Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận Lịch sử văn hóa tư tưởng phương Đông Đề bài Phật giáo với văn hóa Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.74 KB, 22 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI</b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN</b>

<b>Tiểu luận giữa kì</b>

Tên học phần: Lịch sử văn hóa tư tưởng phương Đơng Mã lớp: SEA1100

GVHD: Lê Đình Chỉnh

Đề bài: Phật giáo với văn hóa Đơng Nam Á Họ và tên sinh viên: Vũ Bảo Anh

MSSV: 23030296

Email:

Hà Nội tháng 1 năm 2024

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>ục lụcA – Mở đầu………</b>

………3I. Lý do chọn đề tài……… ………

………3II. Phương pháp nghiên cứu…………

………...3III. Bố cục của đề tài. Gồm 3 mục lớn:………

…………..4B – Nội dung………

……….….SII. Con đường du nhập và sự phát triển của Phật giáo với Đông Na Á……..91. Phật giáo du nhập vào Đông Nam Á………

……….92. Đặc điểm của Phật giáo ở Đông Nam Á………

……...11a, Phật giáo ở Việt nam………

………….12b, Phật giáo ở Thái Lan……… …

… ………….16a, Phật giáo với văn học Đông Nam Á……… …

………..1Sb, Kiến trúc điêu khắc Phật giáo……… ……

………19Kết luận………

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>A – Mở đầu</b>

<b>I. Lý do chọn đề tài.</b>

Phật giáo - một trong những tôn giáo ra đời sớm và phổ biến nhất trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo được thiết lập do Đức Phật, mang theo những học thuyết triết học to lớn vì sự hạnh phúc của chúng sinh, đưa con người thoát khỏi bể khổ và là sự tiến bộ của thế giới loài người trong tư tưởng. Có thể nói Phật giáo là một tơn giáo thiết thực có sự chủ trương trong lý thuyết và thực hành trong cuộc sống mỗi người nên tôn giáo này dễ dàng tiếp cận và du nhập với nhiều người, đi đến nhiều nơi trên thế giới. Mọi người đều có thể áp dụng những giáo lý, lời giảng dạy, hướng dẫn của Đức Phật vào cuộc sống tùy theo từng hoàn cảnh, những khả năng điều kiện và ý chí của bản thân. Giải quyết vấn đề tâm linh, những đau khổ bất hạnh của chính mình và cũng cứu giúp người khác để tu dưỡng tích đức tấm lịng từ bi.

Tùy theo từng giai đoạn lịch sử, những diễn biến chuyển hóa của xã hội, thế giới mà Đạo phật có những tư tưởng, học thuyết khác nhau, phát triển theo nhiều hướng ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến cuộc sống con người trong nhiều khía cạnh như: văn hóa, nghệ thuật, thói quen, đạo đức, suy nghĩ của mỗi người.

Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ, qua những con đường khác nhau mà du nhập vào và ảnh hưởng sâu đậm đến Châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á trong đó có Việt Nam ta. Phật giáo đã đi vào cuộc sống con người một cách tự nhiên và đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội và tinh thần, đó là lý do tơi chọn đề tài

<i><b>“Phật giáo với văn hóa Đơng Nam Á”, kết hợp cùng sự nghiên cứu về ngành </b></i>

Đông Nam Á học của mình.

<b>II. Phương pháp nghiên cứu.</b>

- Phương pháp phân tích – tổng hợp nghiên cứu

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

- Phương pháp lịch sử

<b>III. Bố cục của đề tài. Gồm 3 mục lớn:</b>

Phật giáo và sự ra đời của Phật giáo.

Con đường du nhập và sự phát triển của Phật giáo với Đông Nam Á Phật giáo ảnh hưởng tới văn hóa Đơng Nam Á.

<b>B – Nội dung</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>I. Phật giáo và sự ra đời của Phật giáo.1. Sự ra đời của Phật giáo.</b>

Vào giữa thiên kỉ I TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện một số tư tưởng chống đạo Bàlamôn. Đạo phật là một trong những dòng tư tưởng ấy.

Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Phật là Xitđácta Gôtama (Siddharta Gautama), sau khi thành Phật được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni (Thích ca Mâu Ni), con vua Sutđôđana nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya, miền đất bao gồm một phần miền Nam nước Nêpan và một phần của Ấn Độ ngày nay. Năm 29 tuổi, hồng tử Xitđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do dó cho rằng đã tìm được con đường cứu vớt. Từ đó, ơng được gọi là Buddha, ta quen gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là "người đã giác ngộ", "người đã hiểu được chân lí". Về niên đại của Phật, hiện nay đang có những ý kiến khác nhau. Có một số người

<i>TCN làm năm mở đầu kỉ nguyên Phật giáo. (Trang 84-85 Giáo trình Lịch sử văn minh thế giới – Vũ Dương Ninh chủ biên , Nxb giáo dục Việt Nam) </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Phật giáo đã được Tất Đạt Đa Cồ Đàm - người sáng lập ra Phật giáo thuyết giảng tại miền bắc Ấn Độ vào những năm của thế kỷ 6 TCN. Tôn giáo này được theo Phật giáo Bắc tông). Khi Đức Phật còn tại thế đã đến nhiều nơi, nhiều dân tộc nên lịch sử phát triển của Phật giáo được thấy là rất đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức, nghi lễ hay phương pháp thực tập, tu học. Ngay từ những buổi đầu tiên, Đức Phật đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ.

Nhưng tại Ấn Độ, Phật giáo có thể đã bắt đầu suy tàn từ thế kỷ VII và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn Độ từ đầu thế kỉ thứ 13 do sự đàn áp mạnh của chính quyền và qn Hồi giáo bên ngồi. Tuy nhiên do Phật giáo đã được truyền bá đến nhiều nơi trên thế giới, nhờ sự khai sáng, sự uyển chuyển linh động trong giáo lý học thuyết đã đã tiếp cận được nhiều dân tộc quốc gia, từ Tây Tạng, Trung Quốc, Đông Bắc Á, Đông Nam Á. Nó đã thích nghi cùng hồn cảnh điều kiện sống của người dân ở nhiều tầng lớp xã hội, phong tục tập quán, thói quen của các nước. Thậm chí khai sáng các nước có nền khoa học kĩ thuật tự nhiên phát triển ở Châu Âu như Hoa Kỳ, Canada, Úc….tại đây nhiều nhà triết học đã nghiên cứu đồng thời truyền bá Phật giáo một cách rộng rãi. Bởi vậy

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Phật giáo vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay với sống lượng tín đồ đơng đảo, trở thành quốc giáo của nhiều quốc gia, là một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế giới.

<b>2. Giáo lý và học thuyết của Phật giáo.</b>

Giáo lý cốt lõi của Phật giáo là “từ bi” và “trí tuệ”, hai yếu tố trụ cột chính để hướng con người tới việc sử dụng trí tuệ sự hiểu biết thơng minh của mình để hiểu thế giới thực từ đó sống từ bi, lương thiện. Toàn bộ giáo pháp của Phật giáo được chứa đựng trong Tam tạng, gồm có: Kinh tạng, Luật tạng, Luân tạng. Trong kinh Di Giáo, trước khi vào Niết bàn, Phật Thích ca để lại lời răn

<i>dạy: "Sau khi Như Lai diệt độ rồi, các Tỳ kheo hãy lấy Giới luật làm Thầy". Trong</i>

tam tạng pháp bảo (Tạng Kinh, Tạng Luật, Vi Diệu Pháp), Phật coi Giới Luật là

<i>điều quan trọng nhất để duy trì đạo phật - “Giới luật cịn, Phật pháp vẫn cịn. Giới luật khơng cịn, Phật pháp cũng mất”. </i>

Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được sơ lược trong một câu nói của

<i>Phật Thích ca: "Trước đây và ngày nay ta chỉ lí giải và nêu ra cái chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ". "Cũng như nước, đại dương chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta chỉ có một vị là cứu vớt". Cái chân lí về nỗi đau </i>

khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy được thể hiện trong thuyết "tứ thánh đế" hoặc còn gọi "tứ diệu đế", "tứ chân đế", "tứ đế", nghĩa là 4 chân lí thánh. Đó

<i>là: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. (Trang 85, Giáo trình Lịch sử văn minh thế giới – Vũ Dương Ninh chủ biên , Nxb giáo dục Việt Nam)</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- Không sát sinh - Không trộm cắp - Không tà dâm - Không nói dối - Khơng uống rượu

Về mặt giới quan, học thuyết của Phật giáo là Duyên khởi có thể hiểu là “các pháp đều do nhân duyên mà có”. Mọi vật đều do nhân duyên cùng nhau hòa hợp mà tạo thành, mà duyên khởi là do tâm tạo ra, tâm là nguồn gốc của duyên khởi thì cũng là nguồn gốc của vạn vật. Ngoài ra Phật giáo cịn có các thuyết như: “Vơ ngã”, “vơ thường”.

Như vậy Đạo phật muốn khuyên con người từ bỏ ham muốn tham vọng, tránh làm điều ác, chăm làm điều thiện để được cứu vớt, thoát khỏi đau khổ, những thứ tự bản thân gây ra và cũng tự bản thân giải thốt cho chính mình.

Tứ thánh đế

Khổ đế là chân lí về các nỗi khổ. Có tám nỗi khổ (bát khổ): sinh lão bệnh tử, gần

Tập đế là chân lí về nguyên nhân của các nỗi khổ. Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ.

Đạo đế là chân lí về cong đường diệt khổ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>II. Con đường du nhập và sự phát triển của Phật giáo với Đông Nam Á1. Phật giáo du nhập vào Đông Nam Á.</b>

Với ưu thế hình thành từ rất sớm và với những giáo lý linh hoạt dễ dàng tiếp cận, Phật giáo đã trở thành tôn giáo lớn được truyền dạy, truyền bá đến khắp các quốc gia trên thế giới. quốc gia, Phật giáo đã du nhập vào Đông Nam Á theo nhiều con đường khác nhau từ thế kỉ III TCN. Nó xâm nhập vào các quốc gia trong từng khoảng thời gian không như nhau, và bằng những con đường du nhập khác nhau cùng đó ảnh hưởng của nó cũng khơng đều giống như nhau. Phật giáo ra đời từ thế kỷ VI TCN tại Ấn Độ, đến thế kỷ III TCN được sự ủng hộ của hoàng đế Ashoka, các phái đoàn truyền giáo Đạo phật đã được cử đến các quốc gia khác để truyền bá giáo lý đạo Phật như: vùng Tây Bắc của Shravasti (Uttar Pradesh), Pataliputra (Patna ngày nay của Ấn Độ; Taxila (Pakistan ngày nay); Sri Lanka (Ceylon); khu vực Trung Á; Trung Hoa; Myanmar; Thái Lan... Con đường truyền đạo của các phái đoàn này theo hai hướng, dọc theo các con đường thương mại quan trọng của thế giới cổ đại ta còn đường biết đến là “con đường tơ lụa”, tuyến đường thương mại lớn nhất thế giới lúc bấy giờ nối liền Châu Á với Châu Âu. Phật giáo được du nhập vào vùng Đông Nam á chủ yếu bằng con đường truyền giáo giảng dạy bởi các phái đoàn hoặc do giao lưu văn hố và quan hệ thương mại bình thường. Ban đầu, Phật giáo từ ấn Độ trực tiếp truyền dạy vào các nước ven biển phía Tây của Đơng Nam á. Dần dần, dưới sự truyền dạy quảng bá, một số nước tiếp nhận Phật giáo gián tiếp qua một hoặc nhiều nước trung gian khác. Đây cũng là một trong những nét đặc biệt của Phật giáo ở Đơng Nam á.

Chính vì thế thương mại cũng giúp Phật giáo được tiếp xúc với xã hội Đông Nam Á. Nhờ các tàu buôn, thương nhân đem theo các tang sĩ để cầu nguyện cúng dường Tam bảo. Vào những buổi đầu, Phật giáo đã thông qua đường biển

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

bằng các con thuyền buôn từ ấn Độ vào thẳng Việt Nam ta. Nhưng đến quãng thế kỷ IV – V Phật giáo lại được truyền từ phương Bắc vào.

Chính những tăng sĩ này đã thành lập ra trung tâm Phật giáo lớn nhất thời đó tại Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), miền bắc Việt Nam

Khởi nguồn từ Ấn Độ, trước sự phát triển và giao lưu của các Một dấu mốc trong dòng chảy từ thế kỷ XIII – thế kỷ XIV, Phật giáo cùng lúc xác lập trở thành quốc giáo của hai quốc gia trung đại ở Đông Nam Á là Sukkhothai (Thái Lan) và Đại Việt (Việt Nam). Trải qua những biến động của lịch sử, Phật giáo vẫn giữ vai trò là quốc giáo của Thái Lan nhưng lại suy yếu tại Việt Nam sau thời kì phát triển đỉnh cao vào thế kỷ XIV.

Ở Inđônêxia, Phật giáo Đại thừa từ rất sớm đã xuất hiện, quãng thế kỷ II. Thái Lan là đất nước với Phật giáo là tôn giáo lớn nhất Đơng Nam á, Phật giáo Tiểu thừa có mặt khoảng thế kỷ I sau cơng ngun. Cịn Campuchia khoảng thế kỷ V và Lào thì chậm hơn, khoảng thế kỷ VII và Phật giáo chính thức có ảnh hưởng rộng lớn từ giữa thế kỷ XIV… Nhưng Lào tiếp nhận Phật giáo không trực tiếp từ ấn Độ mà từ Campuchia, Thái Lan. Trong nhiều con đường tiếp thu Phật giáo của Thái Lan và Myanma có một con đường qua Srilanca. Thời kỳ đầu, Phật giáo đã qua đường biển từ ấn Độ vào thẳng nước ta. Nhưng đến quãng thế kỷ IV – V Phật giáo lại được truyền từ phương Bắc vào. Phật giáo Philippin thì được truyền bá từ Inđơnêxia hoặc Mã Lai vào.

<i>(Nguồn tham khảo: class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>2. Đặc điểm của Phật giáo ở Đông Nam Á </b>

Phật giáo cũng được hình thành những học thuyết giáo phái khác nữa dưới tác động của q trình biến đổi văn hố, lịch sử. Nó cũng vừa phải duy trì

và tiếp tục phát triển vừa phải đấu tranh với các giáo phái khác (như Bàlamôn giáo, Xê đu giáo…) vừa phải đấu tranh ngay trên phương diện học thuyết giáo lý. Đã có 2 giáo phái: Thượng toạ (Mahayana) và Phật giáo (Hinayana) được hình thành dưới những tác động biến đổi của các nhân tố nội, ngoại Tôn giáo. Đông Nam á cơ bản tiếp nhận Phật giáo Tiểu thừa và dựa theo địa bàn ảnh hưởng người ta cịn gọi Phật giáo Đơng Nam á là Phật giáo Nam Tơng. Cịn các nước Bắc á như Trung Quốc, Triều Tiên – Hàn Quốc, Nhật Bản (trừ Việt Nam) tiếp thu Phật giáo Đại thừa, nên cũng được gọi là Phật giáo Bắc tông. Phật giáo tồn tại với nhiều hình thức. Ba loại chính đại diện cho các khu vực địa lý cụ thể là:

- Phật giáo Nguyên thủy: Phổ biến ở Thái Lan, Sri Lanka, Campuchia, Lào và Miến Điện

- Phật giáo Đại thừa: Phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Việt Nam

<i>- Phật giáo Tây Tạng: Phổ biến ở Tây Tạng, Nepal, Mông Cổ, Bhutan, và một </i>

số vùng của Nga và miền bắc Ấn Độ

Ngoài ra cịn có một số phân phái của Phật giáo, bao gồm cả Phật giáo Thiền tông và Phật giáo Niết bàn.

<i>(Nguồn tham khảo: sử Phật giáo ở Đơng Nam Á thời kì đầu mới du nhập mang tính chọn lọc và rời rạc nhưng về sau đã biểu hiện rõ nét đặc trưng của tông phái Phật giáo Theravda. Tới thời kì sau, lịch sử Phật giáo tại khu vực này biểu hiện đặc trưng

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

ở mối quan hệ mật thiết hài hịa giữa bản sắc tơn giáo của Phật giáo và bản sắc dân tộc của từng quốc gia khác nhau.

<b>a, Phật giáo ở Việt nam.</b>

Từ khoảng thế kỉ thứ II sau Công Nguyên, Phật giáo ở Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đặc biệt ở miền Bắc đã thành lập một trung tâm Phật giáo tại Luy Lâu. Thừa hưởng của Phật giáo Ấn Độ khi du nhập vào trong nước ngày càng rộng mở hơn những trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa thời đó. Nhưng từ sau thế kỉ V, dưới sự tác động và ảnh hưởng của Bắc thuộc, Phật giáo Việt Nam đã chuyển dần sang dòng Mahayana của Trung Hoa với hai dịng chính được thành lập là Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) và Vô Ngôn Thông Việt Nam đã có “cái riêng” tách ra khỏi khn mẫu chung của Phật giáo ở Đông Nam Á. Trên con đường truyền đạo, các phái đoàn Phật giáo khi đi từ Ấn Độ tới Trung Hoa và các nước Đông Nam Á khác đã ghé qua Việt Nam và dừng chân tại đây. Phật giáo tại Việt Nam chủ yếu đi theo ba hình thức đặc trưng và chịu ảnh hưởng chính của Phật giáo Trung Hoa. Có 3 tông phái được truyền vào Việt Nam: Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông

+ Thiền Tông: chủ trương tập trung trí tuệ suy nghĩ để tự mình tìm ra chân lý, đề cao cái tâm.

Địi hỏi nhiều cơng phu, trí tuệ, phổ biến ở giới tri thức thượng lưu

+ Tịnh Độ tông: dựa vào sự giúp đỡ bên ngồi đề cứu chúng sinh thốt khổ thường xun đi

chùa lễ Phật, tụng niệm “Nam mô A-di-đà Phật” đơn giản, phổ biến cho mọi người giới bình

dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

+ Mật tông: sử dụng những phép tu luyện bí mật (linh phù, mật chú, ấn quyết,..) để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thốt. Hịa vào dịng tín ngưỡng dân gian Việt Nam

như cầu đồng, dùng pháp thuật, yểm bùa trị ma và chữa bệnh,...

Chính vì sự chuyển biến ấy đã dẫn tới một số hệ quả, việc sử dụng kinh văn ghi chép chữ Hán khiến việc muốn đọc được, tìm hiểu giáo lý Phật giáo thì phải am hiểu tiếng Hán. Vì vậy mà các nhà sư phải tinh thơng chữ Hán, họ có thể tinh tường cả Nho gia và Đạo gia. Khi mà nhà nước độc lập đầu tiên sau 1000 năm Bắc thuộc, bộ máy cai trị cần các nhà sư làm cố vấn và đóng vai trị quan trọng trong việc tham mưu chính trị. Bằng chứng là trong các ban của bộ máy cai trị triều Ngơ, Đinh, Tiền Lê có sự xuất hiện của Tăng ban. Sau đó Phật giáo ngày càng chiếm vị thế trong xã hội Đại Việt. Các cao tăng được mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng Như việc vua Đinh Tiên Hoàng phong đại sư Khuông Việt làm tăng thống, tiếp sứ thần nhà Tống, vua Lê Đại Hành hỏi ý kiến sư Vạn Hạnh trước khi xuất quân đánh Tống. Thời Lý, thiên sư Vạn Hạnh cố vấn mọi mặt cho vua Lý Thái Tổ.

Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam - Tính tổng hợp:

+ Hịa nhập với tín ngưỡng dân gian:

VD: Hệ thống chùa Tứ pháp vẫn chỉ là những miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên: Mây -Mưa - Sấm - Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc chùa: tiền Phật hậu Thần, đưa cả thần thánh, thành hoàng, thổ địa, các anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Hầu như không chùa nào không để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.

</div>

×