Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Bài giảng: Đánh giá tác động của môi trường pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 161 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
BỘ MÔN MÔI TRƯỜNG






BÀI GIẢNG MÔN HỌC
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG


PGS.TS NGUYỄN VĂN THẮNG
THS NGUYỄN VĂN SỸ


















Hà Nội 1/2010
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1-
1: Danh mục các dự án thuộc lĩnh vực phát triển tài nguyên nước phải lập báo
cáo ĐTM theo quy định trong Nghị Định 21/2006/NĐ-CP 25
Bảng 2-
1: Các nhóm tài nguyên và nhân tố môi trường chịu tác động của dự án 32
Bảng 2-
2: Chuỗi hoạt động-biến đổi môi trường - tác động môi trường của dự án phát
triển nông nghiệp 47
Bảng 3-
1: Bảng liệt kê số liệu môi trường để so sánh các phương án quy hoạch các hồ
chứa nước (theo Lohani và Kan, 1983) 61
Bảng 3-
2: Bảng kiểm tra danh mục dạng câu hỏi đơn giản của dự án tưới 63
Bảng 3-
3: Bảng danh mục môi trường có trọng số của dự án đập/ hồ chứa 64
Bảng 3-
4: Danh mục các TDDMT và tỷ trọng của dự án xây dựng dập và hồ chứa
Boloti trên song Mungusi ứng dụng hệ thống ước lượng môi trường Batlle EES (tổng
số điểm là 1000 đơn vị) 68
Bảng 3-
5: Kết quả áp dụng phương pháp EES cho dự án hồ Boloti 76
Bảng 3-
6: Ma trận đơn giản các tác động môi trường của dự án PTTNN 78
Bảng 3-
7: Ma trận môi trường của dự án xây dựng hồ chứa (Lohani 1982) 80
Bảng 3-
8: Ma trận môi trường của dự án xây dựng đập Quae Yai ( Lohani và N.C.

Thành) 80
Bảng 4-
1: Bảng tổng hợp các tác động tiêu cựccủa dự án xây dựng đập, hồ chứa 93
và các biện phá
p giảm thiểu 93























DANH MỤC HÌNH


Hình 1-1: Tiếp cận khá
i niệm kinh tế, xã hội, sinh thái trong phát triển bền vững 7
Hình 1-2: Chu trình dự án và trình tự thực hiện ĐTM
17
Hình 1-3: Sơ đồ khối biểu thị quá
trình ĐTM và các nghiên cứu của dự án 21
Hình 1-4: Mối quan hệ giữa quá trình ĐTM với quy hoạch và
22
thực hiện dự án (theo Escap)
22
Hình 2-1: Tác động môi trường
27
Hình 2-2: Các thành phần tài nguyê
n và môi trường bị tác động khi thực hiện dự án 29
Hình 2-3: Sơ đồ phâ
n tích nhận biết tác động môi trường dựa theo các hoạt động của
dự án 45
Hình 2-4: Sơ đồ chuỗi: Hoạt động – Biến đổi MT – Tác động MT của 49
việc sử dụng phân bón hoá học trong dự án phát triển nông nghiệp
49
Hình 3-1: Hàm giá trị chất lượng môi trường
78
MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI

TRƯỜNG 1
1.1 YÊU CẦU CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ SỰ CẦN THIẾT THỰC
HIỆN ĐÁNH GI
Á TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 1

1.1.1 Quá trình phát triển kinh tế xã hội và tác động đến môi trường
1
1.1.2 Phát triển bền vững
4
1.2 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 9
1.2.1 Khái niệm, mục đích của đá
nh giá tác động môi trường 9
1.2.2 Vai trò của đánh giá tác động m
ôi trường 10
1.2.3 Lợi ích của đánh giá tác động môi trường
11
1.3 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ĐTM
12
1.3.1 Trên thế giới
12
1.3.2 Ở Việt Nam
13
1.4 CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐTM
13
1.4.1 Giới thiệu chung về cơ sở pháp lý của ĐTM
13
1.4.2 Quá trình thực hiện ĐTM
15
1.4.3 Chu trình dự án và trình tự thực hiện ĐTM
15
1.4.4 Phân cấp dự án phải lập bá
o cáo ĐTM ở Việt Nam 24
CHƯƠNG 2
: PHÂN TÍCH NHẬN BIẾT VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG 27

2.1 KHÁI NIỆM TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG, TÁC ĐỘNG MÔI T
RƯỜNG DỰ
ÁN 27
2.1.1 Tác động môi trường 27
2.1.2 Tác động môi trường của dự án
28
2.2 CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN VÀ NHÂN TỐ MÔI TRƯỜNG BỊ TÁC ĐỘNG

CỦA DỰ ÁN 28
2.3 NỘI DUNG ĐÁNH GI
Á TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 34
2.4 PHƯƠNG PHÁP PHÂN T
ÍCH NHẬN BIẾT TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 43
2.4.1 Dựa vào các nguồn tài nguyên và nhâ
n tố môi trường để suy ra tác động 44
2.4.2 Dựa vào phân tích các hoạt động của dự án để nhận biết tác động
45
2.5 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN TỚI CÁC THÀNH PHẦN MÔI

TRƯỜNG TỰ NHIÊN 50
2.5.1 Giới thiệu chung 50
2.5.2 Đánh giá tác động của dự án tới tài nguyên và môi trường nước
50
2.5.3 Đánh giá tác động của dự án tới tài nguyên và môi trường đất
52
2.5.4 Đánh giá tác động của dự án tới môi trường không khí
52
2.5.5 Đánh giá tác động của dự án tới tài nguyên sinh vật và môi trường sinh thái
53
2.6 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN TỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI

53
2.6.1 Giới thiệu chung
53
2.6.2 Nội dung đánh giá tác động môi trường xã hội
54
2.6.3 Phương pháp đá
nh giá tác động môi trường xã hội 56
2.7 SỰ THAM GI
A CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG 56
CHƯƠNG 3: CÁC PHƯƠNG P
HÁP KỸ THUẬT DÙNG TRONG ĐÁNH GIÁ
TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 60
3.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
60
3.2 CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ NHANH
61
3.2.1. Phương pháp liệt kê các số liệu môi trường
61
3.2.2 Phương pháp kiểm tra
danh mục môi trường 62
3.2.4 Phương pháp ma trận môi trường
78
3.2.5 Phương pháp sơ đồ mạng lưới
81
3.2.6 Phương pháp chập bản đồ môi trường
82
3.3 CÁC PHƯƠNG PHÁP PHỨC TẠP, ĐÁNH GIÁ ĐỊNH LƯỢNG
84
3.3.1 Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích mở rộng

84
3.2.2 Phương pháp mô hình
86
CHƯƠNG 4: TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CỦA MỘT SỐ LOẠI HÌNH DỰ
ÁN VÀ BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU 89
4.1 GIỚI T
HIỆU CHUNG 89
4.2 DỰ ÁN XÂY DỰNG ĐẬP/ HỒ CHỨA NƯỚC
89
4.2.1 Giới thiệu chung
89
4.2.2 Xác định phạm vi
91
4.2.3 Các hoạt động của dự án
92
4.2.4 Các tác động tích cực về kinh tế, xã hội và môi trường
92
4.2.5 Các tác động tiêu cực cửa dự án
93
4.3 DỰ ÁN KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
102
4.3.1 Giơi thiệu chung về dự̣ án
137
4.3.2 Các hoạt động dự án và tác động môi trường 139
4.3.3 Các biện pháp giảm th
iểu tác động tiêu cực của dự án khai thác khoáng sản
144
4.4 DỰ ÁN PHÁT
TRIỂN ĐÔ THỊ VÀ KHU DÂN CƯ 146
4.4.1 Giới thiệu chung

146
4.4.2 Các hoạt động của dự á
n 148
4.4.3 Các tác động m
ôi trường chủ yếu 148
4.4.4 Một số giải pháp trong quy hoạch, thi công xây dựng và quản lý để̉ giảm th
iểu
các tác động tiêu cực đến môi trường của dự án 149






LỜI NÓI ĐẦU

Hiện nay bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là một vấn đề vô cùng cấp
thiết, đang được sự quan tâm hàng đầu của thế giới cũng như của nước ta nhằm đối
phó với tình trạng môi trường sống trên trái đất đang ngày càng xuống cấp, đe doạ sự
phát triển lâu bền của nhân loại.
Tập Bài giảng môn học "Đánh giá tác động môi trường” của Bộ môn Môi trường -
Khoa Môi trường của Trường Đại học Thủy lợi nhằm cung cấp các kiến t
hức cơ bản về
đánh giá tác động môi trường cho sinh viên các ngành trong toàn trường để sinh viên có
thể nắm bắt các kiến thức chủ yếu để học tập môn học trên lớp và tự học ở nhà.
Tập bài giảng do PGS.TS Nguyễn Văn Thắng và Th.s nguyễn Văn Sỹ biên soạn,
dựa theo đề cương môn học đã cải tiến và đã được Trường Đại Học Thủy Lợi thông
qua. Các sinh viên khi học tập cần tham khảo thêm các
kiến thức trong tập giáo trình “
Môi trường và dánh giá tác động môi trường ” của Bộ môn Môi trường đã xuất bản

năm 2000 có trong thư viện trường và các thông tin trên mạng của Bộ Tài nguyên và
môi trường liên quan đến cơ sở pháp lý thực hiện ĐTM ở Việt Nam có hướng dẫn trong
bài giảng.
Ngoài sử dụng làm tài liệu học tập cho sinh viên, tập bài giảng này còn có thể
làm tài liệu tham khảo cho c
ác cán bộ trong và ngoài ngành, tất cả những ai quan tâm
tới vấn đề môi trường và đánh giá tác động môi trường các công trình khai thác và sử
dụng tài nguyên nước ở nước ta.





1
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG

1.1 YÊU CẦU CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ SỰ CẦN THIẾT THỰC
HIỆN ĐÁNH GI
Á TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1.1.1 Quá trình phát triển kinh tế xã hội và tác động đến môi trường
1) Môi trường và các thành phần môi trường
Khái niệm môi trường tự nhiên và các thành phần của môi trường tự nhiên
Môi trường của một vật thể hay sự kiện, theo nghĩa chung nhất là tổng hợp tất cả
các thành phần của thế giới vật chất bao qua
nh, tác động trực tiếp hay gián tiếp tới sự
tồn tại và phát triển của vật thể hay sự kiện đó. Bất cứ một vật thể hay một sự kiện nào
cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường nhất định và nó luôn luôn chịu tác
động của các yếu tố môi trường đó.
Có thể nói môi trường là một phần của ngoại cảnh, bao gồm các hiện tượng và

các thực thể của tự nhiên mà ở đó cá thể, quần thể, loài có quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp bằng các phản ứng thíc
h nghi của mình. Từ khái niệm này có thể phân biệt
được đâu là môi trường của loài này, đâu là môi trường của loài khác.
Môi trường tự nhiên bao gồm thành phần vô sinh và thành phần hữu sinh. Môi
trường vô sinh bao gồm những yếu tố không sống, như là các yếu tố vật lý, hóa học
của đất, nước, không khí… gọi chung là môi trường vật lý. Môi trường hữu sinh ba
o
gồm các thực thể sống như là các loài động vật, thực vật và các vi sinh vật tren cạn và
dưới nước, gọi chung môi trường sinh thái. Cách phân loại này cần nhớ vì nó là cơ sở
để nhận biết cũng như tiến hành đánh giá các tác động môi trường mà chúng ta sẽ học
trong các phần sau của môn học này.
Môi trường sống của con người
Đối với con người thì môi trường chứa đựng nội dung rộng hơn. Theo định nghĩa
của UNESCO (1981) thì “môi trường sống của con người ba
o gồm toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, như những cái hữu hình (như các
thành phố, các hồ chứa ) và những cái vô hình (như tập quán, nghệ thuật ), trong đó
con người sống và bằng lao động của mình họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và
nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình”. Như vậy, môi trường sống của con
người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực thể sinh vật là
con người, mà còn là “khung cảnh của c
uộc sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của
con người”.
Trong môn học này, đánh giá tác động môi trường chúng ta sẽ học không chỉ là
đánh giá tác động đến thành phần môi trường tự nhiên (vật lý, sinh thái) mà còn phải
đánh giá tác động đến thành phần môi trường xã hội để xem
dự án có tác động gì xấu
tới cuộc sống của cộng đồng dân cư sống trong vùng dự án hay không và tác động đó
như thế nào.

Sự tồn tại và phát triển của con người luôn phụ thuộc vào “chất lượng của môi

2
trường sống”. Quá trình phát triển kinh tế xã hội của con người ngày nay luôn có các
tác động tích cực và tiêu cực tới chất lượng của môi trường sống. Tác động tiêu cực,
thí dụ như gây ô nhiễm môi trường đã và đang làm suy giảm nhanh chóng chất lượng
môi trường sống của con người đang là điều lo ngại và đáng quan tâm nhất của nhân
loại ngày nay.
Để con người trên trái đất tồn tại và phát triển một cách bền vững, thì môi trường
sống của con người cần phải được bảo vệ. Nếu chất lượng của môi trường sống bị
giảm sút thì con người sẽ bị ảnh hưởng ngay và nếu c
hất lượng của môi trường sống
giảm đến một mức độ nguy hiểm thì có thể dẫn đến các hiểm hoạ không thể lường
được mà các thế hệ con cháu mai sau sẽ phải gánh chịu. Cũng cần lưu ý rằng, việc phá
hoại và làm suy giảm c
hất lượng môi trường thì rất dễ và nhanh chóng, nhưng khi mà
chất lượng của môi trường đã suy giảm tới mức độ nguy hiểm thì việc làm tốt lại sẽ vô
cùng khó khăn, tốn kém và cũng phải trong một thời gian rất dài mới khôi phục lại
được. Vì thế, việc bảo vệ môi trường sống luôn là vấn đề quan trọng và cấp thiết của
nhân loại trong quá trình sống và phát triển của m
ình.
2) Phát triển tác động đến môi trường
Phát triển
Con người trong quá trình tồn tại luôn tiến hành các hoạt động phát triển kinh tế
xã hội, gọi tắt là “phát triển”. Đó là quá trình sử dụng các nguồn tài nguyên của tự
nhiên để đáp ứng những nhu cầu về cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
Các hoạt động phát triển nhằm nâng cao điều kiện vật chất tinh thần của con người
bằng phát triển lực lượng sản x
uất, thay đổi quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội, nâng
cao chất lượng hoạt động văn hóa.

Một định nghĩa khác của phát triển theo Davit Munro thì “phát triển là bất kỳ và
toàn bộ những loại hoạt động và quá trình làm tăng được năng lực của con người hoặc
môi trường để đáp ứng những nhu cầu của con người hoặc nâng cao chất lượng cuộc
sống con người”.
Sản phẩm của sự phát triển là mọi người được mạnh khoẻ, được nuôi dưỡng tốt,
có quần áo mặc, có nhà ở, đư
ợc tham gia vào công việc sản xuất mà họ được đào tạo
tốt và có thể hưởng thụ thời gian rảnh rỗi và giải trí mà tất cả mọi người có nhu cầu.
Như vậy, phát triển không chỉ bao hàm
việc khai thác và chế biến các nguồn tài
nguyên, xây dựng cơ sở hạ tầng, mua và bán sản phẩm mà còn gồm cả những hoạt
động không kém phần quan trọng như chăm sóc sức khoẻ, an ninh xã hội, giáo dục,
bảo tồn thiên nhiên và hỗ trợ văn học nghệ thuật.
Các hoạt động phát triển nhằm đạt tới một mục tiêu nhất định. Các mục tiêu đó
thường được cụ thể hóa bằng những chỉ tiêu về đời sống vật chất như lương thực, nhà
ở, năng lượng, vật liệu, điều kiện sức khỏe và về đời sống tinh thần như giáo dục,
hoạt động văn hóa nghệ thuật, bì
nh đẳng xã hội, tự do chính trị Mục tiêu của các
hoạt động phát triển tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, chính trị, truyền thống lịch sử
của mỗi nước, mỗi dân tộc. Mỗi nước trên thế giới đều có những đường lối, chính
sách, mục tiêu và c
hiến lược phát triển riêng, do đó đã đem lại những hiệu quả phát
triển rất khác nhau và tạo ra sự phân hoá ngày càng lớn lao về kinh tế - xã hội.
Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường
Các hoạt động phát triển đều có thể tác động đến môi trường thông qua:

3
- Tiêu tốn một lượng tài nguyên tự nhiên nhất định như sử dụng các loài động,
thực vật để sinh sống, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên như sử
dụng đất, nước, khoáng sản và các nguồn năng lượng từ đó có thể làm cạn kiệt các

nguồn tài nguyên, nhất là các nguồn tài nguyên không tái tạo; và
- Tạo ra một lượng chất thải xả vào môi trường. Các chất thải này nếu không có
biện pháp quản lý và tái chế để sử dụng lại sẽ là nguyên nhân gâ
y nên ô nhiễm môi
trường và làm giảm chất lượng môi trường sống của chính con người.
Chính vì vây, phát triển đã luôn luôn có những tác động tới môi trường và làm
biến đổi các điều kiện của môi trường sống.
Tác động của con người tới môi trường trong các thời kỳ phát triển của xã hội
loài người, cũng như tại mỗi một nơi trên trái đất không phải là giống nhau m
à phụ
thuộc vào các yếu tố chủ yếu như dân số, sự tiêu thụ tài nguyên cũng như các hậu quả
môi trường để lại trong quá trình khai thác sử dụng.
3) Mâu thuẫn giữa phát triển với môi trường
Mối quan hệ giữa phát triển và môi trường
Giữa phát triển và môi trường luôn có mối quan hệ tương tác với nhau. Mối quan
hệ này có thể phát biểu như sau:
“Phát triển và môi trường luôn có mối quan hệ rất chặt chẽ, trong đó môi trường
là tổng hợp các điều kiện sống của con người, là địa bàn và đối tượng của phát triển.
Còn phát tr
iển là quá trình cải tạo, điều chỉnh các điều kiện của môi trường cho thuận
lợi trong sử dụng tài nguyên môi trường”.
Các hoạt động phát triển luôn luôn có hai mặt là mặt lợi và mặt hại. Hoạt động
phát triển một mặt mang lại hiệu quả ki
nh tế đối với con người, nhưng mặt khác, nó
cũng gây ra những ảnh hưởng xấu tới môi trường như là tới sự cân bằng và ổn định
của hệ sinh thái, hoặc gây nên các ô nhiễm môi trường
Mâu thuẫn giữa phát triển với môi trường
Hiện nay, dưới sức ép của sự gia tăng dân số và sự phát triển của kỹ thuật, con
người ở nhiều nơi trên trái đất đã và đang khai thác tài nguyên t
hiên nhiên một cách

bừa bãi, tiêu tốn nó một cách nhanh chóng và lãng phí cho cuộc sống mà không tính
toán đến sự bù đắp lại hay sự vượt quá khả năng tái tạo của tự nhiên. Phát triển theo
hình thức này đã có từ lâu đời gọi chung là “ phát triển truyền thống” trong đó con
người chỉ quan tâm đến khía cạnh kinh tế của việc sử dụng tài nguyên mà không quan
tâm đến các yếu tố xã hội và sinh thái hay các hậu quả môi trường của việc sử dụng tài
nguyên.
Trong c
ác thế kỷ trước đây khi dân số còn ít và trình độ của nền kinh tế còn thấp
nên phát triển truyền thống chưa bộc lộ những hậu quả xấu tới môi trường, chưa nảy
sinh các mâu thuẫn gay gắt giữa môi trường và phát triển. Tuy nhiên, với dân số ngày
càng tăng, trình độ nền kinh tế cũng như tốc đô khai thác sử dụng tài nguyên ngày
càng tăng cao nên kể từ nửa cuối thế kỷ 20 đến nay mâu thuẫn giữa môi trường và
phát triển đã nảy sinh và ngày càng ngay gắt tại nhiều nơi, nhất là tại các nước công
nghiệp phát triển và có xu thế là:


4


.

Tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Môi trường sống của con người họp năm
1972 ở Thuỵ Sĩ đã đi đến kết luận rằng nguyên nhân của nhiều vấn đề quan trọng về
môi trường không phải là do phát triển mà chính là do hậu quả của sự kém phát triển.
Những đe doạ do sự phát triển hiện nay của thế giới đối với môi trường chủ yếu là:
- Sự suy giảm về độ lớn và chất lượng của một số tài nguyên thi
ên nhiên có ý
nghĩa cơ bản đối với đời sống con người như đất, nước, rừng, thủy sản, khoáng sản và
các dạng tài nguyên năng lượng. Sự suy thoái này trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21 có
khả năng dẫn tới tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng về lương thực cho nhân loại.

- Ô nhiễm mô
i trường sống của con người với tốc độ nhanh và phạm vi rộng hơn
trước. Không khí, nước, đất tại các đô thị và các khu công nghiệp, và ngay cả ở nông
thôn và vùng sản xuất nông nghiệp, vùng ven biển và đại dương ngày càng bị ô nhiễm,
ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, đời sống của con người cũng như sự sinh tồn và phát
triển của các sinh vật khác sống trên trái đất.
- Biến đổi khí hậu vì trái đất đang bị nóng lên do hiện tượng khí nhà kính gia tăng,
làm cho mực nước biển dâng lên. Các khí CFC do quá trình sử dụng trong công nghiệp và

đời sống cũng đang tạo một lỗ thủng tầng ô zôn ngày càng mở rộng, nhất là tại vùng nam
cực, đang đe doạ con người trước tác động của các tia vũ trụ mà tầng này như một lá chắn
làm nhiệm vụ bảo vệ.
- Các vấn đề xã hội cấp bác
h như là nạn nghèo đói đang lan tràn tại các nước
chậm phát triển; nạn thất nghiệp như bóng ma ám ảnh cuộc sống của nhân dân nhiều
nước, kể cả những nước phát triển nhất; sự cách biệt về thu nhập và mức sống giữa các
quốc gia, cũng như giữa các nhóm người khác nhau trong cùng một nước đang ngày
càng mở rộng; chiến tranh ở nhiều quy mô, nhiều hình thức đang cướp đi hà
ng ngày
sinh mạng của hàng vạn người, tàn phá huỷ diệt hàng ngàn đô thị, làng mạc và những
tài nguyên thiên nhiên, tài sản văn hoá vô giá của nhân loại.
Các đe dọa trên cho thấy do sự phát triển không được kiểm soát mà môi trường
trên trái đất đang bị phá hoại một cách nghiêm trọng, chất lượng môi trường sống của
con người đã giảm sút đến mức báo động ở nhiều nơi, nhiều nguồn tài nguyên đang có
nguy cơ cạn kiệt mà trước đây tưởng như các tài nguyên đó không bao giờ cạn. Điều
này là một mối đe doạ và nhìn về tương lai thì mối đe doạ này còn có thể nhân lên nếu
không có giải pháp xử lý đúng đắn.
Cách giải quyết là phải
xem xét và thay đổi lại cách thức phát triển để kiểm soát
và hạn chế được mối mâu thuẫn giữa phát triển và môi trường, giữ cho phát triển cân

bằng với môi trường. Đó là xuất phát điểm của việc ra đời khái niệm phát triển bền
vững thay cho phát triển truyền thống trước đây.
1.1.2 Phát triển bền vững
Phát triển càng tăng
cường độ
Chất lượng môi trường
sống càng bị suy giảm.

5
1.1.2.1 Sự ra đời của phát triển bền vững
Phát triển bền vững (PTBV) là một khái niệm mới về sự phát triển xuất hiện trên
thế giới trong vài thập kỷ gần đây. Khái niệm này được đưa ra khi mà mâu thuẫn giữa
môi trường và phát triển đã trở thành sâu sắc ở nhiều nước trên thế giới do con người
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế mà không quan tâm đúng mức tới bảo vệ môi
trường. Điều đó khiến cho nhiều tài nguyê
n thiên nhiên bị sử dụng quá mức đang tiến
tới nguy cơ bị cạn kiệt, ô nhiễm môi trường gia tăng, đe doạ sự phát triển lâu bền của
nhân loại.
Thuật ngữ PTBV có nguồn gốc từ những năm 70 của thế kỷ 20 và lần đầu tiên đã
khuấy động thế giới về Môi trường và phát triển quốc tế nhờ sự ra đời và
xuất bản
cuốn sách có nhan đề “Chiến lược bảo tồn thế giới” (1980). Tác phẩm này đã được
phổ biến rộng rãi nhờ có Báo cáo Brundland “Tương lai của chúng ta” (1987) và đã
được làm chi tiết hơn trong hai tài liệu khác là “Chăm lo cho trái đất ” (1991) và “Lịch
trình Thế kỷ 21” (1992).
PTBV theo Hội đồng thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) được nêu
trong cuốn “Tương lai của chúng ta” là “sự phát
triển nhằm đáp ứng nhu cầu của thế
hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai”.

Trong cuốn “Chăm lo cho trái đất” thì PTBV được định nghĩa là “sự nâng cao
chất lượng đời sống con người trong lúc đang tồn tại, trong khuôn khổ đảm bảo của
các hệ thống sinh thái”, còn tính bền vững là “một đặc điểm đặc trưng của một quá
trình hoặc một trạng thái có thể duy trì mãi mãi”.
Nếu nhìn vào lịch sử, thì ý tưởng về PTBV đã được nêu lên từ năm 1972 bởi D.H
Meadows, đó là phát triển “có thể thay đổi xu thế tăng trưởng và thiết lập điều kiện ổn
định về sinh thái và kinh tế lâu bền trong tương l
ai ”.
Thực hiện một “xã hội bền vững về kinh tế và sinh thái”, đó là sự chuyển đổi cơ
bản về nhận thức và cam kết của thế giới kể từ sau Hội nghị LHQ về Môi trường và
Phát triển họp tại St
ockhom Thụy Điển năm 1972, khi mà sự suy giảm của môi trường
sống trên trái đất được thừa nhận là đang ngày càng trầm trọng.
Kết quả của hội nghị Stockhom đã nhìn nhận sâu sắc bản chất quan hệ giữa môi
trường và phát triển kinh tế và chỉ ra rằng, ngày nay chúng ta phải nhằm đến mục tiêu
vừa làm kinh tế tốt vừa làm sinh thái tốt, hay nói cách khác, phải luôn giữ gìn sự lành
mạnh về môi trường tr
ong quá trình gia tăng phát triển kinh tế xã hội.
Hiệp hội Thế giới Bảo tồn thiên nhiên (IUCN,1980) đưa ra Chiến lược bảo tồn
thế giới với mục tiêu cơ bản của chiến lược là “Bảo vệ để phát triển vững bền” đã nhận
định rằng tình hình sử dụng các tài nguyên tái tạo là không lâu bền và nêu lên quan
điểm sử dụng lâu bền các loài và các hệ sinh thái, tức là sử dụng ở mức thấp hơn khả
năng mà các quần thể động, thực vật có thể sinh sản để tự duy trì.
Tuy nhiên,
một lực đẩy mới đã xuất hiện vào năm 1983 khi Đại hội đồng LHQ
thành lập “Hội đồng thế giới về Môi trường và Phát triển” (WCED) mà bốn năm sau,
trong một báo cáo của hội đồng có tên là “Tương lai chung của chúng ta” đã đưa ra
một kết luận mạnh mẽ đầy sức thuyết phục về PTBV, t
rong đó liên kết sự phát triển,
môi trường và xã hội với các khía cạnh kinh tế, coi đó là con đường duy nhất đúng dẫn


6
đến một tương lai lâu bền cho nhân loại. Tìm kiếm sự PTBV có nghĩa là phải chỉ ra
các kiểu của phát triển cũng như cường độ của nó trong mỗi điều kiện môi trường nhất
định, những mốc và mức độ cần thiết của hoạt động và nội dung quản lý môi trường
cần tiến hành trong mỗi thời kỳ.
Để tiến tới PTBV cần phải duy trì và bảo vệ các nguồn tài nguyên một cách chặt
chẽ. Các tài nguyên không tái tạo cần phải sử dụng tiết kiệm và hiệu quả theo các
phương thức và kỹ thuật phù hợp nhất. Các tài nguyê
n tái tạo cần khai thác sử dụng
hợp lý, duy trì năng lực sản xuất và sự phục hồi tự nhiên của nó. Các nguồn thu được
từ khai thác tài nguyên, một phần phải đầu tư lại cho các biện pháp bảo vệ và làm sạch
môi trường.
Sau hội nghị Stockhom, môi trường và PTBV đã trở thành vấn đề quốc tế. Tuy
nhiê
n, những năm sau đó, việc đưa môi trường thành một phần trong kế hoạch phát
triển quốc gia và trong việc ra quyết định cũng mới thu được kết quả rất hạn chế.
Dựa trên các khuyến nghị của WCED, tháng 6 năm 1992 hội nghị Thượng đỉnh
về Môi trường và Phát triển lần đầu tiên được tổ chức tại Rio de Janeiro (Bradin) với
sự tham gia của chính phủ 172 nước trên thế giới, trong đó có 108 vị đứng đầu nhà
nước. Hội nghị đã nhất trí lấy PTBV làm mục tiêu của toàn nhân loại để tiến vào thế
kỷ 21. Hội nghị đã đạt được sự thoả thuận của các nước về 4 văn kiện quan trọng là
“Tuyên ngôn các nguyên tắc, Tuyên bố Rio và Chương trình hành động, Lịch trình Thế
kỷ 21, Công ước khung về biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học ”.
Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển đã xác định quyền và trách nhiệm của
tất cả các quốc gia đối với những nguyên tắc cơ bản của môi trường và phát triển. Thí

dụ như các quốc gia được toàn quyền khai thác các nguồn lợi riêng của mình, nhưng
không được gây phương hại tới môi trường của các nước khác; việc xoá bỏ sự nghèo
đói và giảm sự chênh lệch về mức sống trên phạm vi toàn thế giới là không thể thiếu

được đối với PTBV, sự tham gia đầy đủ của phụ nữ là yếu tố quyết định nhằm đạt đến
sự PTBV.
Lịch trình thế kỷ 21 - một ấn phẩm
xanh về con đường đi tới để tạo dựng một sự
PTBV về kinh tế, xã hội và môi trường cho nhân loại tiến vào thế kỷ 21- đã chỉ ra
rằng, dưới sức ép của dân số thì sự tiêu dùng và phát triển kinh tế là những lực đẩy đầu
tiên làm biến đổi môi trường. Nó chỉ ra những gì mà con người phải làm để giảm
các
chất thải, các chính sách và chương trình để đạt được sự thành công trong việc tạo ra
sự cân bằng bền vững giữa tiêu dùng, dân số và khả năng cung cấp vật chất cho cuộc
sống của con người.
Lịch trình thế kỷ 21 đưa ra một sự lựa chọn cho nhân loại trong cuộc đấu tranh
chống lại sự suy thoái của tài nguyên đất, nước và không khí, trong việc bảo vệ rừng
và đa dạng sinh học của môi trường sinh t
hái tự nhiên. Nó cũng chỉ rõ hệ thống tài
chính của các quốc gia, ngoài việc tính đếm đầy đủ giá trị của tài nguyên tự nhiên đã
được sử dụng, còn phải tính đầy đủ các chi phí cần đầu tư lại cho xử lý các ô nhiễm và
suy thoái môi trường và nêu ra nguyên tắc “người gây ra ô nhiễm cần có trách nhiệm
gánh vác các chi phí cho xử lý ô nhiễm”. Chấp nhận Lịch trình thế kỷ 21, các nước
công nghiệp phát triển cũng đã gh
i nhận trách nhiệm cao hơn của họ đối với các nước

7
nghèo trong việc làm sạch môi trường do họ đã gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn.
1.1.2.2 Yêu cầu của phát triển bền vững
Từ các định nghĩa và khái niệm nêu trên, có thể thấy rõ là PTBV đòi hỏi các tài
nguyên phải được sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả với những phương thức khôn
khéo, thông minh để tài nguyên không bị suy thoái và có thể sử dụng lâu dài.

XÃ HỘI Hiệu quả kinh tế SINH THÁI



Bảo vệ Xã hội
môi trường chấp nhận



KINH TẾ
Hình 1-
1: Tiếp cận khái niệm kinh tế, xã hội, sinh thái trong phát triển bền vững
PTBV đòi hỏi trong khi tiến hành các hoạt động phát triển ngoài việc đảm bảo
các mục tiêu kinh tế, còn phải đảm bảo các mục tiêu phát triển xã hội và bảo toàn các
nhân tố sinh thái của môi trường. Nói cách khác, trong phát triển phải thực sự coi
trọng yêu cầu bảo vệ môi trường.
Bảo vệ là sự quản lý sinh quyển một cách chặt chẽ để đảm bảo cho sử dụng các
nguồn tài nguyên tái tạo đúng với khả năng của chúng, mang lại lợi ích tối đa, không
làm giảm sút khả năng hồi phục và tiềm năng sản xuất của tài nguyên trong tương lai.
Nó là hoạt động có ý nghĩa tích cực, bao gồm cả bảo quản, duy trì, sử dụng hợp l
ý, hồi
phục và nâng cao hiệu suất sử dụng các tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với các
nguồn tài nguyên tái tạo. Vì thế, bảo vệ là một nhân tố không thể thiếu trong PTBV.
Phát triển truyền thống trước đây chỉ chú ý tới hiệu quả kinh tế của khai thác và
sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, còn PTBV như định nghĩa của nó có mục
tiêu rộng hơn, đòi hỏi các hoạt động phát triển phải xem xét một cách tổng hợp cả ba
khía cạnh kinh tế, xã hội và sinh thái trong quá trình khai thác và sử dụng các tài
nguyên thiên nhiên cho phát triển kinh tế xã hội. Nói cách khác, để PTBV phải biết
tiếp cận các hệ thống kinh tế, xã hội và sinh thái trong khai thác và sử dụng tài nguyên
để đem lại đồng thời các hiệu quả kinh tế, sự công bằng xã hội và sự toàn vẹn môi
trường như ba đỉnh của một tam giác trong hình 1-1.
1.1.2.3 Các điều kiện của phát triển bền vững

Trong phát triển để bảo đảm được bền vững cần bảo đảm sự bền vững về ki
nh tế,
về xã hội và sinh thái như đã nêu ở trên.
(1). Sự bền vững về kinh tế
Sự bền vững về kinh tế phụ thuộc vào mối quan hệ giữa lợi ích và chi phí, hay

8
nói chính xác hơn là nó yêu cầu lợi ích phải lớn hơn hay cân bằng với chi phí. Độ bền
vững về kinh tế chủ yếu được quy định bởi tính hữu ích và chi phí đầu vào, chi phí
khai thác, chế biến và nhu cầu đối với sản phẩm.
Để đảm bảo bền vững về kinh tế, các dự án phát triển phải đem lại lợi ích kinh tế
cho con người. Các vốn đầu tư cho phát triển phải nhanh chóng được thu hồi và lợi ích

kinh tế của sự phát triển phải làm sao thu được là lớn nhất. Sự bền vững về kinh tế
phải thể hiện trong sự tăng trưởng và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, đáp ứng
được yêu cầu nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, tránh được sự suy thoái đình
trệ trong tương lai.
(2). Sự bền vững về xã hội
Sự bền vững về mặt xã hội phản ánh mối quan hệ giữa phát triển với những tiêu
chuẩn xã hội hiện tại. Một hoạt động có tính bền vững về mặt xã hội nếu nó phù hợp
với những tiêu chuẩn xã hội, hoặc không kéo chúng đi
quá sức chịu dựng của cộng
đồng. Những tiêu chuẩn xã hội dựa vào tôn giáo, truyền thống và phong tục, có thể
hoặc không thể hệ thống hoá được bằng pháp luật. Chúng phải được thực hiện bằng
các quan hệ đạo l
ý, hệ thống giá trị, ngôn ngữ, giáo dục, gia đình và các mối quan hệ
riêng tư khác, các hệ thống giai cấp và ngôi thứ, thái độ đối với công việc
Bền vững xã hội thể hiện ở chỗ tất cả các sự phát triển đều phải được xã hội
chấp nhận và ủng hộ, và phải phục vụ cho mục tiêu phát triển x
ã hội và đảm bảo sự

công bằng xã hội. Giáo dục, đào tạo, y tế, phúc lợi xã hội phải được bảo vệ và phát
huy.
(3). Sự bền vững về sinh thái
Sự bền vững về sinh thái thể hiện ở chỗ các hoạt động phát triển khi thực hiện
phải duy trì được năng lực của hệ sinh thái, đảm bảo cho các sinh vật trong hệ duy trì
được năng suất, khả năng thích nghi, năng lực tái sinh. Điều đó cũng có nghĩa là phải
tiết kiệm v
à sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, duy trì và phát triển các hệ sinh
thái, tính đa dạng sinh học, bảo vệ chất lượng môi trường sống. Các nguồn phế thải từ
hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người phải được quản lý chặt chẽ, xử lý tái
chế kịp thời.
1.1.
2.4 Thực hiện Phát triển bền vững trên thế giới và ở Việt Nam
Sau hội nghị trên, xuất phát từ các nguyên tắc của PTBV, nhiều nước trên thế
giới đã xây dựng Lịch trình thế kỷ 21 cho nước mình. Thế giới cũng có bước chuyển
biến mới trong nhận thức và hành động về bảo vệ môi trường và PTBV.
Ở Việt Nam, những năm qua một số tài nguyên tái tạo đang bị khai thác quá mức
trong đó có tài nguyê
n rừng. Tài nguyên nước cũng đang có nguy cơ thiếu hụt nghiêm
trọng trong từng vùng và từng thời gian nhất định. Một số tài nguyên không tái tạo như
là một số khoáng sản trữ lượng cũng không còn nhiều.
Sự phát triển kinh tế hiện đang gây sức ép rất mạnh, làm suy giảm chất lượng
môi trường đất, nước, không khí, do ảnh hưởng của các chất thải sinh hoạt v
à công
nghiệp, cũng như sử dụng quá mức phân bón hoá học, thuốc trừ sâu trên các đồng

9
ruộng. Theo xu thế phát triển kinh tế của đất nước, sức ép của phát triển tới môi trường
trong tương lai vẫn là rất lớn. Vì thế, thực hiện mục tiêu PTBV càng là yêu cầu cấp
thiết của đất nước.

Vấn đề bảo vệ môi trường và PTBV luôn được Nhà nước coi là mục tiêu chiến
lược để phát triển đất nước và đã được nêu rõ trong bản “Kế hoạch quốc gia về Môi
trường và Phát triển lâu bền 1991-2000”. Kể từ đó đến nay, Nhà nước có nhiều hoạt
động tích cực để thực hiện kế hoạch trên. Thí dụ như ba
n hành luật Bảo vệ Môi trường
(1993), luật Tài nguyên nước (1998) và nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện các luật
này.
Trong Chương trình hành động về bảo vệ môi trường và PTBV, Nhà nước đã đưa
vấn đề kế hoạch hoá bảo vệ môi trường trở thành một bộ phận của kế hoạch phát triển
kinh tế quốc dân, tăng dần tỷ lệ ngân sách nhà nước hàng năm
chi cho các hoạt động
bảo vệ môi trường.
1.2 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1.2.1 Khái niệm, mục đích của đán
h giá tác động môi trường
Khái niệm
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) - tiếng Anh là Environmental Impact
Assessment (EIA) là một khái niệm mới ra đời trong mấy chục năm gần đây, lần đầu
tiên ở Mỹ vào năm 1969 do sự đòi hỏi của dân chúng đối với chính phủ trước tình
trạng giảm sút chất lượng môi trường sống của con người, hậu quả của việc tăng
nhanh các hoạt động phát triển khi nước Mỹ đang
bước vào kỷ nguyên công nghiệp
hoá.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đánh giá tác động môi trường. Mỗi định nghĩa
tuy có nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau nhưng đều nêu lên những điểm chung
của đánh giá tác động môi trường là đánh giá, dự báo các tác động môi trường và đề
xuất các biện pháp giảm thiểu các tác động tiêu cực chủ yếu của dự án. Sau đây là một
số định nghĩa của ĐTM.
The
o Luật Bảo vệ Môi trường 2005 thì: “Đánh giá tác động môi trường là việc

phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các
biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”.
Theo GS.Lê Thạc Cán, 1994, thì: ″ ĐTM của một hoạt động phát triển kinh tế xã
hội là xác định, phân tích, dự báo những tác động lợi và hại, trước mắt và lâu dài của
việc thực h
iện hoạt động đó đối với tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường
sống của con người. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phòng tránh, khắc phục
hoặc giảm nhẹ các tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường ” .
Các định nghĩa trên đều nêu lên các nội dung chủ yếu mà đánh giá tác động môi
trường phải thực hiện. Tuy nhiên, ở đây cần thấy rõ là đánh giá tá
c động môi trường
bao gồm đánh giá cả các tác động tới môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, đánh
giá các nguy cơ xảy ra các sự cố môi trường cũng như phân tích hiệu quả kinh tế môi

10
trường của dự án.
Mục đích
Thực hiện đánh giá tác động môi trường đối với các hoạt động/dự án phát triển
kinh tế xã hội nhằm các mục đích sau:
(1). Nhằm đảm bảo cho dự án nếu được thực hiện giảm một cách tối đa các tác động
xấu và bền vững về mặt môi trường: ĐTM nhằm xác định và đánh giá những ảnh hưởng
tiềm năng của dự án
đến môi trường tự nhiên, xã hội và sức khoẻ của con người. Điều đó
giúp cho mọi sự đề xuất, mọi hoạt động trong các dự án và chương trình phát triển dự
kiến, ngoài đảm bảo tốt về mặt kinh tế, kỹ thuật còn phải không có những tác động xấu có
ảnh hưởng đáng kể xảy ra làm suy giảm chất lượng tới môi trường. Nói cách khác, đảm
bảo c
ho các dự án khi thực hiện đều bền vững về mặt môi trường;
(2). Cung cấp nhưng thông tin trợ giúp cho việc ra quyết định về thực hiện dự án
mang tính hợp lý với môi trường : Đánh giá tác động môi trường được sử dụng để

phân tích, đánh giá và dự báo các ảnh hưởng môi trường đáng kể của các hoạt động
phát triển kinh tế xã hội dự kiến sẽ tiến hành. Vì thế, ĐTM sẽ cung cấp những t
hông
tin cần thiết trợ giúp cho các cấp lãnh đạo khi xem xét để ra quyết định có nên tiến
hành dự án hay không, và nếu thực hiện thì phải tiến hành như thế nào để hạn chế đến
mức thấp nhất các tác động xấu của dự án đến môi trường mà cộng đồng dân cư những
người bị ảnh hưởng có thể chấp nhận được. Nó giúp cho việc xét duyệt dự án đư
ợc
nhanh chóng, thuận lợi và đúng hướng.
Nói chung, có thể xem đánh giá tác động môi trường như là một quá trình
khuyến khích, một sự xem xét có hệ thống ảnh hưởng qua lại giữa các hoạt động phát
triển và những hậu quả của nó đối với môi trường, nhằm làm cho con người có thể sử
dụng các tài nguyên thiên nhiên một cách tốt nhất mà tránh được sự xuống cấp của
môi trường. Đánh giá tác động môi trường luôn hướng trọng tâm vào những vấn đề,
những m
âu thuẫn hoặc những áp lực tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng đến tính tồn
tại của một dự án. Nó tập trung xem xét những thay đổi về chất lượng môi trường có
thể nảy sinh do việc thực hiện dự án mang lại. Từ đó, đánh giá xem dự án có thể gây ra
những tác động nào được coi là đáng kể tới con người, tới cuộc sống của họ cũng như
tới những phát triển khác trong các khu vực xung quanh để quyết định có nên thực
hiện dự án hay không.

1.2.2 Vai trò của đánh giá tác động môi trường
(1). Đánh giá tác động môi trường là công cụ bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững
Ngày nay, ĐTM đã trở thành một lĩnh vực của khoa học môi trường và là một phần
không thể thiếu khi xây dựng, xét duyệt và thẩm định các dự án phát triển. Hầu hết các
nước trên thế giới đều rất coi trọng ĐT
M và có quy định trong luật pháp quốc gia về việc
thực hiện ĐTM. Có thể nói ĐTM đã trở thành công cụ rất quan trọng để thực hiện phát

triển bền vững như là : qua bắt buộc các dự án/ hoạt động phát triển phải lập báo cáo
ĐTM và trình cho cơ quan quản lý môi trường Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và
phê
duyệt báo cáo, Nhà nước sẽ xác định được những dự án nào là tốt và không có tác

11
động tiêu cực đáng kể tới môi trường và những dự án nào có nhiều tác động tiêu cực
được coi là đáng kể tới môi trường. Trên cơ sở đó ra quyết định loại bỏ không cho
thực hiện đối với các dự án có nhiều tác động tiêu cực rất khó giảm thiểu. Đối với các
dự án được phép thực hiện thì thông qua thực hiện đánh giá tác động môi trường sẽ
đảm bảo cho dự án khi thực hiện sẽ giảm một cách tối đa các tác động xấu và bền
vững về mặt môi trường. Điều đó cho t
hấy ĐTM là công cụ quan trọng để bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững.
(2). Đánh giá tác động môi trường là công cụ để quy họach và quản lý các hoạt động
phát triển kinh tế xã hội
Ngoài vai trò là công cụ quan trọng để bảo vệ môi trường và phát triển bền vững,
việc thực hiện đánh giá tác động môi trường còn là công cụ để quy hoạch
và quản lý
các hoạt động phát triển như là:
Về quy hoạch phát triển
Giữa môi trường và phát triển luôn có mối quan hệ rất chặt chẽ và giữa chúng
cũng tồn tại một mâu thuẫn, đó là phát triển càng nhanh thì càng có nhiều tác động tiêu
cực đến môi trường và càng có xu thế làm suy giảm chất lượng môi trường sống. Việc
tăng trưởng kinh tế nếu không tính tới yêu cầu bảo vệ môi trường cũng như việc sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên thì đến một thời điểm
nào đó chất lượng môi
trường sẽ bị suy giảm nghiêm trọng và sẽ cản trở phát triển, tác động xấu tới kinh tế xã
hội của vùng.
ĐTM là một quá trình phân tích một cách hệ thống, nó cho phép đánh giá và dự

báo các tác động tiêu cực của một dự án
hoặc một chính sách đến môi trường, đồng
thời đưa ra các biện pháp giảm nhẹ các tác động tiêu cực, đưa ra chương trình giám
sát, quản lý môi trường. Vì thế, ĐTM là "công cụ để xây dựng các quy hoạch phát
triển kinh tế xã hội theo định hướng phát triển bền vững ".
Về quản lý các hoạt động phát triển
Ngoài xác định, dự báo các tác động tiềm tàng của dự án, báo cáo ĐTM còn đưa
ra chương trình/ kế hoạch giám sát môi trường để thực hiện tr
ong quá trình vận hành
dự án nhằm quan trắc số liệu các thông số môi trường và theo dõi giám sát các tác
động môi trường thực của dự án xảy ra như thế nào để khi cần thiết có những biện
pháp quản lý điều chỉnh. Chính vì vậy, hoạt động phát triển được quản lý chặt chẽ
ngay từ khi đề xuất và trong suốt cả quá trình thực hiện dự án.
1.2.3 Lợi ích của đánh giá tác động môi trường
Tiến hà
nh ĐTM các dự án phát triển sẽ mang lại các lợi ích về kinh tế, xã hội và
môi trường cho nhà nước cũng như cộng đồng dân cư, như là:
Lợi ích về kinh tế
Đánh giá tác động môi trường sẽ giúp cho tiết kiệm vốn và các chi phí vận hành
của dự án. Chi phí của dự án sẽ tăng lên nếu ngay từ đầu không quan tâm tới vấn đề
môi trường để rồi sau đó phải có những tha
y đổi để sửa lại khi công trình đã được xây
dựng xong nhưng chưa hợp lý về môi trường. Nếu không đánh giá tác động môi
trường, chi phí của dự án cũng có thể cũng tăng thêm do phải thực hiện những biện

12
pháp tốn kém để khắc phục các thiệt hại về mặt môi trường khi chúng đã xảy ra trong
thực tế vì chưa có biện pháp ngăn chặn.
Lợi ích về xã hội
Đánh giá tác động môi trường xem xét đầy đủ các tác động của dự án tới môi

trường xã hội nên sẽ giảm đến thấp nhất tác động xấu của dự án tới xã hội. Kết quả
đánh giá được công bố rộng rãi và lấy ý kiến của cộng đồng dân cư những người
hưởng lợi cũng như những người bị ảnh hưởng làm thiệt hại. Vì thế, nhờ thực hiện
ĐTM mà dự án đáp ứng đư
ợc tối đa yêu cầu của xã hội và dễ được sự chấp nhận và
ủng hộ rộng rãi của công chúng.
Lợi ích về môi trường
- Đánh giá tác động môi trường sẽ trợ giúp cho c
ác nhà kỹ thuật lựa chọn được
phương án hợp lý và bền vững về mặt môi trường.
- Đánh giá tác động môi trường sẽ giúp cho các dự án tuân thủ tốt các tiêu
chuẩn môi trường quốc gia, không gây phá vỡ và làm tổn hại tới môi trường. Mặt
khác, nó đẩy nhanh quá trình xét duyệt dự án, làm giảm thời gian và chi phí để dự án
được chấp thuận.
1.3 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ĐTM
1.3.1 Trên thế giới
Sự ra đời của ĐTM đã góp phần kiểm so
át và từng bước ngăn chặn tình trạng
suy thoái đó. Mặc dù mới ra đời không lâu, nhưng ĐTM đã được sự quan tâm và đồng
tình của hầu hết các quốc gia phát triển và đang phát triển trên toàn thế giới để phát
triển kinh tế xã hội, coi đó là một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường trong quá
trình phát triển kinh tế theo mục tiêu của phát triển bền vững.
Trên thế giới đến những t
hập kỷ 60, 70 một số nước công nghiệp đã bắt đầu quan
tâm đến việc bảo vệ môi trường. Năm 1970, ở Mỹ đã ban hành luật và chính sách quốc
gia về môi trường, trong đó quy định tất cả các kiến nghị quan trọng ở cấp Liên bang
về luật pháp, các hoạt động kinh tế kỹ thuật lúc đưa ra xét duyệt để được Nhà nước
chấp nhận đều phải kèm theo một báo cáo c
hi tiết về tác động đến môi trường của hoạt
động được kiến nghị.

Tại Châu A hầu hết các nước trong khu vực đã quan tâm đến môi trường từ
những thập kỷ 70 như là:
- Philipin : Từ 1977-1978 Tổng thống Philipin đã ban hành các Nghị định trong
đó yêu cầu thực hiện ĐTM và hệ thống thông báo tác động môi trường cho các dự án
phát triển.
- Malaysia: Từ 1979 chính phủ đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường và từ năm
1981 vấn đề đánh giá tác động m
ôi trường đã được thực hiện đối với các dự án năng
lượng, thủy lợi, công nghiệp, giao thông, khai hoang.
- Thái Lan : Nội dung và các bước thực hiện ĐTM cho các dự án phát triển được
thiết lập từ 1978, đến năm 1981 thì công bố danh mục dự án phải tiến hành ĐTM.
- Trung Quốc: Luật Bảo vệ m
ôi trường đã được ban hành từ 1979, trong đó điều

13
6 và 7 đưa ra các cơ sở cho các yêu cầu đánh giá tác động môi trường cho các dự án
phát triển.
1.3.2 Ở Việt Nam
Ở Việt Nam: Đánh giá tác động môi trường được giới thiệu lần đầu tiên vào năm
1984 do chương trình Tài nguyên và Môi trường giới thiệu qua tài liệu "Giới thiệu các
phương pháp đánh giá tác động môi trường" của chương trình.
Năm 1993 Việt Nam ban hành luật Bảo vệ môi trường đầu tiên, trong đó có quy
định tất cả các hoạt động phát triển ki
nh tế xã hội đều phải thực hiện đánh giá tác động
môi trường, thì ĐTM đã bắt đầu được thực hiện trong thực tế.
Kể từ đó đến nay, Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật dưới dạng
các Nghị định của Chính Phủ, các quyết định, thông tư của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, trong đó quy định cụ thể việc thực hiện và hướng dẫn các đơn vị, tổ chức, cá
nhâ
n thực hiện ĐTM trong thực tế. Nhờ đó ĐTM cho đến nay đã trở thành môt công

việc phổ biến, nằm trong khung pháp luật của Nhà nước mà tất cả các dự án đều thực
hiện.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có một đội ngũ tương đối đông đảo những người làm
đánh giá tác động môi trường,
trong đó có nhiều chuyên gia được đào tạo trong và
ngoài nước, bước đầu đã tập hợp được những kinh nghiệm ứng dụng qua những công
trình đã đánh giá trong thực tế. Việc thực hiện ĐTM cũng còn những vấn đè tồn tại
cần tiếp tục giải quyết, tuy nhiên có thể nói sau hơn một thập ky, cho đến nay hệ thống
văn bản pháp lỹ cho thực hiện ĐTM đã tương đối đầy đủ và tiếp cận được yêu cầu của
thực tế. Việc thực hiện ĐTM đã đần đi và
o nề nếp dã có đóng góp rất đáng kể cho
thựcnhieenj phát triển bền vững của đất nước.
1.4 CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐTM
Trong những năm vừa qua Nhà nước ta đã rất cố gắng xây dựng một khung
pháp lý cho việc cho việc tổ chức và quản l
ý việc thực hiện ĐTM trong thưc tế. Cho
đến nay khung pháp lý đã tương đối đầy đủ và phù hợp với thực tế. Trong mục này
giới thiệu những điểm chính về cơ sở pháp lý và tổ chức thực hiện ĐTM ở Việt Nam
đẻ sinh viên tiếp cận và nắm được yêu cầu thực tế của đánh giá tác động môi trường
làm cơ sở cho quá trình công tác sau này.
Về các cơ sở phá
p lý của ĐTM có rất nhiều tài liệu tham khảo sinh viên có thể
trực tiếp lấy trên mạng internet nên tại lớp giáo viên chỉ giới thiệu những điểm chính,
còn lại sinh viên phải tự tìm hiểu và đọc ở nhà để tiếp cận kiến thức và nắm vững các
quy định của luật pháp, tiến hành thảo luận nhóm đẻ hiểu sâu về các vấn đề này.
1.4.1 Giới thiệu chung về cơ sở pháp lý của ĐTM
Cơ sở p
háp lý của việc thực hiện ĐTM thể hiện trong các văn bản phát luật của
Nhà nước đã ban hành như Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn hiện
ĐTM như Nghị định, Quyết định, Thông tư của Chính phủ, Bộ Tài nguyên & Môi

trường và các Bộ ngành khác có liên quan.

14
1) Luật Bảo vệ môi trường
Ở Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) được Nhà nước ban hành lần
đầu tiên năm 1993 là quy định pháp luật cao nhất của nhà nước về môi trường. Luật có
7 chương, 55 điều.
Sau 15 năm thực hiện, năm 2005 Luật Bảo vệ môi trường đã được bổ sung và
sửa đổi và ban hành (Luật số 52/2005/QH11, công bố ngày 12/12/2005). Luật Bảo vệ
môi trường Việt Nam năm 2005 gồm 15
chương, 136 điều. Hiện tại, tất cả các nội
dung về bảo vệ môi trường của Việt Nam thực hiện theo luật này.
Trong luât Bảo vệ môi trường 2005 có dành hẳn chương 3 với tiêu đề “ Đánh
giá môi trường chiến lược, đáng giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường”
quy định cụ thể về thực hiện ĐTM ở Việt Nam.
Riêng về đánh giá tác động môi trường cho c
ác hoạt động/dự án phát triển kinh
tế xã hội có quy định cụ thể trong các điều:
– Điều 18: Đối tượng phải lập báo cáo ĐTM.
– Điều 19 : Quy định về lập báo cáo ĐTM.
– Điều 20 : Nội dung báo cáo ĐTM.
– Điều 21: Thẩm định báo cáo ĐTM.
– Điều 22: Phê duyệt báo cáo ĐTM.
– Điều 23: Trách nhiệm thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các nội dung tr
ong
báo cáo ĐTM.
Luật BVMT 2005 cũng có riêng Mục 3 với các Điều 24, 25, 26, 27 quy định về
thực hiện “ Lập Cam kết bảo vệ môi trường” đối với các dự án không phải tiến hành
lập và trình thẩm định báo cáo ĐTM.
Luật Bảo vệ môi trường 2005 truy cập trên Website của Bộ Tài nguyên môi

trường theo đường link
/>219.
2) Các Nghị định, Thông tư của Nhà nước liên quan đến ĐTM
Để cụ thể hóa việc thực hiện ĐTM ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành nhiều
Nghị định, Quyết định, Thông tư quy định cụ thể và hướng dấn việc thực hiện ĐTM.
Tại tại thời điểm hiện tại, những người thực hiện ĐTM phải thực hiện theo một số văn
bản phá
p luật sau:
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều Luật Bảo vệ môi trường, theo đường link sau:
/>303
- Nghị định số 21/2008/NĐ-CP về Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về việc quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường , theo đường
link sau:

15

- Thông tư 05/2008/TT-BTNMT thông tư hướng dẫn về đánh giá môi trường
chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.
-
Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;Các văn bản pháp luật trên và một số
văn bản khác nữa sinh viên truy cập trong Website của Bộ Tài nguyên và Môi trường
theo đường link
vào phần tra cứu Văn bản pháp luật. Để hiểu rõ
cơ sở pháp lý của việc thực hiện ĐTM ở Việt nam sinh viên phải đọc và tham khảo kỹ
các quy định của luật BVMT 2005 và các nghị định, thông tư nêu trên đẻ nắm vững
những quy định của nhà nước liên quan đến thực hiện ĐTM ở Việt Nam, đặc biệt là
chú trọng tìm hiểu về:

– Quy trình thực hiện ĐTM ở Việt Nam ( trong Luật BVMT, Nghị định số
80/
2006/NĐ-CP, Nghị định số 21/2008/NĐ-CP) trong các bước: (i) lập báo cáo
ĐTM; (ii) thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM; (ii) theo dõi kiểm tra việc
thực hiện các cam kết sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt.
– Quy định về phân cấp các dự án phải lập báo cáo ĐTM (xem danh mục dự án
phải lập báo cáo ĐTM trong phụ lục 2 của Nghị định 80/2006/NĐ- CP và phụ
lục của Nghị định 21/2008/NĐ-CP).
– Quy định về lập báo c
áo ĐTM (thông tư 05/2008/TT-BYNMT _ phụ lục).
Sau đây giới thiệu ngắn gọn một số quy định làm cơ sở cho sinh viên tham khảo
các văn bản trên.
1.4.2 Quá trình thực hiện ĐTM
Quá trình thực hiện ĐTM trên thế giới hiện nay phải theo các bước sau:
– Chuẩn bị.
– Đánh giá môi trường ban đầu (đánh giá tác động môi trường sơ bộ).
– Sàng lọc xem dự án có cần thực hiên ĐTM chi tiết hay không.
– Thực hiện ĐTM chi tiết đối với các dự án phải thực hiện ĐTM chi tiết.
– Thẩm định báo cáo ĐTM chi tiết.
– Ra quyết định P
hê duyệt báo cáo ĐTM của cơ quan quản lý môi trường có thẩm
quyền.
– Thực hiện các chương trình quản lý và giám sát môi trường có sự theo dõi của
cơ quan quản lý môi trường tại địa phương nơi dự án được thực hiện.
Trong quá trình thực hiện ĐTM còn có yê
u cầu lồng ghép sự tham gia của cộng
đồng. Sinh viên cần tham khảo trong Nghị định 80/2006/NĐ-CP và NĐ 21/2008/NĐ-
CP để thấy rõ các quy định cụ thể của Nhà nước về quá trình thực hiện trên ở nước ta.
1.4.3 Chu trình dự án và trình tự thực hiện ĐTM


16
Chu trình dự án và trình tự thực hiện ĐTM được quy định thế nào trong các văn
bản pháp luật của Việt nam là nội dung sẽ giới thiệu trong mục này.
1) Chu trình dự án
Nói chung, bất kỳ một dự án nào cũng đều thực hiện theo một trình tự từ quy
hoạch, đến nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, thi công xây
dựng và cuối cùng là quản lý vận hành dự án, các giai đoạn đó tạo nên chu trình dự án.
a)
Giai đoạn quy hoạch:
Phần lớn các dự án được đề xuất trong quá trình lập các quy hoạch phát triển của
các lĩnh vực sử dụng tài nguyên. Thí dụ trong lĩnh vực tài nguyên nước là quy hoạch
về tài nguyên nước (còn gọi là quy hoạch thuỷ lợi) để xác định phương án khai thác sử
dụng hợp lý nguồn nước lưu vực hoặc khu vực (như tỉnh), cũng như đề xuất các công
trình chủ yếu cần xâ
y dựng để nhà nước xem xét.
Các công trình khai thác sử dụng nguồn nước được đề xuất trong giai đoạn quy
hoạch mới chỉ là những đề xuất ban đầu nhằm hình thành bước đầu khái niệm về dự
án (như hình thức công trình, vị trí xây dựng, quy mô đề nghị ) mà chưa đi sâu và
tính toán về mặt kỹ thuật của công trình.
b) Giai đoạn lập báo cáo đầu tư:
Giai đoạn này còn gọi là nghiên cứu tiền khả thi là giai đoạn tiếp sau giai đoạn
quy hoạc
h khi công trình đề xuất trong quy hoạch được chấp thuận và cho nghiên cứu
sâu hơn. Báo cáo đầu tư cần phải tính toán các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cho các
phương án đề xuất và phương án chọn ở mức sơ bộ nhằm cung cấp các cơ sở để chủ
dự án xem xét có nên đầu tư dự án hay không.
c) Giai đoạn lập dự án đầu tư:
Giai đoạn này còn gọi là nghiên cứu khả thi, là giai đoạn tiếp theo sau khi báo
cáo nghiên cứu tiền khả thi đư
ợc chấp nhận. Dự án đầu tư đi sâu vào tính toán chi tiết

tất cả các các phương án và đưa ra phương án chọn. Từ đó, xác định được các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật của dự án, đánh giá hiệu quả của dự án và đưa ra kế hoạch thực hiện
dự án
. Dự án đầu tư là cơ sở quan trọng để cấp có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng
về thực hiện dự án, từ đó có kế hoạch chuẩn bị nguồn vốn cho thực hiện dự án.
d) Thiết kế kỹ thuật:
Tính toán các thông số kỹ thuật và lập hồ sơ thiết kế cho các công trình của dự
án, xây dựng bản vẽ thi công và kế hoạch thi công công trình.
e) Thi công:
Xây dựng các hạng mục công trình theo hồ sơ thiết kế và bản vẽ th
i công đã được
duyệt.
f) Quản lý vận hành:
Quản lý vận hành các công trình của dự án để thu được hiệu quả kinh tế cho xã
hội như mục tiêu dự án đề ra. Giai đoạn này kéo dài đến khi hết thời gian làm việc của

17
công trình.
2) Trình tự thực hiện ĐTM
Trình tự thực hiện ĐTM trên thế giới
Đánh giá tác động m
ôi trường phải tiến hành trong tất cả các giai đoạn thực hiện
của chu trình dự án với yêu cầu, mức độ và nội dung khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi giai
đoạn thực hiện. Trình tự thực hiện đánh giá tác động môi trường của dự án trong chu
trình dự án phổ biến hiện nay ở nhiều nước trên thế giới như hì
nh 1-2 như sau:






ĐTM sơ bộ








Hình 1-2: Chu trình dự án và trình tự thực hiện ĐTM
a) Giai đoạn quy hoạch: sàng lọc (hay lược duyệt) môi trường
Trong giai đoạn quy hoạch, tùy thuộc vào quy mô của quy hoạch mà có thể phải
thực hiện đánh giá về mặt môi trường cho các phương án quy hoạch để lựa chọn
phương án tối ưu. Nếu quy hoạc
h có quy mô lớn cấp quốc gia hoặc liên vùng, liên tỉnh
hoặc quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội mang ý nghĩa chiến lược (Mục 1 Luật
BVMT 2005) thì giai đoạn này phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược
(ĐGMTCL). Nếu quy mô quy hoạch không thuộc đối tượng phải thực hiện ĐGMTCL
thì phải tiến hành sàng lọc môi trường (sàng lọc MT) hay còn gọi là lược duyệt môi
trường để xem xét một cách sơ lược xem khả năng gây tác động đến môi trường của
các hoạt động (hoặc dự án cụ thể) đư
ợc đề xuất trong các phương án quy hoạch, đặc
biệt là đối với phương án quy hoạch được chọn.
Thí dụ như trong quy hoạch thuỷ lợi của một lưu vực sông có thể đề xuất sự cần
thiết xây dựng một công trình cung cấp nước tưới cho một khu vực nông nghiệp quan
trọng còn đang rất thiếu nước, nhưng chưa xác định r
õ nên dùng hồ chứa hay đập dâng
hoặc quy mô công trình tưới cho bao nhiêu ha là hợp lý nhất.
LẬP BÁO CÁO ĐẦU TƯ

LẬP DỰ ÁN ĐẦU TƯ
THI CÔNG XÂY DỰNG
QUẢN LÝ VẬN HÀNH
Các vấn đề MT
tron
g
thi côn
g

THIẾT KẾ KỸ THUẬT
Các vấn đề MT
trong thi
ếtkế
Các vấn đề MT
tron
g
v

n hành
ĐTM chi tiết
QUY HOẠCH
Sàng lọc MT
hoặc
ĐGMTCL

18
Qua xem xét các phương án khác nhau của quy hoạch, kết hợp với kết quả của
sàng lọc môi trường cho các phương án về công trình, có thể đánh giá được phương án
nào gây ít tác động tiêu cực đến môi trường để đưa ra ý kiến lựa chọn. Như vậy, sàng
lọc môi trường có thể giúp cho hình thành rõ hơn về dự án đề xuất trong quá trình quy

hoạch.
Trong Sàng lọc môi trường, cần phải phân tích để nhận biết các tác động môi
trường của dự án
đề xuất và sau đó tiến hành sàng lọc để thấy được các vấn đề môi
trường chủ yếu có liên quan đến dự án, đặc biệt là quy mô dự án, vị trí xây dựng công
trình.
Qua sàng lọc môi trường, người làm quy hoạch có thể loại ra các vấn đề môi
trường không quan trọng và chỉ ra các hoạt động nào của dự án có khả năng gây ra
những tác động đáng kể và những vấn đề môi trường tiềm tàng nào c
hứa ẩn trong
vùng dự án cần phải quan tâm khi tiến hành dự án. Từ đó, phán đoán những tác động
đến môi trường của dự án đang nghiên cứu nhằm đề xuất ý kiến để điều chỉnh dự án
theo hướng tốt hơn.
b) Giai đoạn lập báo cáo đầu tư
Ở nước ta giai đoạn lập báo cáo đầu tư trước đây còn gọi là giai đoạn nghiên cứu
tiền khả thi (NCTKT). Trong giai đoạn này nhiều nước trên thế giới quy định phải
đánh gi
á tác động môi trường sơ bộ.
ĐTM sơ bộ có yêu cầu cao hơn sàng lọc môi trường, trong đó yêu cầu là đánh giá
một cách khái quát các tác động môi trường của dự án và chỉ ra được trong các tác
động môi trường thì tác động tiêu cực nào là đáng kể nhất. Cũng như sàng lọc môi
trường, ĐTM sơ bộ cũng cần trợ giúp cho việc hình thành rõ hơn khái niệm về dự án
nếu trong quy hoạch dự án trước đây vẫn c
òn những vấn đề chưa kết luận rõ ràng. Thí
dụ như vấn đề chọn vị trí tuyến công trình nào trong một số vị trí tuyến có thể được
trong dự án xây dựng hồ chứa nước. Phương án chọn phải là phương án vừa đảm bảo
các yêu cầu về kinh tế, kỹ thuật, lại phải đảm bảo sa
o cho các tổn hại đối với môi
trường là ít nhất. Kết quả của đánh giá tác động môi trường sơ bộ cũng cần chỉ ra có
tiếp tục tiến hành đánh giá tác động môi trường chi tiết ở giai đoạn tiếp sau hay không.

c) Giai đoạn lập dự án đầu tư
Giai đoan lập dự án đầu tư trước đây còn gọi là giai đoạn nghiên cứu khả thi
(NCKT) của dự án. Lập dự án đầu tư là giai đoạn quan t
rọng có ý nghĩa quyết định dự
án có được thực hiện hay không. Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định đối với
các dự án lớn, phức tạp hoặc dự án có liên quan tới các vùng nhạy cảm về môi trường
đều phải thực hiện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường chi tiết và trình cho cơ
quan quản lý nhà nước về môi trường c
ó thẩm quyền thẩm định và phê duyệt.
ĐTM chi tiết có yêu cầu đánh giá cao hơn so với ĐTM sơ bộ, thể hiện ở:
- Phải đánh giá một cách chi tiết các tác động môi trường, tập trung vào các tác
động tiêu cực được coi là đáng kể đã xác định được trong ĐTM sơ bộ.
- Ngoài đánh giá định tính còn phải định lượng và dự báo các tác động môi
trường chủ yếu của dự án.
- Phải đề xuất và thiết kế biện pháp giảm th
iểu các tác động tiêu cực chủ yếu của
dự án.

×