phán về các thỏa thuận kiểm soát vũ khí đa bên và giải giáp vũ khí.
Diễn đàn có 66 thành viên đại diện cho mọi khu vực trên thế giới, gồm cả
năm quốc gia hạt nhân chính (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Pháp, Nga,
Anh và Hoa Kỳ). Những nghị quyết được Đại hội đồng thông qua thường yêu
cầu hội nghị xem xét các vấn đề giải giáp riêng biệt. Đổi lại, hàng năm hội
nghị thông báo các hoạt động của mình cho Đại hội đồng.
Về giữ gìn hòa bình.

6


Theo yêu cầu của các bên trong xung đột, Liên Hiệp Quốc đã triển khai
hơn 60 hoạt động gìn giữ hòa bình nhằm góp phần tạo môi trường thuận lợi
cho các bên đi đến các thỏa thuận chấm dứt xung đột và thực hiện các thỏa
thuận đó. Liên Hiệp Quốc đã soạn thảo và xây dựng được 15 công ước quốc
tế về giải trừ quân bị, đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình và ổn định
thế giới. Lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc được gửi tới nhiều vùng nơi

các cuộc xung đột quân sự, nhằm buộc các bên tôn trọng các thỏa thuận hòa
bình và ngăn chặn tình trạng thù địch. Các lực lượng đó do các quốc gia thành
viên Liên Hiệp Quốc đóng góp, và việc tham dự vào các chiến dịch gìn giữ
hòa bình là không bắt buộc; tới nay chỉ có hai quốc gia là Canada và Bồ Đào
Nha, đã tham gia vào tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa bình. Liên Hiệp Quốc
không duy trì bất kỳ một lực lượng quân sự độc lập nào. Tất cả các chiến dịch
gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc phải được Hội đồng bảo an thông qua.
Lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc đã được Giải Nobel năm
1998 cho công lao giữ gìn Hòa bình của họ. Năm 2001, Tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc Kofi Anan đã đoạt giải Nobel Hòa bình "vì nỗ lực cho một thế
giới hòa bình và được tổ chức tốt hơn."
Những người sáng lập Liên Hiệp Quốc đã thực sự hy vọng rằng tổ chức
này sẽ hoạt động để ngăn chặn những cuộc xung đột giữa các quốc gia và các
cuộc chiến tranh trong tương lai. Trong thời Chiến tranh lạnh (từ khoảng năm
1945 tới năm 1991), sự phân chia thế giới thành những phe thù địch khiến
thỏa thuận gìn giữ hòa bình rất khó được thông qua. Sau khi Chiến tranh lạnh
kết thúc, lại tái xuất hiện những lời kêu gọi Liên Hiệp Quốc trở thành một cơ
quan đảm bảo hòa bình quốc tế, bởi hàng chục những cuộc xung đột quân sự
vẫn tiếp tục diễn ra trên khắp thế giới. Nhưng sự tan vỡ của Liên bang Xô viết

7


cũng khiến Hoa Kỳ có được vị thế siêu cường, tạo ra nhiều thách thức mới
cho Liên Hiệp Quốc.
Về vấn đề nhân quyền.
Việc theo đuổi mục tiêu nhân quyền là một lý do chính của việc thành
lập Liên Hiệp Quốc. Sự hủy diệt tàn bạo của Thế chiến thứ hai và nạn diệt
chủng dẫn tới một kết luận chung rằng tổ chức mới này phải hoạt động để
ngăn chặn bất kỳ một thảm kịch nào như vậy trong tương lai. Một mục tiêu

ban đầu là tạo ra một khung pháp lý để xem xét và hành động trước những
vấn đề về vi phạm nhân quyền.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc bắt buộc tất cả các quốc gia thành viên
phải khuyến khích "sự tôn trọng toàn diện, và sự tuân thủ, nhân quyền" và
tiến hành "các hành động chung hay riêng rẽ" cho mục tiêu đó. Tuyên bố
Chung về Nhân quyền, được Đại hội đồng thông qua năm 1948 như là một
tiêu chuẩn chung để hướng tới đối với mọi nước thành viên. Ngày 15 tháng 3
năm 2006 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu với kết quả áp đảo để
thay thế Uỷ ban nhân quyền bằng Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Mục tiêu của nó là giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền.
Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình là nhân tố chủ chốt thúc đẩy
và áp dụng các nguyên tắc thiêng liêng trong Tuyên bố chung về Nhân quyền.
Một hoạt động quan trọng là việc Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các nước đang trong
quá trình chuyển tiếp sang chế độ dân chủ. Hỗ trợ kỹ thuật trong việc tổ chức
các cuộc bầu cử tự do và công bằng, cải thiện các cơ cấu pháp lý, khởi thảo
hiến pháp, huấn luyện các nhân viên nhân quyền, và chuyển các phong trào
vũ trang thành các đảng chính trị đã đóng góp rất lớn vào quá trình dân chủ
hóa trên khắp thế giới.

8


Liên Hiệp Quốc cũng là một diễn đàn hỗ trợ quyền phụ nữ tham gia
đầy đủ vào đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước họ. Liên Hiệp
Quốc góp phần vào việc hướng sự chú ý của dư luận vào khái niệm nhân
quyền thông qua các hiệp ước của nó.
Đầu năm 2006, một nhóm hội thảo chống tra tấn tại Liên Hiệp Quốc đã
đề xuất việc đóng cửa Nhà tù Vịnh Guantanamo và chỉ trích cái gọi là sự sử
dụng những nhà tù bí mật và sự nghi ngờ việc vận chuyển tù nhân tới nước
ngoài cho mục đích hỏi cung của Hoa Kỳ. Một số thành viên Đảng Dân chủ

Hoa Kỳ và các nhóm nhân quyền cho rằng hệ thống nhà tù bí mật của CIA
không cho phép giám sát được các vụ vi phạm nhân quyền và hy vọng chúng
sẽ sớm bị đóng cửa.
Về hỗ trợ nhân đạo và phát triển quốc tế.
Phối hợp với các tổ chức khác như Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ,
Liên Hiệp Quốc cung cấp thực phẩm, nước uống, nơi cư ngụ và các dịch vụ
nhân đạo khác cho những người dân đang phải chịu nạn đói, phải rời bỏ nhà
cửa vì chiến tranh, hay bị ảnh hưởng bởi các thảm họa khác. Các cơ quan
nhân đạo chính của Liên Hiệp Quốc là Chương trình Lương thực Thế giới (đã
giúp cung cấp thực phẩm cho hơn 100 triệu người mỗi năm ở hơn 80 quốc
gia), Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn hiện điều hành các dự án ở hơn
116 nước, cũng như các chiến dịch gìn giữ hòa bình tại hơn 24 quốc gia.
Liên Hiệp Quốc cũng tham gia vào việc hỗ trợ phát triển, ví dụ thông
qua việc đưa ra Các mục tiêu Thiên niên kỷ . Chương trình Phát triển Liên
Hiệp Quốc (UNDP) là tổ chức đa bên lớn nhất tiến hành hỗ trợ kỹ thuật trên
thế giới. Các tổ chức khác như Tổ chức y tế thế giới (WHO), Quỹ thế giới
Phòng chống AIDS, lao và sốt rét - là các định chế hàng đầu trong cuộc

9


chiến chống lại bệnh tật trên thế giới, đặc biệt tại các nước nghèo. Quỹ dân
số Liên Hiệp Quốc là nhà cung cấp chính các dịch vụ sinh sản, giúp giảm tỷ
lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em tại hơn 100 quốc gia. Hàng năm Liên Hiệp
Quốc còn đưa ra chỉ số Phát triển con người (HDI), một biện pháp so sánh
xếp hạng quốc gia theo sự đói nghèo, học vấn, giáo dục, tuổi thọ, và các yếu
tố khác, để các nước thấy được mức độ phát triển của mình, từ đó có kế
hoạch phát triển và thông qua đó Liên Hiệp Quốc cũng có kế hoạch hỗ trợ
các nước này phát triển.
Về xây dựng, thực hiện các hiệp ước và luật pháp quốc tế.

Liên Hiệp Quốc đàm phán các hiệp ước như Thỏa ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển nhằm tránh những nguy cơ xung đột quốc tế biển tiềm tàng.
Những tranh cãi về việc sử dụng các đại dương có thể được phân xử tại một
tòa án đặc biệt.
Tòa án Pháp lý Quốc tế (ICJ) là tòa án chính của Liên Hiệp Quốc. Mục
tiêu của tòa án này là để phán xử những tranh cãi giữa các quốc gia thành
viên. ICJ bắt đầu hoạt động năm 1946 và vẫn đang xem xét nhiều vụ việc.
Các trường hợp đáng chú ý gồm:
Côngô và Pháp, khi Cộng hòa Dân chủ Côngô cáo buộc Pháp bắt giữ
bất hợp pháp các cựu lãnh đạo bị cho là tội phạm chiến tranh; và Nicaragua
với Hoa Kỳ, khi Nicaragua buộc tội Mỹ trang bị vũ khí bất hợp pháp cho
Contras (vụ này dẫn tới Vụ Iran-Contra).
Năm 1993, đối phó với sự "thanh lọc sắc tộc" tại Nam Tư cũ, Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thành lập Tòa án tội phạm quốc tế cho Nam Tư cũ.
Năm 1994, đối phó với nạn diệt chủng tại Rwanda, Hội đồng đã thành lập

10


Tòa án tội phạm quốc tế cho Rwanda. Việc phán xử tại hai tòa án đó đã thiết
lập nên cơ sở xác định hiện nay rằng hành vi tội phạm cưỡng bức trong những
cuộc xung đột quân sự là tội ác chiến tranh.
Năm 1998 Đại hội đồng kêu gọi triệu tập một hội nghị tại Rôma về
việc thành lập một Tòa án Tội phạm Quốc tế (ICC), tại đây "Quy chế Rôma"
đã được thông qua. Tòa án Tội phạm quốc tế bắt đầu hoạt động năm 2002 và
tiến hành phiên xử đầu tiên năm 2006 (hoạt động của ICC độc lập với Liên
Hiệp Quốc cả về nhân sự và tài chính). Đây là tòa án quốc tế thường trực đầu
tiên chịu trách nhiệm xét xử những người bị cho là phạm các tội ác nghiêm
trọng theo luật pháp quốc tế gồm cả tội ác chiến tranh, tội diệt chủng và
Những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.

Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là tám mục tiêu mà toàn bộ 192
nước thành viên Liên Hiệp Quốc đã đồng ý sẽ hoàn thành vào năm 2015. Ước
tính rằng cần chi khoảng 40-60 tỷ dollar mỗi năm để đạt tám mục tiêu trên.
Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc, được ký kết tháng 9 năm
2000, gồm:
1.

Loại trừ nghèo đói.

2.

Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học.

3.

Khuyến khích bình đẳng giới và tăng quyền cho phụ nữ.

4.

Giảm tỷ lệ tử vong trẻ em.

5.

Cải thiện sức khỏe bà mẹ.

6.

Chiến đấu chống HIV/AIDS, sốt rét, và các bệnh tật khác.

7.


Đảm bảo môi trường bền vững.

8.

Khuyến khích mối quan hệ đối tác phát triển quốc tế.

11


Trên đây là một số vấn đề cơ bản thể hiện vai trò to lớn của Liên Hiệp
Quốc trong đời sống quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh đó, Liên Hiệp Quốc cũng
còn tồn tại một số yếu kém, bất cập, đó là:
Bộ máy chậm cải cách, đổi mới; thiếu hiệu năng do tính quan liêu và
hiện tượng tham nhũng; sự phân biệt đối xử giữa Israel - Palextin; sự bất lực
trước vấn đề diệt chủng và nhân quyền ở một số khu vực; vụ bê bối trong
chương trình đổi dầu lấy lương thực; hay những cáo buộc lính gìn giữ hòa
bình Liên Hiệp Quốc cưỡng dâm tại Congo, Haiti, Liberia và Sudan… Những
yếu kém này không thể khắc phục một sớm một chiều mà cần phải có sự nỗ
lực của tất cả các quốc gia thành viên và phải có những giải pháp hữu hiệu,
với những chi phí lớn mới có thể khắc phục được.
2. VAI TRÒ CỦA VIỆT NAM TRONG LIÊN HIỆP QUỐC.

Ngay sau khi dân tộc vừa giành lại được độc lập vào năm 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt cho nước Việt Nam mới viết thư gửi Khóa họp
đầu tiên của Đại hội đồng tổ chức tại London (tháng 1/1946) khẳng định sự
ủng hộ của Việt Nam đối với những mục tiêu của Liên Hiệp Quốc và bày tỏ
mong muốn được góp sức vào công việc chung của tổ chức thế giới mới đó.
Kể từ đó, nhân dân Việt Nam đã vượt qua muôn vàn thử thách khắc
nghiệt, phấn đấu vì những mục tiêu thiêng liêng của cả dân tộc, đồng thời

cũng là những lý tưởng của Liên Hiệp Quốc là hòa bình, quyền tự quyết, bình
đẳng cho mọi dân tộc, và cũng từ đó để mỗi con người có thể vươn lên đạt
những hoài bão xứng với địa vị, phẩm giá của mình. Chính những thắng lợi
mà nhân dân Việt Nam đạt được cũng là thắng lợi của những người yêu
chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, góp phần vào việc thực hiện những lý
tưởng của Liên Hiệp Quốc.

12


Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức là thành viên của Liên Hiệp
Quốc. Ngay từ những ngày đầu tham gia Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã chủ
động đóng góp tiếng nói về những vấn đề liên quan đến hòa bình, ổn định,
hợp tác ở Đông - Nam Á và thế giới. Đồng thời, Việt Nam tích cực cùng
nhiều quốc gia thành viên các nước thúc đẩy Liên Hiệp Quốc thông qua các
nghị quyết, quyết định cùng các biện pháp cụ thể nhằm phát huy vai trò của
Liên Hiệp Quốc, tăng cường sự phối hợp giữa các dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống chạy đua vũ trang, thực hiện giải trừ quân bị, ngăn ngừa và giải
quyết các tranh chấp, xung đột quốc tế bằng biện pháp hòa bình, bảo vệ độc
lập và quyền tự quyết của các dân tộc, cải thiện môi trường kinh tế quốc tế,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo đảm quyền con người.
Trong những năm qua, hoạt động của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc thể
hiện rõ nét đường lối đối ngoại của chúng ta là độc lập tự chủ, hòa bình, hợp
tác, phát triển với chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ quốc tế, là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham
gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Việt Nam đã đóng góp
quan trọng vào việc đưa Đông - Nam Á từ một khu vực bị chia rẽ, đối đầu bởi
chiến tranh, trở thành một khu vực hòa bình, hữu nghị, hợp tác, không có vũ
khí hạt nhân và đang hướng tới hình thành Cộng đồng ASEAN thống nhất,
hợp tác toàn diện và mở quan hệ với các nước trên thế giới. Việc quan hệ của

nước ta được mở rộng về mặt ngoại giao với gần 200 nước và hợp tác về kinh
tế thương mại với hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ, cùng với việc nước ta
là thành viên tích cực của nhiều tổ chức và diễn đàn toàn cầu và khu vực, đã
tạo những điều kiện thuận lợi mới cho hợp tác giữa nước ta với các quốc gia
thành viên khác trong các công việc của Liên Hiệp Quốc.

13


Trong các lĩnh vực công việc cụ thể của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam với
tư cách là một trong 66 thành viên của Hội nghị giải trừ quân bị tại Genève đã
tích cực tham gia vào các hoạt động của diễn đàn nhằm thực hiện mục tiêu
giải trừ quân bị toàn diện và triệt để do Liên Hiệp Quốc đề ra. Việt Nam
nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ thành viên của các điều ước quốc tế về
chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, thực hiện đầy đủ các nghị quyết của
HĐBA về báo cáo các biện pháp thực hiện các điều ước này, mới đây đã phê
chuẩn Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện và ký Nghị định thư bổ sung cho
Hiệp ước bảo đảm hạt nhân theo Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Việt Nam ủng hộ các cố gắng của các nước cùng Liên Hiệp Quốc tìm
các giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột khu vực và đang hoàn tất quá
trình chuẩn bị liên quan đến việc tham gia một cách có hiệu quả vào hoạt
động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, phù hợp với điều kiện và khả
năng của Việt Nam. Việt Nam coi trọng việc tăng cường đối thoại với các
nước, hợp tác quốc tế trong và ngoài Liên Hiệp Quốc trên các vấn đề liên
quan đến việc thúc đẩy quyền con người, trong đó có việc báo cáo về việc
thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành
viên và tham gia vào các cơ chế nhân quyền của Liên Hiệp Quốc như
ECOSOC, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Đại hội đồng, Ủy ban nhân quyền
và nay là Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc.
Việt Nam được Liên Hiệp Quốc đánh giá cao về việc hoàn thành trước

thời hạn nhiều mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, triển khai thành công đồng
thời chia sẻ kinh nghiệm của mình trong việc thực hiện các chương trình hành
động của các hội nghị Liên Hiệp Quốc về phát triển xã hội, môi trường, an
ninh lương thực, tài chính cho phát triển, nhà ở, nhân quyền, dân số và phát
triển, phụ nữ, trẻ em, chống phân biệt chủng tộc, phòng chống HIV/AIDS...

14


Việt Nam cũng đã thể hiện ý thức trách nhiệm cao đối với vấn đề cải tổ
Liên Hiệp Quốc, hiện đang đóng góp cụ thể vào việc đổi mới hệ thống phát
triển của Liên Hiệp Quốc bằng việc cùng các tổ chức của Liên Hiệp Quốc
thực hiện có kết quả sáng kiến "Một Liên hợp quốc" ở Việt Nam sau khi được
Liên Hiệp Quốc chọn làm một trong tám nước trên thế giới thực hiện thí điểm
sáng kiến này.
Ghi nhận những đóng góp nhiều mặt của Việt Nam vào công việc của
Liên Hiệp Quốc, các quốc gia thành viên đã nhiều lần bầu Việt Nam vào cơ
chế lãnh đạo của nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc như Phó Chủ tịch Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc, thành viên ECOSOC, Chủ tịch Đại hội đồng Tổ chức
Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Phó Chủ tịch Hội đồng chấp hành tổ
chức UNDP/UNFPA, Ủy ban Nhân quyền, Hội đồng thống đốc Cơ quan
Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA), Hội đồng điều hành các tổ chức Liên
minh Bưu chính thế giới (UPU) và Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Hội
đồng chấp hành các Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
(UNESCO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Hội đồng quản trị Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO).
Xuất phát từ đường lối đối ngoại rộng mở và với mong muốn đóng góp
hơn nữa vào những hoạt động của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực hòa bình
- an ninh quốc tế, từ năm 1997, Việt Nam đã ứng cử vào vị trí Ủy viên không
thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009 và

đã tích cực chuẩn bị cho việc đảm nhận vai trò quan trọng này. Tháng
10/2006, Việt Nam được Nhóm các nước châu Á nhất trí đề cử là ứng cử viên
của châu lục và ngày 16/10/2007, tại khoá họp thường niên lần thứ 62 Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc, với 183/190 phiếu tán thành, Việt Nam đã chính thức
được bầu làm thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp

15


Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Với sự kiện này, Việt Nam đã thực sự bước ra
biển lớn, tham dự đội hoa tiêu, lái con tàu thế giới đi đến những bến bờ mới.
Các quốc gia nhiều lần là thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an,
thường là các cường quốc và nước lớn có ảnh hưởng lớn đến quốc tế như
Nhật Bản, Đức, Achentina, Braxin… Với việc được bầu làm ủy viên không
thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009, là đỉnh
cao của quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, thể hiện vị thế chính trị và
ngoại giao của Việt Nam trên trường quốc tế và là một vinh dự lớn mà không
phải quốc gia nào cũng có được.
Vào Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, Việt Nam có quyền được bàn
luận, tham gia giải quyết những vấn đề lớn của thế giới, được quyền bỏ phiếu
thông qua những quyết định quan trọng, đóng vai trò dung hoà giữa các quan
điểm khác nhau khi các uỷ viên thường trực bất đồng về một vấn đề nào đó và
đại diện cho tiếng nói của các nước đang phát triển đối với những vấn đề mà
họ quan tâm.
Vai trò của Việt Nam còn được nhân lên với việc các thành viên Liên
hợp quốc có thể phải tranh thủ lá phiếu của Việt Nam về một vấn đề cụ thể
nào đó. Vai trò này càng quan trọng trong tháng Việt Nam giữ chức Chủ tịch
luân phiên Hội đồng bảo an. Với những quyết định đúng, bỏ phiếu hay không
bỏ phiếu, hoặc bỏ phiếu trắng trên các hồ sơ nhạy cảm quốc tế, Việt Nam
hoàn toàn có thể tranh thủ nhiệm kỳ 2 năm uỷ viên không thường trực để

nâng cao uy tín chính trị và ngoại giao của mình, đấu tranh nâng cao vai trò
của Liên Hiệp Quốc, của các nước đang phát triển, hậu thuẫn cho việc bảo vệ
chủ quyền quốc gia, duy trì hoà bình và ổn định trên thế giới.
Trong hơn một năm là ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an
Liên Hiệp Quốc, điều kiện tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, Việt

16


Nam phải xử lý nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề mang tính định kỳ
trong hoạt động của Hội đồng bảo an, ngoài ra còn rất nhiều yếu tố xảy ra mà
chúng ta không thể lường hết được như tình hình lộn xộn trong bầu cử tại
Zimbabwe; xung đột Dafur (Sudan), nơi Liên Hiệp Quốc và Liên minh châu
Phi (AU) triển khai quân; cuộc chiến Nga-Gruzia…
Ngay sau khi chính thức đảm nhiệm vị trí này tại tổ chức lớn nhất hành
tinh (1-1-2008), Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò tích cực của mình. Việt Nam
đã cùng các nước thành viên tham gia và có ý kiến trong nhiều cuộc họp của
Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc và tham gia giải quyết nhiều vấn đề quan
trọng liên quan đến hòa bình và an ninh trên toàn cầu. Những đóng góp của
Việt Nam trong Liên Hiệp Quốc sau hơn một năm là ủy viên không chính
thức Hội đồng bảo an, được thể hiện trên một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, Việt Nam chủ động, bắt nhịp nhanh với cường độ làm việc cao,
tham gia đầy đủ, tích cực các hoạt động của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc.
Việt Nam đã tham gia và có ý kiến tại hơn 1.000 cuộc họp các cấp dưới mọi
hình thức, góp phần thông qua khoảng 150 văn kiện của Hội đồng bảo an
Liên Hiệp Quốc về nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến hòa bình và an ninh
trên toàn cầu, trong đó đã tham gia tất cả hơn 300 cuộc họp cấp Đại sứ, hàng
trăm cuộc họp cấp chuyên viên và các cuộc họp của các Uỷ ban thuộc Hội
đồng bảo an. Đảm nhiệm tốt trọng trách là Chủ tịch Uỷ ban 1132 về Xiêra
Lêôn, Phó Chủ tịch các Uỷ ban 1533 về CHDC Cônggô, Uỷ ban 1636 về

Libăng và Uỷ ban Chống khủng bố. Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc và các
nước thành viên Liên Hiệp Quốc đều bày tỏ khâm phục và đánh giá cao Việt
Nam có quan điểm độc lập, xây dựng, hợp tác và có trách nhiệm đối với các
hoạt động của Hội đồng bảo an.

17


Hai là, Việt Nam tích cực đóng góp vào việc đề cao các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế, đảm bảo cho Hội
đồng bảo an hoạt động đúng chức năng nhiệm vụ, tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Việt Nam đề cao và cương quyết
bảo vệ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia,
không chính trị hoá các vấn đề nhân đạo. Trong vấn đề Mianma, Việt Nam
ủng hộ đối thoại, hoà giải, hoà hợp dân tộc và vai trò hỗ trợ của cộng đồng
quốc tế cho một giải pháp toàn diện, chấp nhận được đối với tất cả các bên và
phải do nhân dân Mianma quyết định. Trong vấn đề hạt nhân của Iran, Việt
Nam thể hiện lập trường nhất quán ủng hộ việc sử dụng năng lượng hạt nhân
vì mục đích hoà bình và ngăn ngừa phổ biến vũ khí hạt nhân. Đối với vấn đề
Côxôvô, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến
chương Liên Hiệp Quốc, Việt Nam khẳng định việc Côxôvô đơn phương
tuyên bố độc lập không phù hợp tinh thần Nghị quyết 1244 của Hội đồng bảo
an Liên Hiệp Quốc.
Ba là, Việt Nam có những đóng góp tích cực vào việc giảm căng thẳng
và hỗ trợ giải quyết các vấn đề còn tồn tại ở các khu vực trên thế giới, đồng
thời quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng của tất cả các bên. Quan điểm nhất
quán của Việt Nam tại Hội đồng bảo an là mong muốn tất cả các bên kiềm
chế, tìm giải pháp hoà bình toàn diện thông qua thương lượng, tránh làm tổn
hại dân thường trong các cuộc xung đột. Đối với các khu vực có tranh chấp,
xung đột, Việt Nam kêu gọi tăng cường đối thoại để giải quyết và khuyến

khích các tiến bộ đã đạt được vì hoà bình, ổn định chung của khu vực và trên
thế giới.
Bốn là, Các vấn đề tại Hội đồng bảo an được Việt Nam thường xuyên
trao đổi với các nước; coi trọng tham vấn, trao đổi với các nước lớn; qua đó
tăng cường hiểu biết, xây dựng mối quan hệ làm việc tin cậy, thẳng thắn, xử

18


lý bất đồng trên tinh thần trách nhiệm, xây dựng, tăng cường quan hệ song
phương và đa phương, góp phần xây dựng tình đoàn kết giữa các nước trong
Liên Hiệp Quốc cũng như trên thế giới.
Năm là, Việt Nam đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch luân phiên
của Hội đồng bảo an vào tháng 7/2008 và tháng 10/2009. Việt Nam đã phối
hợp với các nước xây dựng chương trình nghị sự và điều hành tốt các cuộc
họp của Hội đồng bảo an, xử lý khéo léo đúng thủ tục các vấn đề phát sinh.
Việt Nam đã có sáng kiến tổ chức phiên họp mở về “trẻ em và xung đột vũ
trang”, thảo luận mở về “tình hình Trung Đông” và trong tháng giữ vai trò
chủ tịch luân phiên lần 2 tháng 10/2009 Việt Nam đã đưa ra sáng kiến về việc
tổ chức phiên thảo luận mở với chủ đề: “Phụ nữ, Hòa bình và an ninh”. Đặc
biệt, Việt Nam đã soạn thảo và thương lượng thành công Báo cáo năm của
Hội đồng bảo an (từ tháng 8/2007 đến 7/2008), được các nước hoan nghênh,
góp phần minh bạch hoá hoạt động của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc.
Sáu là, những đóng góp tích cực, hiệu quả vào các hoạt động của Hội
đồng bảo an đã nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, tạo thêm điều kiện
thuận lợi cho việc thúc đẩy quan hệ song phương với các nước. Trước thái độ
thiện chí, hợp tác và đóng góp thực chất, độc lập của Việt Nam tại Hội đồng
bảo an, các nước đều coi trọng và nêu thành nội dung hợp tác quan trọng
trong làm việc và tuyên bố chung với lãnh đạo cấp cao Việt Nam.
Hơn 30 năm đã trôi qua kể từ khi trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc,

Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp tích cực trong các hoạt động của tổ
chức này nói riêng cũng như cộng đồng quốc tế nói chung. Với tốc độ phát
triển kinh tế nhanh và liên tục, với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào
tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, vai trò và vị thế của Việt Nam tại Liên

19


Hiệp Quốc cũng như trên trường quốc tế đã và đang ngày càng được nâng
cao; những đóng góp của Việt Nam cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi
nhận. Phát huy những thành tựu đã đạt được, với uy tín và kinh nghiệm của
mình, Việt Nam mong muốn và sẵn sàng phối hợp với các quốc gia thành
viên Liên Hiệp Quốc, đóng góp nhiều hơn nữa vào lĩnh vực bảo vệ hoà bình
và an ninh trên toàn cầu. Với tinh thần tích cực, xây dựng, hợp tác, có trách
nhiệm trong đời sống quốc tế, Việt Nam quyết tâm phối hợp cùng các quốc
gia thành viên Liên Hiệp Quốc và các đối tác của Liên Hiệp Quốc phấn đấu
phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức Liên Hiệp Quốc vì lợi ích chung của các
dân tộc.
Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và
khó lường. Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các
nước theo hai hướng cả tích cực và tiêu cực. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham
gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân
tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày
càng đa dạng và phức tạp.
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn, nhưng cũng chứa đựng rất
nhiều thách thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước,

thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là
tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác,
liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để
Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên,
chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ

20


mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996
là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới,
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà
bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp,
đan xen và tác động lẫn nhau.
Để phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong hơn hai thập kỷ
tiến hành công cuộc đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; cũng như
đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung của thế giới vì hòa bình, an ninh và
phát triển, chúng ta cần tiếp tục kiên trì: "Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh
vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực" (1) như Đại hội
X của Đảng đã đề ra.

1

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.112.


21



×