Tải bản đầy đủ (.docx) (201 trang)

Bảo vệ quyền lợi của người lao động có việc làm phi chính thức theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 201 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

<b>HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI</b>

<b>NGUYỄN THỊ THU HOÀI</b>

<b>BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC THEO PHÁPLUẬT</b>

<b>VIỆT NAM HIỆN NAYNgành: Luật Kinh tếMã số :9.38.01.07</b>

<b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC</b>

<b>Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Hữu Chí2. TS. Phạm Thị Thuý Nga</b>

<b>HÀ NỘI, 2024</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CAM ĐOAN</b>

cũngnhưcácsốliệutrìnhbàytrongluậnánhồntồntrungthực.Nhữngkếtluậnkhoa học của luận án chưa được cơngbố.

<b>Người cam đoan</b>

<b>Nguyễn Thị Thu Hồi</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>ĐỘNG CĨ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC VÀ PHÁP LUẬTVỀ BẢO VỆQUYỀNLỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNGCÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC33</b>

<b>Chương 3:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜILAOĐỘNG CĨ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC VÀ THỰC TIỄN THỰCHIỆNỞ VIỆT</b>

3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền lợi của ngườilao động có việc làm phichínhthức 80 3.2. ThựctrạngquyđịnhphápluậtvềcácphươngthứcpháplýcủaNhànướctrongbảo vệ quyền lợi của người lao động có việc làm phi chính thức và thực tiễn thựchiện

129

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Chương 4:ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀNÂNGCAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI</b>

4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi củangười lao động có việc làm phichínhthức 146 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người lao động có

4.3. Các giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của

ngườilao động có việc làm phichínhthức 171

C. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ VĂNBẢNKHÁC 192

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

6 ICLS Hội nghị quốc tế về Thống kê lao động

7 ICCPR Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 8 UDHR Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948

9 ICESCR Cơngướcquốctếvềcácquyềnkinhtế,xãhội,vănhố1966

10 CEDAW Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, 1979

11 CEACR Uỷ ban chuyên gia về áp dụng Công ước và khuyến nghị 12 ATVSLĐ An toàn vệ sinh lao động

13 UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc 14 UN Liên hợp Quốc

15 OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế 16 EU Liên minh Châu Âu

17 VPHC Vi phạm hành chính

18 QĐXPVPHC Quyết định xử phạt vi phạm hành chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

19 ILO Tổ chức lao động quốc tế 20 BHXH Bảo hiểm xã hội

21 BHYT Bảo hiểm y tế

22 BHTN Bảo hiểm thất nghiệp

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ</b>

Biểu đồ 1: Tỷ lệ lao động thất nghiệp và lao động thiếu việc làm, năm 2020 - 2023. Biểu đồ 2: Cơ cấu lao động Việt Nam, năm 2020 – 2023.

Biểu đồ 3: Tỷ lệ lao động có đào tạo, năm 2020 – 2023.

Biểu đồ 4: Tỷ lệ lao động có việc làm PCT, năm 2020 – 2023. Biểu đồ 5: Việc làm trong khu vực kinh tế tư nhân năm 2020. Sơ đồ 3.1: Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đềtài</b>

Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển ấn tượng với những kết quả nổi bật. Quy mô kinh tế Việt Nam tăng gấp 12 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng 8,3 lần, kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng 29,5 lần, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 22 lần. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993 xuống chỉ cịn 2,23%vàonăm2021tínhtheochuẩnmới[25].Đặcbiệttừmộtnướccónềnkinhtếtập

trungbaocấp,tínhđếntháng4/2023,Việtnamcóhơn786nghìndoanhnghiệptưnhân (chiếm 98% trong tổng số khoảng 800 nghìn doanh nghiệp) đóng góp trung bình gần 46%GDPmỗinămtronggiaiđoạn2016-2021[36].Đặcbiệttrongnhữngnămgầnđây, do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các loại hình kinh tế PCT mới đã hình thành, như “kinh tế tuần hồn”, “kinh tế chia sẻ”, “kinh tế tự do” hay “kinh tế Gig” (Gig Economy) dựa trên nền tảng trực tuyến (qua ứng dụng công nghệ), như bán hàngtrựctuyến(online),giaohàng(shipper),láixecơngnghệ(Grab,Uber)...Điềunày

gópphầnthúcđẩythịtrườnglaođộngnướctapháttriểnvớiđadạngngànhnghề,nhiều việc làm mới, trong đó có việc làmPCT.

Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc làm PCT là một bộ phận khơng thể thiếu, nó góp phần giải quyết việc làm và thu nhập cho NLĐ. Mặc dù việc làm PCT mang lại nhiều thiệt thòi về thu nhập, an toàn và sức khỏe của NLĐ, nhưng vẫn có tỷ lệ lớn NLĐ ở Việt Nam đang phải làm công việc này. Không chỉ ở Việt Nam mà khoảng 87 quốc gia trên thế giới cũng có NLĐ có việc làm PCT [105, tr 46]. Vào năm2021,cónhữngquốcgiamàlựclượclaođộngnàychiếmtrên80%nhưPa-ki-xtan 84,3%;Ru-an-đa87,1%;ởViệtNamlà68,5%[105,trix],đếnnăm2023tỷlệgiảmcòn 64,9% [106]. Như vậy số lượng NLĐ có việc làm PCT ở nước ta hiện nay vẫn chiếm hơn phân nửa tổng số lực lượng laođộng.

Theo các nghiên cứu cho thấy việc làm PCT có thể mang lại cơ hội và thu nhập cần thiết cho chính NLĐ và gia đình họ, nhưng quyền lợi của nhóm này trên thực tế đang không được đảm bảo. Như không được giao kết HĐLĐ theo đúng luật định mà lẽ ra phải được giao kết HĐLĐ theo đúng luật định (theo tổng cục thống kê, năm 2022 có gần 79% NLĐ có việc làm PCT khơng có HĐLĐ hoặc HĐLĐ không bằng văn bản, thamkhảotại[105,tr20]);khơngđượcthamgiaBHXHbắtbuộcvìNSDLĐtrốnđóng hoặc vì pháp luật khơng quy định, khơng được bồi thường hoặc trợ cấp khi bị tai nạn lao động (theo Tổng cục thống kê, năm 2022 có 97,8% NLĐ có việc làm PCT khơng thamgiabấtkỳloạihìnhbảohiểmxãhộinào,35,5%trongsốđólàNLĐcóviệclàm

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

PCTlàmcơngănlương,thamkhảotại[105,tr20])…Cácquyđịnhvềbảovệquyềnlợi của NLĐ có việc làm PCT hiệnnaycũng còn nhiều bất cập. Các quy định của BLLĐ năm 2019 chỉ áp dụng trên cơ sở có mối quan hệ lao động, do đó cũng chỉ có một phần laođộngPCT(laođộnglàmcơngănlương)đượcápdụngcácquyđịnhcủaBLLĐnăm

2019,nhữngNLĐkhơngcóquanhệlaođộngthìkhơngđượcápdụng;Mặtkhác,Khoản 3 Điều 220

<i>BLLĐ năm 2019 quy định: “…người làm việc không có quan hệ lao</i>

<i>độngdocácvănbảnphápluậtkhácquyđịnhnhưngtùytừngđốitượngmàđượcápdụngmột số quyđịnh trong Bộ luật này” nhưng lại khơng có hướng dẫn chi tiết điều khoản này. Do đó,</i>

khơng có cơ sở để thực hiện trên thựctế.

Nhưvậy,dùNhànướcđãlưuýđếnviệcbảovệquyềnlợicủaNLĐ cóviệclàm PCT nhưng thực tế quyền lợi của họ vẫn chưa được thực hiện đầy đủ. Có chun gia cịnđánhgiárằngquyđịnhđốitượngápdụngvớingườilàmviệckhơngcóquanhệlao

độngtrongKhoản1Điều2BLLĐnăm2019dườngnhưmangnhiềnghĩabiểutượng và tun ngơn pháp lý trong bối cảnh hiện nay [59, tr 24]. Trong khi đó, văn kiện Đại hội XIII của Đảng

<i>lại khẳng định “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh vàphúc lợi xã hội, an</i>

<i>ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiệntiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc củanhândân”.</i>

Như vậy, đây là vấn đề đã và đang được nhà nước quan tâm ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có khía cạnh khoa học pháp lý. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn

<i>đề tài “Bảo vệ quyền lợi của người lao động có việc làm phi chính thức theo pháp</i>

<i>luậtViệt Nam hiện nay”làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sỹ luật học.</i>

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luậnán</b>

<i><b>2.1. Mục đích nghiên cứu của luậnán</b></i>

Mục đích nghiên cứu của luận án bao gồm:

<i>Thứ nhất, làm rõ các lý luận về NLĐ có việc làm PCT và bảo vệ quyền lợi của NLĐ có</i>

việc làm PCT.

<i>Thứ hai, đưa ra những đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật</i>

về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT.

<i>Thứ ba, đề xuất các giải pháp hữu ích nhằm hồn thiện pháp luật và nâng cao</i>

hiệuquảthựchiệnphápluậtvềbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCTởViệtNam hiệnnay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luậnán</b></i>

Đểđạtđượcmụcđíchnghiêncứutrên,đềtàithựchiệncácnhiệmvụnghiêncứu sauđây:

<i>Thứnhất,xemxéttổngquantìnhhìnhnghiêncứuliênquanđếnđềtài,làmrõlý thuyết nghiên cứu,</i>

các khoảng trống cần nghiên cứu, từ đó xác định những vấn đề tiếp tục nghiên cứu trong luậnán.

<i>Thứ hai, nghiên cứu phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về NLĐ có việclàm PCT, bảo vệ</i>

quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT như: khái niệm, đặc điểm NLĐ có việclàmPCT;kháiniệmvànộidungbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCT;khái niệm, nguyên tắc và nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

<i>Thứ ba, đánh giá thực trạng quy định về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở</i>

Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng đó. Luận án có tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để tìm ra những gợi mở cho Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

<i>Thứnăm,đềxuấtđịnhhướng,đềxuấtcácgiảipháphồnthiệnphápluậtvànâng cao hiệu quả thực hiện</i>

pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiêncứu</b>

<i><b>3.1. Đối tượng nghiêncứu</b></i>

Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:

<i>Thứ nhất, những vấn đề lý luận về NLĐ có việc làm PCT và bảo vệ quyền lợi của NLĐ</i>

có việc làm PCT.

<i>Thứ hai, các quy phạm pháp luật của Việt Nam về bảo vệ quyền lợi của NLĐcó</i>

việclàmPCT.Trongchừngmựcnhấtđịnh,luậnáncũngnghiêncứuđếnquyphạmpháp luật của một số nước trên thế giới có liên quan đến đề tài luậnán.

<i>Thứba,thựctrạngthựchiệnphápluậtvềbảo vệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàm PCT ở Việt Nam</i>

<i><b>3.2. Phạm vi nghiêncứu</b></i>

<i>Thứ nhất, phạm vi nghiên cứu về nội dung.</i>

Về NLĐ: luận án nghiên cứu tất cả những NLĐ có việc làm PCT trong cả khu vực kinh tế chính thức và khu vực kinh tế PCT, những người có quan hệ lao động và những người khơng có quan hệ lao động.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Về vấn đề bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT: Quyền lợi của lao động PCT có rất nhiều, nhưng trong phạm vi luận án này, đề tài chỉ nghiên cứu việc bảo vệ cácquyềnlợicơbảnsauđây:Bảovệquyềnlàmviệc(gồmquyềnđượclàmviệc;quyền

quyềnđượclàmviệctrongmơitrườngđảmbảoantồn,vệsinhlaođộng);bảovệquyền được đảm bảo thu nhập (gồm quyền được hưởng lương công bằng và bình đẳng và quyền được hưởng lương thỏa đáng, không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định và thu nhập đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ); bảovệquyềnđượccóthờigiờlàmviệc,thờigiờnghỉngơihợplý(gồmquyềnđượclàm việc trong khoảng thời gian giới hạn và quyền được nghỉ ngơi hợp lý); bảo vệ quyềnvề an sinh xã hội (gồm quyền về bảo hiểm xã

quyềnđượchưởngtrợgiúpxãhộivàquyềnđượchưởngcáccácdịchvụcơbản).Vìđây là những quyền lợi trọng yếu, có ảnh hưởng mật thiết đến đời sống vật chất, tinh thần của NLĐ có việc làm PCT. Bảo vệ tốt các quyền này, không chỉ giúp cho đời sống tinh thần,vậtchấtcủaNLĐcóviệclàmPCTtốthơnmàcịncóthểsẽgópphầnchuyểndịch một lực lượng lao động PCT trở thành lao động chính thức, đây chính là một trong những giải pháp bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

<i>Thứhai,phạmvinghiêncứuvềkhơnggianvàthờigian:Luậnántậptrungnghiên cứu bảo vệ quyền lợi của</i>

NLĐ có việc làm PCT tại Việt Nam từ 2020 đến nay, có so sánhmộtsốkhíacạnhvớinăm2016.Đồngthờicũngnghiêncứuphápluậtvàthựctiễn của một số nước trên thế giới trong số ít ngành nghề nhấtđịnh.

<b>4. Phương pháp luận và phương pháp nghiêncứu</b>

<i><b>4.1. Phương phápluận</b></i>

Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủnghĩaduyvậtbiện chứngvàduyvậtlịchsử của chủnghĩaMác-Lênin, nhấtlà nguyênlývề mốiliênhệ phổbiếnđểphân tích, đánhgiámốiliên hệtácđộngqua lại giữa lợiíchcủaNSDLĐvà NLĐ nóichung,NLĐcóviệclàmPCTnóiriêng.Quyluật thốngnhấtvàđấu tranhgiữacácmặtđốilậplànềntảngphươngphápluậnđểvậndụngtrongphântíchmốiquanhệtácđộn gqualạigiữalợiíchcủaNSDLĐvàNLĐnóichung,NLĐcóviệclàmPCTnóiriêng. Cáccặp phạm trùnguyên nhânvà kếtquả,bản chấtvàhiệntượng,khả năngvàhiệnthực ...cũnglà nền tảngphươngpháp luận đểluậnánluận giảicácnguyên nhândẫn đếnnhữnghạnchếtrongthựctrạngphápluật,thựctiễnthựchiệnphápluậtvềbảovệquyềnlợicủaNLĐ cóviệclàmPCT,từđókiếnnghịcácgiảipháphồnthiệnphápluậtvànângcaohiệuquảthựchiệnphápl uậtvềbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCT.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Nhànướctatrongpháttriểnkinhtế,laođộng,việclàmcũnglànềntảng phươngpháp luận để luận án vận dụng trong quá trình nghiên cứu về nền tảng lý luận, để luận giải cácngunnhândẫnđếnnhữnghạnchếtrongthựctrạngphápluật,thựctiễnthựchiện

phápluậtvềbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCT,từđókiếnnghịcácgiảipháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợicủa NLĐ có việc làmPCT.

<i><b>4.2. Phương pháp nghiêncứu</b></i>

Luậnánsửdụnglinhhoạtcácphươngphápnghiêncứucụthểnhư:Phươngpháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, phương pháp suy luận logic, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu điển hình, phương pháp phân tích quy phạm pháp luật, phương pháp dự báo khoahọc. rõ những kết quả đã được các cơng trình nghiên cứu trong nước và nước ngồi có liên quan đến NLĐ có việc làm PCT, lý luận và pháp luật, cũng như thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT, và các giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

quyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCT;làmrõnhữngvấnđềchưađượcnghiêncứuhoặc nghiên cứu chưa sâu, từ đó chỉ ra những hướng nghiên cứu chính của luậnán.

<i>Thứ hai, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, phương pháp</i>

tổnghợp,phươngphápsosánh,phươngphápbìnhluận,phươngphápquynạp,phương pháp diễn dịch, phương pháp suy luận logic, phương pháp hệ thống ... được sử dụng trong chương 2 để làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT và pháp luật về bảo vệ quyền lợi của

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

quy phạm pháp luật ... được sử dụng trong chương 3 của luận án nhằm làm rõ thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam, từ đó làm rõ những hạn chế trong quy định của pháp luật, hạn chế trong thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT và ngun nhân.

<i>Thứtư,phươngphápphântích,phươngpháptổnghợp,phươngphápbìnhluận, phương pháp quy</i>

nạp, phương pháp diễn dịch, phương phápsuyluận logic, phương pháp hệ thống, phương pháp dự báo khoa học... được sử dụng trong chương 4 để làm rõ những định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

<b>5. Những đóng góp mới của luậnán</b>

<i><b>5.1. Đóng góp mới về lýluận</b></i>

Luận án có những đóng góp mới sau đây:

<i>Thứ nhất, luận án đóng góp vào hệ thống lý luận các khái niệm việc làm PCTvà NLĐ có việc</i>

làm PCT, chỉ ra được những đặc trưng của NLĐ có việc làmPCT.

<i>Thứ hai, luận án cũng đóng góp thêm vào hệ thống lý luận khái niệm bảo vệ và pháp luật</i>

bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT.

<i><b>5.2. Đóng góp mới về thựctiễn</b></i>

<i>Thứ nhất, luận án làm rõ hơn thực trạng pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi</i>

của NLĐ có việc làm PCT trong các nhóm quyền về: quyền làm việc; quyền được đảm bảo thu nhập; quyền được có thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý và quyền về an sinh xã hội.

<i>Thứ hai, luận án đưa ra các đánh giá về thực trạng bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm</i>

PCT ở Việt Nam hiện nay có liên quan đến các nhóm quyền lợi đã nêu trên.

<i>Thứba,luậnáncũngđưarađịnhhướng,cácgiảiphápnângcaohiệuquảbảovệ quyền lợi của NLĐ</i>

có việc làm PCT trong giai đoạn hiệnnay.

<b>6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luậnán</b>

<i><b>6.1. Ý nghĩa về mặt lýluận</b></i>

Luận án làm sáng tỏ thêm khái niệm việc làm PCT, đóng góp khái niệm mới về NLĐcóviệclàmPCTvàhồnthiệnthêmkháiniệmNLĐ.Đồngthờiluậnáncũnggóp phần củng cố, hoàn thiện thêm các vấn đề lý luận và làm rõ bản chất pháp luật bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT, tạo cơ sở tham khảo trong q trình xây dựng và hồn thiện pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩmquyền.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i><b>6.2. Ý nghĩa về mặt thựctiễn</b></i>

Luận án sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà lập pháp có thể tham khảo để nghiên cứu, xem xét, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT.

Luận án cung cấp một bức tranh toàn cảnh về thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT, cho các cơ quan nhà nước thấy cần phải tăng cường bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam hiện nay.

Luận án còn là một nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu về pháp luật lao động trong đào tạo chuyên ngành luật.

<b>7. Kết cấu của luậnán</b>

Ngoàiphầnmởđầu,kếtluận,danhmụctừviếttắt,bảngbiểu,sơđồ,luậnánđược chia làm 04 chương thực tiễn thực hiện ở Việt Nam hiệnnay.

Chương4:Địnhhướng,giảipháphoànthiệnphápluậtvànângcaohiệuquảthực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người lao động có việc làm phi chínhthức

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

cơngtrìnhnghiêncứutrongvàngồinước.Trongphầntổngquannày,tácgiảcốgắng khái qt nhiều nhất các cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về vấn đềnày.

<i><b>1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về lýluận</b></i>

<i>1.1.1.1. Cáccơngtrìnhnghiêncứuliênquanđếnkháiniệmvàđặcđiểmcủangườilaođộng cóviệc làm phi chínhthức</i>

Đầu tiên, phải khẳng định rằng các thuật ngữ: “việc làm PCT”, “khu vực PCT” hay “khu vực kinh tế PCT” và “lao động PCT” hay “NLĐ có việc làm PCT” là những thuật ngữ không thể tách rời nhau. Vì trong khu vực kinh tế PCT chứa đựng việc làm PCTvàkhuvựckinhtếPCTkhơngthểvậnhànhnếuthiếuđiNLĐ.Hiệnnay,cáckhái

niệmnêutrênvẫncịnnhiềutranhcãi,chưacósựthốngnhấtthểhiệntrongnhiềucơng trình nghiên cứu khoahọc.

<i>Thứ nhất, những cơng trình nghiên cứu xác định NLĐ có việc làm PCT một cách gián</i>

tiếp qua việc nghiên cứu các vấn đề kinh tế, an sinh xã hội. Có: Đồng Quốc Đạt (2008),

<i>“Một số đặc điểm của hệ thống an sinh xã hội khu vực phi chính thức</i>

<i>ởViệtNam”[23]bằngviệcđưarakháiniệmvềansinhxãhộichokhuvựcPCT,tácgiả cũng đã gián</i>

tiếp chỉ ra các thành viên thuộc khu vực PCT chính là NLĐ có việc làm PCT; Lư Nguyễn

<i>Xuân Vũ (2010), “Bước đầu tìm hiểu nghề kinh doanh phế liệu</i>

<i>củangườiHoatạiThànhphốHồChíMinh”[47]đãchỉrangànhnghềkinhdoanhphếliệu ở thành phố</i>

Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 thuộc khu vực kinh tế PCT và NLĐ làm các

<i>cơngviệcnàylàlaođộngcóviệclàmPCT;LưuBíchNgọc,NguyễnThịThiềng(2011) trong “Thanh niên</i>

<i>di cư làm việc trong khu vực phi chính thức tại Hà Nội là ai?” [49] cũng không trực tiếp</i>

đưa ra khái niệm NLĐ có việc làm PCT, mà với việc trích dẫn địnhnghĩakhuvựcPCTcủaViệnnghiêncứuquảnlýkinhtếTrungương(2003),nhóm tác giả đã gián tiếp cơng nhận tất cả những NLĐ làm việc trong khu vực PCT chínhlà NLĐ có việc làm PCT. Tương tự như vậy, cũng có khá nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả khác (như: [65]; [22]; [122]; [78]; [52]; [75]; [134]; [21]; [28];[20]).

<i>Julian M. Goetz (2022), “What do we know about rural and</i>

<i>Evidencefromamixedmethodsstudyofartisanalandsmallscale mining in NorthwestTanzania” [144] đã xác định Lao động ở nông thôn, chủ yếu là PCT; Dina Adei,</i>

Anthony Acquah Mensah, Williams Agyemang-Duah & Kenneth Kwame KanKam,

<i>Rahman Shiri (2021) “Economic Cost of Occupational Injuriesand</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i>Diseases among Informal Welders in Ghana” [134] nhận định nghề hàn xì thuộc khu</i>

vực kinh tế PCT và NLĐ làm cơng việc này chính là NLĐ có việc làm PCT;

<i>Veronica Peprah, Daniel Buor & David Forkuor (2019), “Characteristics</i>

<i>ofinformal sector activities and challenges faced by women in Kumasi Metropolis,Ghana”[ 1 5 0 ] khơngđưarakháiniệmNLĐcóviệclàmPCTmàtrựctiếpchỉranhững</i>

đặcđiểmcủaNLĐcóviệclàmPCT.Cụthểbàiviếtchobiết3 0 , 9 % (trongtổngsố356 phụ nữ làm việc PCT) phải đối mặt với nhiều thách thức như không đủ khách hàng, khơngtrảđượcnợ,thuếvàphígiấyphépcao,khơngcósẵntàichính,thiếukhơnggian, thiếu vốn, thiết bị và vướng mắc với các quy định hiện hành. Tương tự cách tiếp cận có Mayowa Abiodun

<i>Peter-Cookey, Kanda Janyam, (2017), “Reaping just what issown: Low-skills and </i>

<i>low-productivity of informal economy workers and the skill acquisition process indeveloping countries” [147] cũng không đưa ra khái niệmNLĐ có việc làm PCT mà chỉ tiếp</i>

cận đối tượng lao động này qua một số đặc điểm của họ, bài viết quan tâm đến mối quan hệ nhân quả giữa kỹ

rằngNLĐcóviệclàmPCTcókỹnăngthấp,khiếnhọrơivàovịngluẩnquẩn:kỹnăng thấp – năng suất thấp – thu nhập thấp làm cho quyền lợi kinh tế, thu nhập khơng được đảmbảo.CùngcáchtiếpcậnnàycịncóSalmonMugoda,StephenEsaku,RoseKibuka Nakimu &

<i>Edward Bbaale (2020) “The portrait of Uganda’s informal sector:</i>

làmPCTlàtrìnhđộhọcvấnthấp,khơngcókỹnăngchunmơnvàđốitượnglaođộng trong những công việc như quán ăn, bán cá, đánh giày, v.v…chủ yếu là học sinh tiểu học đã bỏ học và những người khơng có trình độ họcvấn.

HầuhếtcáccơngtrìnhnghiêncứutrênđềuxácđịnhNLĐcóviệclàmPCTtheo một cách đơn giản, họ là những NLĐ làm việc trong khu vực kinh tế PCT hoặc NLĐ

<i>ChíMinh(2008)”[126].Quanghiêncứuchothấycơngtrìnhnàycũngkhơngtrựctiếp đưa ra khái</i>

niệm NLĐ có việc làm PCT, cơng trình chủ yếu đi phân tích khu vựckinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i>tếPCTvàviệclàmPCTởViệtNam.Theotàiliệunày,khuvựckinhtếPCTđượcđịnh nghĩa là “tất</i>

<i>cả các doanh nghiệp khơng có tư cách pháp nhân sản xuất ít nhất mộthoặc một vàisản phẩm và dịch vụ để bán hoặc trao đổi không đăng ký kinh doanh(khơngcógiấyphépkinhdoanh)vàkhơngthuộcngànhnơng,lâmnghiệpvàthủysản” và gọi các</i>

doanh nghiệp này là “các hộ sản xuất kinh doanh PCT” [126, tr 24]. Dođó, các hộ sản xuất kinh doanh chính thức (có đăng ký kinh doanh) thuộc khu vực kinh tế chính thức. Cơng trình này cũng chấp nhận định nghĩa

<i>việclàmPCT như sau: “Việclàm PCT là việc làm khơng có bảo hiểm xã hội” [126, tr</i>

24]. Theo cơng trình này, những NLĐ làm việc trong khu vực kinh tế PCT và những

Dina Adei, Imoro Braimah, John Victor Mensah, Anthony Acquah Mensah &

<i>Williams Agyemang-Duah (2021), “Improving upon the working environment</i>

<i>ofinformal sector workers in Ghana: The role of planning” [135] cũng không trực</i>

tiếp đưa ra khái niệm NLĐ có việc làm PCT mà trực tiếp chỉ ra những người làm dịch vụ PCTnhưláixe,nhânviênthẩmmỹ,ngườikhnvác,ngườichếbiếncávàthợcơkhí ở khu

<i>vực đơ thị Sekondi-Takoradi là lao động PCT. Bài viết cho rằng “Khu vực PCTbiểu thị</i>

<i>việc làm và sản xuất diễn ra trong các doanh nghiệp nhỏ và/hoặc khơng đăng ký,chưa có tư cách pháp nhân” nên các cơng việc trên chính làPCT.</i>

Việc hiểu về NLĐ có việc làm PCT như các cơng trình nêu trên vẫn khá đơn giản, chủ yếu theo hướng một cơng việc nào đó được xem là cơng việc PCT và người làm cơng việc đó được xác định là NLĐ có việc làm PCT hoặc khu vực kinh tế PCT được xác định là những nơi nào và NLĐ làm việc tại những nơi đó được xem là NLĐ cóviệclàmPCT,hoặcNLĐcóviệclàmPCTcónhữngđặcđiểmgì.Mộtsốcơngtrình tiếp cận khái niệm NLĐ có việc làm PCT một cách toàn diện hơn dựa trên sự kết hợp khái niệm khu vực kinh tế PCT và việc làm PCT. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ góc độ tiếp cận, nghiên cứu và hoàn cảnh lịch sử. Đa số các công trình nêu trên đều chủyếunghiêncứuvềkhuvựckinhtếPCTvớinhữngđặcđiểmcủanóvàlaođộngcó việc làm PCT chỉ là một thành phần, yếu tố của khu vực kinh tếPCT.

<i>Thứ ba, những cơng trình trực tiếp nghiên cứu về NLĐ có việc làm PCT. Có:</i>

đã đưa ra khái niệm và định nghĩa của quốc tế về lao động PCT nói chung và đưa ra khái niệm khu vực kinh tế PCT và việc làm PCT trong phạm vi và nguyên tắc áp dụng riêng

<i>với Việt Nam nói riêng [107, tr 5]. Và theo nghiên cứu này “Lao động PCT</i>

<i>đượcđịnhnghĩalàlaođộngcóviệclàmPCT”.ỞđâydễnhậnthấycáchxácđịnhNLĐcó</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>việc làm PCT trong “Báo cáo lao động phi chính thức 2016” và “Khu vực kinh tế</i>

<i>phichính thức ở hai thành phố lớn của Việt Nam - Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh: Phântích sâuvềkếtquảthuđượctừcuộcĐiềutraLaođộngViệclàm2007vàcuộcĐiềutrakhu vựckinh tế PCT tại Hà Nội (2007) và TP. Hồ Chí Minh (2008)” năm 2010 của Viện Khoa</i>

<i>học Thống kê tương đương nhau. Nhưng trong “Báo cáo lao động phi chínhthức2016”</i>

các nghiên cứu được thực hiện bài bản, đầy đủ hơn và nhấn mạnh hơn đến NLĐ có việc làm PCT vì Báo cáo này đã xác định NLĐ có việc làm PCT dựa trên 5 tiêu chí [107, tr 6], chứ khơng chỉ đơn giản căn cứ vào khu vực làm việc hay BHXH như các cơngtrìnhnghiêncứutrướcđó.Cùnghướngnghiêncứunàycũngcónhiềutácgiảkhác (như [67]; [31]; [62]; [42]; [17];[69]).

Maranatha Wijayaningtyas, Kukuh Lukiyanto, Ellysa Nursanti, Dimas Indra

<i>Laksmana (2022) “The effect of economical phenomenon on informal</i>

<i>constructionworkers earnings within Covid-19 pandemic: A mixed method analysis”</i>

[146] cũng tiếp cận khái niệm NLĐ có việc làm PCT như vậy. Theo bài viết, lao

độngkhơngcóHĐLĐdàihạnvàansinhxãhội.Nhữngcơngnhânxâydựngmàkhơng có HĐLĐ dài hạn và an sinh xã hội được xác định là lao động PCT. Nhóm lao động này có đặc điểm là trình độ học vấn thấp, thu nhập tối thiểu, cơ hội kinh tế của họ bị hạn chế, họ không được

<i>hưởng đầy đủ quyền của NLĐ như quyền nghỉ ốm; Luz A. Flórez (2018), “Job search</i>

<i>inefficiency and optimal policies in the presence of aninformal sector” [145] cho rằng</i>

lao động có việc làm PCT là lao động tự do, khơng được kiểm sốt và chính phủ khơng thể quan sátđược.

<i>Trongấnphẩm“TổngquanvềlaođộngcóviệclàmphichínhthứcởViệtNam”, Tổng cục</i>

Thống kê Việt Nam có quan điểm không tách rời khái niệm “việc làmPCT” và “NLĐ PCT” mà nghiên cứu trực tiếp và nhấn mạnh đến yếu tố con người là NLĐ có việc làm PCT. Trong khái niệm NLĐ có việc làm PCT đã gián tiếp

<i>xác định việc làm PCT là gì: “NLĐ có việc làm PCT (còn gọi là lao động PCT) là những người</i>

<i>làmcác công việc mà theo luật định hoặc trên thực tế không được pháp luật lao độngbảo vệ, không phải đóng thuế thu nhập hoặc khơng được hưởng các chế độ bảo trợxã hội vàchếđộviệclàmkhác(nhưkhôngđượcthôngbáotrướcvềviệcsathải,khôngđược trợcấp thôi việc, không được trả lương hàng năm hoặc không được nghỉ phép khi ốmđau, v.v.). Cơng việc đó thường khơng được khai báo, có tính chất tạm thời hoặcngắnhạn, có số giờ làm việc hay mức lương dưới ngưỡng quy định, đôi khi không tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật” [105, tr 2].</i>

<i>việclàmphichínhthứcởViệtNam:Xuhướngvàcácyếutốtácđộng”cũngchorằng[140, tr 16]:</i>

Việc làm PCT bao gồm tất cả các thỏa thuận việc làm trong đó khơng trang bị cho cá nhân NLĐ sự bảo vệ về mặt pháp lý hoặc xã hội thông qua công việc của họ, dođókhiếnhọdễgánhchịucácrủirokinhtế.TínhPCTbaohàmrấtnhiềuloạihình

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

việc làm và doanh nghiệp khác nhau, với đặc trưng là khơng có các quan hệ lao động chính thức và khơng cấu thành việc làm chính thức. Các quan điểm này cho thấy, dù nói đến việc làm hay nói đến con người (NLĐ) thì bản chất của yếu tố PCT chính là:

(1)Khơngđượcphápluậtlaođộngđiềuchỉnhhết,như:khơngphảiđóngthuếthunhập, khơng khai báo, không tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, không được pháp luậtlaođộngbảovệ; (2)Khôngthựchiệncácchếđộviệclàm,như:khôngđượcthông

báotrướcvềviệcsathải,khôngđượctrợcấpthôiviệc,khôngđượctrảlươnghàngnăm hoặc không được nghỉ phép khi ốmđau.

Nhóm những cơng trình nêu trên đã bắt đầu nghiên cứu đến NLĐ có việc làm PCT theo cách định nghĩa trực tiếp với mức độ bao quát rộng hơn và xuất phát từ đặc điểm của nhóm lao động này. Từ đó tìm hướng giải quyết trực tiếp các vấn đề tồn tại trong chính nội tại của NLĐ làm việc PCT, như vấn đề giảm nghèo, chuyển NLĐ có việc làm PCT thành NLĐ có việc làm chính thức, bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT. Tuy nhiên, số lượng cơng trình nghiên cứu theo hướng này chưa nhiều.

Trên đây là một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến khái niệm, đặcđiểm củalaođộngcóviệclàmPCT.Cáccơngtrìnhđãđưarađượccáckếtquảđểtrảlờicho câu hỏi: Lao động có việc làm PCT là ai, lao động có việc làm PCT có đặc điểm gì. Tuy nhiên vẫn chưa có cơng trình nào đưa ra được một khái niệm tồn diện về NLĐ có việc làmPCT.

<i>1.1.1.2. Cáccơngtrìnhnghiêncứuliênquanđếnlýluậnvềbảovệquyềnlợicủangườilao động cóviệc làm phi chínhthức</i>

Các cơng trình nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT hầu như khơng nhiều. Chủ yếu là các đề tài nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi của NLĐ nói chung. NLĐ có việc làm PCT cũng là NLĐ, nên trong một số trường hợp có thể kế thừa,sửdụngcácnộidungbảovệquyềnlợicủaNLĐnóichungđểápdụngtrongbảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

<i>Thứ nhất,các cơng trình nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền của NLĐ nói chung.</i>

<i>VõKhánhVinh(chủbiên),2011,“Nhữngvấnđềlýluậnvàthựctiễn củanhómquyền</i>

<i>kinh tế văn hóa và xã hội” đã trình bày: “Quyền kinh tế không chỉ nhưng đượcbiểuhiện rõ nhất qua các quyền lao động của NLĐ. Theo công ước quốc tế về các quyềnkinh tế văn hóa và xã hội năm 1966 quyền lao động được hiểu theo nghĩa rộngbaogồmquyềnlàmviệc(Điều6khoản1),quyềntựdonghềnghiệp,quyềntưvấnnghề nghiệp, quyềnđược đảm bảo điều kiện lao động chính đáng và thuận lợi (Điều 7),quyềnđượcđảmbảođiềukiệnlaođộngantồnvàsứckhỏe,quyềnđượchưởngtương</i>

<i>xứngvớicơngviệc,quyềnđượchưởngmứclươngcơngbằngvàđượctrảlươngngang nhau chonhững công việc như nhau, quyền được trợ cấp cuộc sống trong nhữngtrườnghợpgặprủirotronglaođộng,quyềnnghỉgiữagiờ,quyềnđượcnghỉphéphàng</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>nămcólương,quyềnđượchưởngnhữngngàynghỉtheoluật,quyềnthamgiavàohoạtđộng cơngđồn, quyền đình cơng, quyền an ninh xã hội và quyền bảo hiểm xãhội”[128, tr14].</i>

<i>Võ Khánh Vinh (chủ biên), 2011, “Quyền con người” đã xác định những quyền nêu</i>

trong công trình nghiên cứu trên được tách thành hai nhóm: nhóm quyền kinh tế cơ bản và nhóm quyền xã hội. Trong đó các quyền kinh tế cơ bản gồm quyền được làm việc và hưởng thù lao công bằng, các quyền xã hội gồm quyền được hưởng phúclợixãhộivàantồn,anninhxãhội,quyềnđượcgiáodục,quyềnđượcchămsóc sức khỏe [129, tr 96, 97]. Báo cáo nghiên cứu trong các cơng trình trên ở tầm vĩ mơ, khơng đi nghiên cứu cụ thể về quyền củaNLĐ.

<i>động” nhận định một số quyền trong lĩnh vực lao động chính là quyền con người hay</i>

nói cách khác quyền con người có bao gồm một số quyền trong lao động. Bài viết đã

<i>đưa ra khái niệm như sau: “Có thể hiểu các quyền con người trong lao động lànhững</i>

<i>quyền con người liên quan đến điều kiện lao động và điều kiện sử dụng lao động, baogồm việc làm, tiền lương, an toàn lao động, hoạt động cơng đồn, an sinh xã hội nóichung, và bảo hiểm nói riêng. Các quyền này là những chuẩn mực được</i> do không bị lao động cưỡng bức, quyền tự do chấp nhận và lựa chọn công việc;Quyềnđượchưởngmứclươngcôngbằngvàđượctrảbằngnhauchonhữngcông việc như nhau; Quyền được làm việc trong điều kiện bảo đảm vệ sinh và an toàn lao động; Quyền được có thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi hợp lý; Quyền được thành lập gia nhập và hoạt động công đồn trong đó bao gồm cả quyền được thương lượngtậpthểvàđìnhcơng;QuyềnđượchưởngansinhxãhộinóichungvàBHXHnói riêng [82, tr

<i>20]. Trước đó, Phạm Cơng Trứ (2011), “Quyền của người lao động trongcác văn kiện</i>

<i>pháp lý quốc tế” [76] cũng đã diễn giải những quyền trên chính là quyền của NLĐ.</i>

Cùng quan điểm này cũng có Phạm Thị Thuý Nga (chủ biên),

<i>2021,“BảođảmpháplýthựchiệnquyềncủalaođộngdicưnộiđịaởViệtNam”.Cơngtrìnhnghiên cứu</i>

này cũng cho rằng “quyền của NLĐ” có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩahẹp.Theonghĩarộng,quyềncủaNLĐđượchiểunhưquyềnconngười(khiNLĐ được xem xét với tư cách một con người). Theo nghĩa hẹp quyền của NLĐ được hiểu là quyền con người trong

<i>lao động [83, tr 27]. Nguyễn Bình An (2016), “Quyền củangười lao động theo pháp luật</i>

<i>quốc tế và pháp luật Việt Nam” [54] cũng đề cập đến quyền của NLĐ trong các quy</i>

định pháp luật quốctế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<i>Lê Thị Hoài Thu (2013), “Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao</i>

<i>độngViệtNam”,cuốnsáchnàyđãxácđịnhbảođảmquyềncủaNLĐlànhằmchốnglạinguy cơ bị bóc</i>

lột, đối xử bất cơng, phải lao động trong những điều kiện không đảm bảo, cuốn sách cũng trình bày các quy định pháp luật lao động Việt Nam trong giai đoạn năm 2013 về bảo đảm quyền con người liên quan đến: bảo đảm quyền tự do việc làm; quyền được bảo đảm thu nhập, đời sống; quyền được tôn trọng, bảo đảm an tồn sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm danh dự, nhân cách của NLĐ; quyền tự do cơng đồn, quyền của NLĐ di trú... [40]. Kế thừa quan

<i>“Bảovệquyềncủangườilaođộnglàmviệctạidoanhnghiệpcóvốnđầutưnướcngồitheo pháp</i>

<i>luật Việt Nam hiện hành”. Luận án đã nhận định “Bảo vệ quyền của NLĐbao gồmviệc phòng ngừa và chống lại mọi hành động của người sử dụng lao động(gồmcảcửchỉ,tháiđộ)cóthểgâyratổnthươngvềdanhdự,nhânphẩm,xâmhạiđến thân thể,quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ trong quá trình lao động như: quyền làm việc,quyền được đảm bảo thu nhập và đời sống, quyền được đảm bảo danh dự, nhân phẩm vàtính mạng…” [111, tr 38], nhưng luận án chỉ nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi của</i>

NLĐ làm việc trong phạm vi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Cùng nhóm đối tượng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn có

<i>PhạmHồngLinh(2019),“Bảođảmquyềncủangườilaođộngtrongdoanhnghiệpcóvốn đầu tư</i>

<i>nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”, luận án cũng chia nội dung bảo đảm quyền của</i>

NLĐ thành: quyền làm việc; quyền nhân thân; quyền được hưởng lương; quyền liên kết; quyền được hưởng an sinh xã hội [77, tr54].

Cùng hướng nghiên cứu về bảo đảm quyền của NLĐ nhưng về lao động di cư

<i>có Phạm Thị Thuý Nga (2021), “Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền của lao động di</i>

<i>cưnội địa ở Việt Nam” đã đưa ra các cơ sở lý luận về bảo đảm pháp lý thực hiện</i>

<i>quyền của lao động di cư nội địa ở nước ta. Theo cơng trình nghiên cứu này, “ Bảo</i>

<i>đảmpháplý thực hiện quyền của lao động di cư nội địa thực chất là một hệ thống cáccông cụ, yếu tố pháp lý để bảo đảm thực hiện quyền của lao động di cư nội địa, gồmghi nhận các quyền của lao động di cư nội địa bằng pháp luật, trên cơ sở đó tổ chứcbộ máy thực hiện và triển khai các cơ chế bảo vệ để đảm bảo thực hiện quyền củalao độngdi cưnộiđịatrênquymơtồnxãhộibằngchínhquyềnlựcvàhoạtđộngcủabộmáynhànước”[83, tr 76]. Trần Tuấn Sơn (2021), “Một số vấn đề về bảo vệ quyền củangườilaođộngtrongphápluậtViệtNamtheocamkếtcủahiệpđịnhđốitáctoàndiệnvàtiến bộxuyên Thái Bình Dương” đã nhận định “Bản chất của việc bảo vệ quyền củaNLĐchính là bảo vệ NLĐ chống lại những hành vi xâm phạm đến các quyền và lợiíchhợp pháp của NLĐ đã được pháp luật ghi nhận” [114]. Cơng trình nghiên cứu cũng cho</i>

rằngbảovệquyềncủaNLĐđượchiểutheonhữngphươngdiệnkhácnhau.Nếuxétvề mặtnghĩathìbảovệquyềnchínhlàsựchechởgiữgìnbảođảmđốivớinhữngđiềumà

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

họ được hưởng do pháp luật quy định và được xã hội cơng nhận. Cịn nhìn nhận theo phương diện là các quy định của pháp luật thì đó chính là các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ phápluậtlaođộngmàmụcđíchchínhlàbảovệquyềncủaNLĐkhithamgiavàohoạt động lao động. Và chủ thể được bảo vệ chính là những NLĐ. Cùng hướng tiếp cận có Trần Tuấn

<i>Sơn; Mai Vân Anh (2021) “Các yêu cầu về tiêu chuẩn lao động quốc tế</i>

<i>cơbảnđểbảovệquyềnlợicủangườilaođộngtheoHiệpđịnhĐốitácToàndiệnvàTiến bộ xuyênThái Bình Dương”[115].</i>

<i>Phan Thị Mai Anh (2018),“Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối</i>

<i>vớilao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn các khu công nghiệptại thành phố Hồ Chí Minh”cũng đề cập đến quyền của lao động nữ và bảo đảm</i>

<i>quyền của lao động nữ, tác giả nhận định “Bảo đảm quyền của lao động nữ là việc</i>

<i>pháp luậtlaođộngghinhậncácquyềncủalaođộngnữtrongquanhệlaođộngvàcácbiệnphápbảođảmviệcthựchiệncácquyềncủalaođộngnữtheophápluậtlaođộnghiệnhành”[86, tr 16].</i>

<i>Bài báo “Globalisation, the development of constitutionalism and</i>

<i>theindividualemployee”củaKCalitzđãxemxétnhữngvấnđềlýluậnliênquanđếnNLĐ cá nhân</i>

như quyền lập hội, quyền được đối xử công bằng, khẳng định những quyền nàydànhchocảNLĐnướcngồivàNLĐbảnxứđồngthờinhấnmạnhvaitrịcủaTồ án trong việc bảo vệ quyền của NLĐ nước ngoài. Bài báo đặt ra vấn đề là hệ thế pháp luật nào sẽ được áp dụng trong các HĐLĐ quốc tế [77, tr9].

Nhưvậy,cáccơngtrìnhnêutrênlànhữngnghiêncứuvềquyềnvàbảovệquyền của NLĐ nói chung, có thể làm nền tảng cho việc nghiên cứu quyền và bảo vệ quyền của NLĐ có việc làmPCT.

<i>Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền của NLĐ cóviệc làmPCT.</i>

<i>Theo Nguyễn Quỳnh Phương (2018) “Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền</i>

<i>lợicủa lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam” thì “Bảo vệ quyền lợi của NLĐ làmgiúpviệcgiađìnhchínhlàghinhậncácquyềnlợitrongmốiquanhệvớingườisửdụnglao độngtrong pháp luật lao động” [64, tr 13]. Và các quyền lợi của NLĐ giúp việc gia đình</i>

cần được bảo vệ là: quyền tự do làm việc, quyền lợi về tiền lương, BHXH, điều kiện làm việc, an toàn tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của NLĐ [64, tr 12].

<i>Tương tự hướng nghiên cứu có Nguyễn Thị Phương Thuý (2020), “Pháp luật về</i>

<i>laođộng giúp việc gia đình ở Việt Nam”[68].</i>

Đa số các cơng trình nghiên cứu trên đều cho rằng bảo vệ quyền lợi của NLĐ gồm 2 vấn đề có liên quan mật thiết với nhau, đó là: (1) ghi nhận các quyền của NLĐ trong các văn bản quy phạm pháp luật và (2) thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo các quy định pháp luật đó được thực hiện đúng đắn trên thực tiễn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>Tuy nhiên, Phạm Thị Thu Lan (2021), “Bảo vệ người lao động trong xu hướngphi chính</i>

<i>thức việc làm ở Việt Nam” lại cho rằng bảo vệ NLĐ trong xu hướng PCT việc làm nghĩa</i>

là thực hiện mục tiêu giữ việc làm chính thức cho NLĐ trong khu vực có quan hệ lao động và luật hố việc làm PCT để đảm bảo mọi NLĐ dù làm cơngviệc gì đều được sự quan tâm và bảo vệ liên quan tới việc làm [81, tr34]. Cách tiếp cậnnày cũng có phần hợp lý, nhưng chưa tồn diện vì ngay cả NLĐ đang làm cơngviệc chính thứccũngvẫnbịviphạmquyềnlợi.Nêngiữviệclàmchínhthứchayluậthốviệclàm PCT chỉ là một trong những giải pháp bảo vệ quyền lợi của NLĐ nói chung (trong xu hướng PCT việc làm) và NLĐ có việc làm PCT nóiriêng.

Các cơng trình nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT hiện nay cịn khá ít và mức độ nghiên cứu chưa được tồn diện.

<i>Thứ ba, các cơng trình nghiên cứu về cơ chế, phương thức, biện pháp bảo vệ</i>

quyền lợi của NLĐ nói chung và NLĐ có việc làm PCT nói riêng thì có một số cơng trình sau đây:

<i>VõKhánhVinh(2011),“Cơchếbảođảmvàbảovệquyềnconngười”[127]đã trình bày các</i>

cơ chế bảo vệ quyền con người, nhưng công trìnhnàytập trung nghiên cứuvềvấnđềbảovệquyềnconngườinóichung,chưađềcậpnhiềuđếnbảovệquyền lợi của NLĐ nói chung và NLĐ có việc làm PCT nóiriêng.

<i>Trần Nguyên Cường (2016), “Bảo vệ quyền của người lao động làm việc</i>

<i>tạidoanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi theo pháp luật Việt Nam hiện hành” đã</i>

trình bày các cơ chế bảo vệ quyền của NLĐ bằng cơng đồn, thanh tra, trọng tài và

<i>tồ án. Cùng hướng nghiên cứu có Phạm Hồng Linh (2019), “Bảo đảm quyền của</i>

<i>người laođộng trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” xác định</i>

các biện pháp bảo đảm quyền của NLĐ thông qua chủ thể bảo đảm, gồm: biện pháp bảo đảm quyền của NLĐ từ phía Nhà nước (biện pháp hành chính, biện pháp tư pháp); biện pháp bảo đảm quyền của NLĐ từ phía NLĐ và tổ chức đại diện NLĐ;

đảmquyềncủaNLĐtừphíaNSDLĐvàtổchứcđạidiệnNSDLĐ.Nhưvậy,theocơng trình này, NSDLĐ, NLĐ và tổ chức đại diện của mỗi bên cũng là chủ thể bảo đảm quyền của NLĐ.

<i>giúp việc gia đình ở Việt Nam” [64] có đề cập đến vấn đề xử lý vi phạm hành</i>

chínhvàgiảiquyếttranhchấpdướigócđộlàmộttrongnhữngbiệnphápbảovệquyền lợi của lao động giúp việc giađình.

bảovệquyềnlợicủaNLĐgồm:Tồán,thanhtralaođộng,trọngtàilaođộng,tổchức cơngđồn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Riêng Phạm Thị Thuý Nga có một cơng trình nghiên cứu về vấn đề thực trạng

<i>bảovệNLĐ,nhưngchỉtậptrungởnhómlaođộngdicư.Trong“Bảođảmpháplýthựchiện quyền của</i>

<i>lao động di cư nội địa ở Việt Nam” đã trình bày các cơ chế bảo vệ</i>

quyềncủalaođộngdicưtrongnướclàcơchếhànhchính(giảiquyếtkhiếunại,tốcáo) và cơ chế giải quyết tranh chấp (hoà giải, trọng tài, toàán).

<i>Cuốn sách “Labor management relations in a changing environment –</i>

<i>Secondedition”củaMichealđãđưaraquanđiểmbảovệquyềncủaNLĐbằngnhiềubiệnpháp khác</i>

nhau và một trong những biện pháp hữu hiệu là thông qua trọng tài [77, tr9].

<i>Phạm Thị Thu Lan (2021), “Bảo vệ người lao động trong xu hướng phi</i>

<i>chínhthức việc làm ở Việt Nam” đưa ra các phương thức bảo vệ NLĐ trong xu hướng</i>

PCT việc làm ở Việt Nam bao gồm: xây dựng pháp luật, tuân thủ pháp luật (đối với NSDLĐ), kiểm tra và giám sát việc tuân thủ pháp luật [81, tr 36].

Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đều đưa ra những cơ chế, phương thức bảo vệ quyền lợi của NLĐ nói chung như Toà án, thanh tra lao động, trọng tài laođộng, tổ chứccơngđồn...Nhưngchưacócơngtrìnhnàonghiêncứuphươngthứcbảovệquyền

lợicủaNLĐcóviệclàmPCTdựatrênđặcđiểmriêngcủanhómlaođộngnàyvìkhơng phải tất cả những cơ chế, phương thức bảo vệ quyền lợi của NLĐ nói chung cũng đều có thể sử dụng với NLĐ có việc làm PCT (Ví dụ như Cơng đồn,NSDLĐ).

<i><b>1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng pháp luật vàthựctiễn thực hiện pháp luật trong bảo vệ quyền lợi của người lao động có việclàm phi chínhthức</b></i>

ĐếntrướckhiBộluậtLaođộng2019đượcbanhành,laođộngcóviệclàmPCT khơng được quy định chính thức và tập trung tại bất kỳ văn bản pháp luật nào, quyền lợi của nhóm này chủ yếu áp dụng rải rác trong các văn bản pháp luật của nhà nước, và chủ yếu được chú ý đến là BHXH và BHYT. Do đó, những cơng trình nghiên cứu cũng chủ yếu báo cáo về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hai vấn đề này, một số ít cơng trình nghiên cứu đề cập đến các vấn đềkhác.

<i>Đỗ Minh Khuê và cộng sự; (2007), “Những vấn đề an sinh xã hội</i>

<i>củanhóm dân cư lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức”, Các tác giả đã nêu</i>

<i>các quy định pháp luật tại thời điểm này như sau: “Luật lao động áp dụng cho các</i>

<i>doanhnghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân có thuê mướn, sửdụng từ 10 lao động trở lên nêu rõ: phải ký kết thoả ước lao động, bao gồm các điềukhoản việc làm và bảo đảm việc làm, thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi, tiềnlương, định mức lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội…Theo Luật này thì khi đóng bảo hiểm xã hội bằng giá trị 20% tiền lương, trong đóchủ lao động đóng 15%, NLĐ đóng 5%” [18]. Các tác giả cũng nhận định rằng do</i>

hếtcácdoanhnghiệptưnhânnhỏ(theonhómtácgiảđâylàthànhphầnthuộckhuvực

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

kinh tế PCT) đều không ký kết thoả ước lao động giữa NLĐ và NSDLĐ, không thực hiện việc thu và nộp tiền BHXH, khơng có chế độ BHXH đối với NLĐ. NSDLĐ cịn trốn tránh, không đăng ký tham gia BHXH hoặc chậm, đóng thiếu BHXH… Về phía NLĐ, thường chỉ quan tâm việc làm, thu nhập trước mắt mà không nghĩ đến việc bảo vệ quyền lợi lâu dài của mình, nên đã không yêu cầu chủ sử dụng lao động để được thamgiaBHXH,thậmchínhiềungườicịnchorằngmìnhchỉlaođộngtrongmộtthời

gianngắn,kiếmmộtsốtiềnrồitìmviệclàmkhác,chưacầnchếđộbảohiểmvàkhơng mất tiền lương đóng bảohiểm.

<i>Ngô Thị Kim Dung (2014), “Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ giúp xã</i>

<i>hộicho người lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức tại thành phố Hồ ChíMinh” có đề cập: “Theo luật lao động, bảo hiểm xã hội được đóng có giá trị bằng20% tổngquỹ tiền lương, Trong đó người sử dụng lao động đóng 15% và NLĐ đóng5%. Luật lao động áp dụng cho các Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, Cáctổ chức, Cá nhân có thuê mướn lao động từ 10 lao động trở lên. Người sử dụng laođộng vẫn trốntránhhoặcđóngchậm,đóngthiếubảohiểmxãhội,cịnNLĐítcóđiềukiệnthamgia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế”[52].</i>

<i>ĐồnThịThuHương(2015),“Chínhsáchbảohiểmxãhộitựnguyệnchongườilaođộngphichínhthức-Mộtsốvấnđềcầnhồnthiện”[21]đãphântíchcácquyđịnh về BHXH tự nguyện. Bài viết đã chỉ ra</i>

tựnguyệnchỉcó2chếđộ,trongkhiBHXHbắtbuộccó5chếđộ;mứcđóngcủaBHXH tự nguyện cao; chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về đối tượng được hỗ trợ, mức hỗ trợvàphươngthứchỗtrợngườithamgiaBHXHtựnguyệntừNhànước;khơngcócơ chế giám sát thực hiện và chế tài xử lý đối với việc không tuân thủ quy định về việc chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền cho NLĐ tương đương với mức NSDLĐ đóng BHXH bắt buộc, BHYT, BHTN cho NLĐ theo quy định của pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN đối với NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc,BHYT,BHTN(BHTN);khơnggiớihạnvềtuổitrầnthamgiaBHXHtựnguyện;

độhưutrícủangườithamgiaBHXHbắtbuộcthấpnhấtbằngmứclươngcơsở);Phạm Thị Đam (2019),

<i>“Pháp luật về an sinh xã hội cho lao động nữ di cư phi chính thức” trình bày thực trạng</i>

pháp luật về BHXH tự nguyện, BHYT, trợ giúp xã hội; hỗ trợ tạo việclàm,thunhập;các dịchvụxãhộicơbảnvàthựctiễnthựchiệncácquyđịnhpháp luật trên. Theo cơng trình này, các quy định về chế độ hưởng BHXH tự nguyện chưa hấp dẫn NLĐ [79, tr 44], việc quy định tham gia BHXH tự nguyện gắn liền với nơi đăng ký hộ khẩu hoặc đăng ký thường trú là

45].QuyđịnhvềđăngkýkhámbằngthẻBHYTvàquyđịnhcácmứcchitrả,mức

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

hưởng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh BHYT thiếu tính di động, không phù hợp với lao động di cư [79, tr 49], quy định về thủ tục khám, chữa bệnh BHYT rườm rà, như“giấychuyểntuyến”,“giấychứngnhậnkhơngcùngchitrảtrongnăm”[79,tr50].

Hệthốngphápluậtvềtrợgiúpxãhộivẫnchưacóquyđịnhdànhriêngcholaođộngdi cư như một đối tượng được thụ hưởng tại nơi đến [79, tr 54]. Các công cụ kết nối thị trường lao động chưa đáp ứng nhu cầu của NLĐ di cư do nhu cầu thông tin về thị trườnglaođộngkhálớn.Cácchươngtrìnhnhàởvẫncịnnhiềubấtcập,khilàlaođộng di cư, chỉ có tạm trú tại nơi đến nên NLĐ phải chịu các chi phí điện nước với giá cao hơn bình thường [79, tr70].

<i>Nguyễn Hữu Tài (2019) “Lao động phi chính thức ở Việt Nam hiện nay”,NguyễnHữuTài,TrươngKhánhVọng(2018),“LaođộngphichínhthứcởViệtNam:Thực trạng</i>

<i>và một số định hướng chính sách” [61] nhận định việc thực hiện các quy định pháp luật</i>

về quy định ký HĐLĐ từ 3 tháng trở lên, chưa thực hiện tốt việc đóng BHXH bắt buộc,

<i>BHXH tự nguyện chưa tốt; Đào Thị Phương Liên (2020), “Laođộngtrong khu vực kinh tế</i>

<i>phi chính thức ở Việt Nam: Thực trạng và một số đề xuất” [17]</i>

cũngkhẳngđịnhviệcthựchiệnphápluậtnhằmbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàm PCT chưa tốt, như: khơng có sự quản lý lao động, giám sát việc thực hiện Bộ luật lao động trong khu vực PCT; tiền công và thu nhập thấp, không tương ứng với thời gian lao động; mức độ an toàn lao động không được đảm bảo; điều kiện nhà ở và sinh hoạt của lao động trong khu vực PCT không đảm bảo; khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế và chăm

<i>sóc sức khỏe; Nguyễn Xuân Mai, Trần Nguyệt Minh Thu (2014) “Khu vực kinh tế phi</i>

<i>chính thức từ góc nhìn xã hội học kinh tế” [75] đã</i>

trìnhbàythựctrạngquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCTchothấyviệcthựchiệnpháp luật về vấn đề này không đạt hiệu quả cao. Như lao động trong khu vực kinh tế PCT khơng có BHXH và các phúc lợi; trình độ học vấn dưới trung học phổ thơng, số giờ làm việc trung bình của NLĐ có việc làm PCT cao, nhưng trung bình tiền cơng thấp; việc cấm họp “chợ cóc”, cấm xe xích lơ, ba gác, xe ba bánh ở thành phố làm mất đi sinh kế của nhiều người nghèo, độ bao phủ của các chương trình hỗ trợ của nhà nước

<i>cịnthấp,bấtbìnhđẳngvềviệclàm…;ĐàoLộcBình;NguyễnHảiNgân(2017),“Hànhlang pháp lý cho</i>

<i>hoạt động kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay” khơng phân tích sâu các quy định</i>

pháp luật mà liệt kê một số quy định có nội dung tạo hành lang, phát triển khu vực kinh tế PCT. Và những quy định này, ở góc độ nào đó cũng có tác dụngbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCT.Bàiviếtcũngphânchiacácquyđịnh này hai nhóm chính sách: Nhóm chính sách giảm nghèo tồn diện và nhóm các chính sách có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp nâng cao đời sống nhân dân mang tầm quốc gia. Đồng thời cơng trình này cũng cho rằng việc

langpháplýchohoạtđộngkinhtếPCTởViệtNamhiệnnaychưahiệuquả.Vídụ,

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

chính sách về tín dụng chủ yếu áp dụng với các đối tượng chính sách và người nghèo. Chính sách giáo dục khơng hợp lý dẫn đến “thừa thầy, thiếu thợ” [16].

Liên quan đến thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật trong bảo vệ quyền

<i>lợi của NLĐ có việc làm PCT cịn có: Phan Thị Lam Hồng (2021) “Thựctrạng vi phạm</i>

<i>quyền của NLĐ và một số kiến nghị” [85] đã nêu ra một số vi phạm quyền của NLĐ</i>

như: Vi phạm quyền làm việc, thể hiện bằng việc giao kết sai loại HĐLĐ như giao kết hợp đồng dịch vụ để trốn đóng BHXH, ký hợp đồng thầu nhân cơng cung ứng nhân công thay cho hợp đồng cho thuê lại lao động, giao kết HĐLĐ bằng lời nói hoặc chỉ ký HĐLĐ có thời hạn dưới 3 tháng để làm những cơng việc có tính chất thường xun từ 12 tháng trở lên, ký HĐLĐ xác định thời hạn nhiều hơn hai lần liên tiếp. Nội dung HĐLĐ sơ sài, NLĐ bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ hoặc bịsa thảitráiphápluật;viphạmvềcưỡngbứclaođộng,nhữngbiểuhiệncủalaođộngcưỡng bức gồm lao động trẻ em lao động nữ giúp việc gia đình; vi phạm quyền được hưởng mức lương cơng bằng hợp lý và được

nhau;viphạmvềquyềncơngđồn.TuybàiviếtchỉnóichungchungđếnNLĐ,nhưng thực chất những vi phạm nêu trên chủ yếu xảy ra đối với lao động có việc làm PCT trong khu vực kinh

<i>tế chính thức; Nguyễn Quỳnh Phương (2018) “Thực trạng</i>

quaviệcphântíchBộluậtlaođộngnăm2012vàcácvănbảnhướngdẫnthihành.Qua đó, luận văn cũng chỉ ra thực tiễn thực hiện pháp luật trong vấn đề này vẫn có nhiều sai phạm như: lao động giúp việc gia đình phải thử việc dài hơn 06 ngày, vẫn có tỷ lệ nhỏ trẻ em tham gia giúp việc gia đình [64, tr 33]; đa số sử dụng HĐLĐ bằng lời nói thay vì phải bằng văn bản nên nội dung HĐLĐ cũng không theo mẫu quy định [64, tr 34,37],cơngtácquảnlýcủachínhquyềnđịaphươngcịnlỏnglẻo[64,tr39];laođộng

giúpviệcgiađìnhkhơngđượcthanhtốntiềntrợcấpthơiviệcdùđủđiềukiệnhưởng, khơng được thanh tốn tiền lương những ngày nghỉ hàng năm chưa nghỉ [64, tr 41], hầu hết lao động giúp việc gia đình chưa được chủ sử dụng chi trả một phần tiền để tự tham gia BHXH, BHYT [64, tr 48], khó phân định rạch ròi giữa thời giờ làm việc và thờigiờnghỉngơicủalaođộnggiúpviệcgiađình[64,tr49]…Cùngnghiêncứuvềlao động giúp việc

<i>gia đình cũng có Nguyễn Thị Phương Th (2020), “Pháp luật về laođộng giúp việc gia</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i>củangườilaođộnglàmviệctạidoanhnghiệpcóvốnđầutưnướcngồitheophápluậtViệt Namhiện hànhđã chỉ ra các hạn chế trong một số cơ chế bảovệquyền lợi của NLĐ. Đối với</i>

công đồn, luận án đã nhận định vai trị của cơng đồn cịn thể hiện mờ nhạt, khơng hiệu quả, chưa đảm bảo được quyền, lợi ích của NLĐ [111, tr 101]; đối

<i>ệpsovớisốdoanhnghiệpcầnphảithanhtra.Việcthựchiệnkếtluận thanh tra tại các doanhnghiệp chưa nghiêm túc do công tác giám sát việc thực hiện kết luận thanh tra mới chỉthơng qua báo cáo, đồng thời chưa có chế tài đối với các doanh nghiệp không thực hiệnkiến nghị thanh tra, báo cáo việc thực hiện kiến nghị thanh tra. Việc giải quyết đơn thưkhúc mắc, khiếu nại liên quan đến các quyền và lợi ích của NLĐ nói chung cũng mới chỉdừnglạiởtrênvănbản,chưacósựgiámsát,kiểmtraviệcthựchiệncáckếtluậngiảiquyếtđơnthưnênhiệuquảcơngtácnàycũngchưa cao” [111, tr 104]; Đối với cơ chế tồ án thì “Trên phạm vi cả nước, sốlượngvụtranh chấp lao động cá nhân được giải quyết tại tòa ngày một tăng nhưng sốvụ tranh chấp lao động tập thể được giải quyết tại tịa là rất ít. Trong khi đó tranhchấp lao động tập thể ở các tỉnh, thành phố trong cả nước vẫn theo xu hướng tăng.Bên cạnh đó, cịn có trường hợp, do chậm trễ trong việc xác định thẩm quyền xét xửcủa tịa án dẫnđếnviệcxétxửvụánlaođộngkhơngkịpthờiđãlàmảnhhưởngđếnuytíncủatịa áncũng như hiệu quả việc bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ” [111, tr 108, 109]. Cùng hướng</i>

<i>nghiên cứu có Phạm Hồng Linh (2019), “Bảo đảm quyền của người lao độngtrong</i>

<i>doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”đã đưa ra được những</i>

đánhgiánhấtđịnhvềmứcđộbảovệNLĐquacácbiệnphápbảođảmcủacácchủthể tươngứng,mỗichủthểbảođảmcũngcónhữngthànhtựu,hạnchếnhấtđịnhtrongbảo

vệquyềnlợicủaNLĐ,trongđócơngtrìnhchỉrađượcbấtcậpnhiềunhấttrongbảovệ quyền lợi

<i>của NLĐ là hoạt động cơng đồn: “hoạt động của cơng đồn cơ sở</i>

<i>trongdoanhnghiệpFDIcịnbịđộng,lúngtúng;cơngtáckiểmtragiámsátvàphốihợpkiểm tra,giám sát về thực hiện chế độ, chính sách đối với công nhân, lao động nhiều nơi thực hiện chưathường xun, chất lượng cơng tác kiểm tra cịn thấp, nhiều ban chấp hành cơng đồn cơ sởchưa phối hợp được với NSDLĐ xây dựng quy chế, hoạt động để tạo cơ sở pháp lý trong việcthương lượng và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng nhân, lao động…” [77, tr95].</i>

<i>NguyễnQuỳnhPhương(2018)“Thựctrạngphápluậtbảovệquyềnlợicủalaođộng giúp</i>

<i>việc gia đình ở Việt Nam” cho rằng thanh tra lao động chưa pháthuyđược vai trị của</i>

mình trong cơng tác thanh tra, kiểm tra để bảo vệ quyền lợi của lao động giúpviệcgiađìnhvàmứcđộcủachếtàiápdụngchohànhviviphạmchưađủsứcrăn đe đối với NSDLĐ. Cơ chế giải quyết tranh chấp cũng khơng đóng góp gì nhiều trong việcbảovệquyềnlợicủalaođộnggiúpviệcgiađìnhvìđasốlaođộnggiúpviệcgia

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

đình có trình độ văn hố thấp, thậm chí là khơng biết chữ nên việc tiếp cận các thủtục giải quyết tranh chấp là khó khăn [64, tr 57, 59,60].

<i>PhanThịLamHồng(2021),“Thiếtchếbảovệquyềncủangườilaođộngtrongcác doanh</i>

<i>nghiệp ngoài nhà nước, thực trạng và kiến nghị” [85] cho rằng cơ chế giải</i>

bảovệquyềnvàlợiíchcủaNLĐ.Đốivớithanhtralaođộngthìthiếtchếnàyvẫnchưa phát huy tối ưu làm hạn chế hiệu quả bảo vệ quyền của NLĐ. Cịn cơ chế trọng tài thì chưa được các bên tranh chấp đề nghị giải quyết bất kỳ vụ việc nào nên cơ chế này <i>thể yêu cầu bảo vệ theo tất các các cơ chế bảo vệ giống như bất kỳ công dân ViệtNam nào” [83, tr 227], và “việc đảm bảo thực hiện quyền của laođộng di cư chưađược giải quyết tốt do bản thân họ có những rào cản tâm lý (e ngại, tự ti, lo sợ), ràocản kinh tế (thu nhập thấp)…” [83, tr220].</i>

Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đều nhận định thực trạng bảo vệ quyền lợi của NLĐ nói chung và NLĐ có việc làm PCT nói riêng chưa đạt hiệu quả cao. Nhưng số lượng cơng trình nghiên cứu về thực trạng bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT cịn rất ít, và chỉ tập trung vào một nhóm cụ thể (lao động giúp việc gia đình, lao động di cư).

<i><b>1.1.3. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện, nâng cao hiệu quảbảovệ quyền lợi của người lao động có việc làm phi chính thức ở Việt Namhiệnnay</b></i>

<i>Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến hồn thiện pháp luật nhằm</i>

bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT, có:

Các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến hồn thiện pháp luật về an sinh xã

<i>hội có: Đỗ Minh Khuê và cộng sự; (2007), “Những vấn đề an sinh xã hội của</i>

<i>nhómdân cư lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức” [18] đề xuất quy định mở</i>

rộng việcthamgiabảohiểmđốivớicáccơsởsảnxuấtnhỏ(dưới10người).Ápdụngnhiều mức thu phí BHXH, BHYT đối với các đối tượng khác nhau,tuỳtheo hoàn cảnh và nhu cầu

<i>của họ; Ngô Thị Kim Dung (2014), “Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợgiúp xã</i>

<i>hội cho người lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức tại thành phố Hồ ChíMinh” [52] đề xuất quy định mở rộng đối tượng tham gia BHYT bằng cách tăng</i>

mứchỗtrợchocáchộgiađìnhNLĐcậnnghèotừmứchỗtrợ50%phílên mứchỗtrợ 70%-80%,nênquyđịnhbắtbuộcthamgiaBHYTgiađình,vàcầncócơchếràngbuộc

giữaNLĐvàNSDLĐbằngcơsởpháplývàcócơquanchuntráchgiámsátthựcthi

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

các quy định này. Và bảo trợ xã hội cần hướng đến mở rộng đối tượng là NLĐ có thu

<i>nhậpthấp;TrươngThịPhượng,NguyễnThịHiển(2013)“Cácnhântốảnhhưởngđếný định</i>

<i>tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người la động khu vực phi chính thức tạitỉnh Phú Yên” [122] đề xuất xây dựng chính sách BHXH tự nguyện phù hợp cho lao</i>

động trên 45 tuổi với nam và trên 40 tuổi với nữ; Đoàn Thị Thu Hương (2015),

đóngBHXH,xâydựngchiếnlượcpháttriểnBHXHtựnguyệnvớinhómlaođộngPCT phùhợpvớitừnggiaiđoạnpháttriểncủanềnkinhtế.Sớmxâydựngcácvănbảnhướng

dẫnchitiếtLuậtBHXH2014nhấtlàvềBHXHtựnguyện,bổsungthêmchếđộhưởng đối với người

<i>tham gia BHXH tự nguyện…; Phạm Thị Đam (2019), “Pháp luật về</i>

<i>Nam” đề xuất nên quy định lao động giúp việc gia đình là đối tượng tham gia BHXH</i>

<i>bắt buộc [68, tr 151]; Nguyễn Quỳnh Phương (2018) “Thực trạng pháp luậtbảo vệ</i>

<i>quyền lợi của lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam” [64] cùng kiến nghị với</i>

<i>Nguyễn Thị Phương Thuý; Đào Thị Phương Liên (2020), “Lao động trong khu</i>

<i>vựckinh tế phi chính thức ở Việt Nam: Thực trạng và mộtsốđề xuất” [17] cần điều</i>

chỉnh mộtsốchínhsáchansinhxãhộiđểphùhợphơnvớinhucầuvàđiềukiệncủalaođộng khu vực kinh tế PCT, tăng khả năng tiếp cận của nhóm lao động PCT với BHXH như nhiều gói lựa

<i>chọn, tăng hỗ trợ của nhà nước. Phạm Thị Thuý Nga (2021), “Bảo đảmpháp lý thực hiện</i>

<i>quyền của lao động di cư nội địa ở Việt Nam” đề xuất sửa đổi quy định về BHXH để</i>

tăng tính hấp dẫn, thuận lợi cho người tham gia [83, tr242].

Cáccơngtrìnhnghiêncứucóliênquanđếnhồnthiệnphápluậtvềviệclàmvà thu nhập

<i>có: Phạm Thị Đam (2019), “Pháp luật về an sinh xã hội cho lao động nữ dicư phi</i>

<i>chính thức” đề xuất bổ sung thêm quy định pháp luật cho nhóm lao động nữ di</i>

cưPCTnóiriêngvàlaođộngdicưnóichungvềviệclàmvàthunhậpvìquyđịnhhiện nay tập trung nhiều cho khu vực có quan hệ lao động, chưa cóquyđịnh riêng hỗ trợ đàotạo,dạynghềchongườidicư,đặcbiệtlàlaođộngnữdicưPCT[79,tr78];Nguyễn Thị Phương Thuý

<i>(2020), “Pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam” đề xuất nên quy định</i>

tiền lương của lao động giúp việc gia đình khơng bao gồm chi phí ăn, ở của NLĐ sống cùng gia đình NSDLĐ [68, tr 72]. Phạm Thị Thuý Nga (2021),

<i>“BảođảmpháplýthựchiệnquyềncủalaođộngdicưnộiđịaởViệtNam”đềxuấtđưa</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

lao động di cư nội địa vào trong các chiến lược xóa đói giảm nghèo để hỗ trợ họ vượt qua khó khăn về kinh tế [83, tr. 240].

laođộng,vệsinhlaođộng.Phầnđềxuấtnàychủyếutậptrungvàonhómlaođộnggiúp việc gia đình. Cụ

<i>thể: Nguyễn Thị Phương Th (2020), “Pháp luật về lao động giúpviệc gia đình ở Việt</i>

<i>Nam” đề xuất đối với việc sử dụng lao động giúp việc gia đìnhthì</i>

cầnquyđịnhHĐLĐmẫuvàbổsungquyđịnhvềhậuquảcủatạmhỗnHĐLĐ;vềthời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi thì cần điều chỉnh theo hướng quy định tổng số giờ làmviệctrongngày,trongtuần,tổngsốgiờnghỉngơitốithiểu,quyđịnhcụthểvềthời

giớihạnthờigiờlàmviệcvàobuổitối,cầnquyđịnhthờigiannghỉlễlinhhoạt.Ngoài ra luận án cũng đề xuất cần bổ sung các quy định về quyền riêng tư cho lao động giúp việc gia đình. Thêm vào đó khi lao động giúp việc gia đình bị tai nạn lao động thì NSDLĐ phải thanh tốn tồn bộ chi phí y tế [68, tr 145-150]. Cùng hướng nghiêncứu về lao động giúp việc gia đình cịn có Nguyễn

<i>Quỳnh Phương (2018), “Thực trạngpháp luật bảo vệ quyền lợi của lao động giúp việc gia đình</i>

<i>ở Việt Nam”[64].</i>

<i>Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ</i>

quyền lợi của NLĐ nói chung và NLĐ có việc làm PCT nói riêng. Có:

<i>Nguyễn Quỳnh Phương (2018) “Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi củalaođộng giúp</i>

<i>việc gia đình ở Việt Nam” đề xuất để tăng hiệu quả của cơ chế hành chính</i>

thìcầnquyđịnhtìnhtiếttăngnặngtrongcácchếtàikhiNSDLĐgiúpviệcgiađìnhcó hành vi ngược đãi, quấy rối, tình dục, cưỡng bức lao động và dùng vũ lực đối với lao động giúp việc gia

<i>đình [64, tr 73]; Nguyễn Thị Phương Thuý (2020), “Pháp luật</i>

<i>vềlaođộnggiúpviệcgiađìnhởViệtNam”đềxuấtđểpháthuyhiệuquảcủacơchếhành chính thì bổ</i>

sung hành vi vi phạm (như hành vi ngược đãi, mắng chửi…) và quy định tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm, đồng thời bổ sung quy định về nhiệm vụ của thanh tra lao động trong việc thanh tra, kiểm tra hộ gia đình sử dụng lao động giúpviệcgiađình,cơngtrìnhnàykhơngđềxuấtđếncáccơchếkhác[68,tr155];Phạm Thị Thuý Nga

<i>(2021), “Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền của lao động di cư nội địaởViệt Nam” đề xuất</i>

cần có hệ thống các biện pháp hỗ trợ lao động di cư nội địa trong quá trình thực hiện các cơ chế thương lượng, hoà giải, trọng tài và toà án. Ngoài ra cũng cần nâng cao chất lượng đội ngũ hoà giải viên lao động, trọng tài viên lao động. Cơng trình cũng đề xuất việc nghiên cứu, tham mưu xây dựng thủ tục đặc biệt để giải quyết vụ việc quấy rối tình dục tại nơi làm việc [83, tr 252-255]. Phan Thị Lam Hồng

<i>(2021),“Thiếtchếbảovệquyềncủangườilaođộngtrongcácdoanhnghiệpngoàinhànước, thực</i>

<i>trạng và kiến nghị” cho rằng cần phải xây dựng trình tự, thủ tục để người</i>

dâncóthểkhiếukiệnđịiucầuTồánbảovệquyềncủamìnhvớinghĩalàbảovệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

quyền con người, bên cạnh đó có thể nghiên cứu bổ sung quy định trọng tài lao động vụ việc bên cạnh trọng tài lao động thường trực. Đối với thanh tra lao động thì cần chunmơnhốvàbảođảmtínhđộclậpcủacơngtácthanhtra,cầncóquyđịnhvềsự hỗ trợ của thanh tra lao động cho NLĐ và NSDLĐ. Và cần chú trọng phát triển số lượngcơngđồnviên,nhưngtổchứclạihệthốngcơngđồntheohướnggọnnhẹ,nâng

<i>caochấtlượngcánbộcơngđồn...TươngtựhướngđềxuấtcịncóTrầnNgunCường (2016), “Bảo vệ</i>

<i>quyền của người lao động làm việc tại doanh nghiệp có vốn đầu tưnước ngồi theopháp luật Việt Nam hiện hành” [111, tr 138-146]; Phạm Hoàng Linh (2019), “Bảođảm quyền của người lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nướcngồi tại ViệtNam” [77, tr125-128].</i>

<i>Ngồiraracịncịncóc á c giảiphápkháctừ:ĐỗMinhKhuêvàcộngsự;(2007), “Những vấn đề an</i>

<i>sinh xã hội của nhóm dân cư lao động trong khu vực kinh tếphichínhthức”[18]đềxuấtbiệnpháptăngcườngcơngtáctuntruyền,phổbiếncácdịch vụ và hình</i>

thức BHXH, BHYT và các loại hình bảo hiểm khác đến từng tầng lớp dân cư, đặc biệt tại các địa bàn có đơng NLĐ ở khu vực kinh tế PCT để người dân hiểu rõ và tham gia vào các dịch vụ an sinh xã hội; Nhà nước, các cơ quan liên quan như các tổ chức xã hội, Bộ y tế, các cơ quan bảo hiểm…

thựchiệncácdịchvụbảohiểm,đặcbiệtlàBHYTđểnângcaochấtlượngphụcvụcác loại hình dịch vụ này đối với NLĐ và người dân nói chung. Nhà nước cần có sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ, yêu cầu NSDLĐ đóng bảo hiểmchoNLĐ. Đồng thời, các tác giả cũng kiến nghị giải pháp là phải phát huy mạnh mẽ vai trị của chính quyền cấpcơ sở và tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thể, cộng đồng ở địa phương như Mặt trận tổ quốc, Hộiphụnữ,Hộingườicaotuổi… trongviệctìmhiểu,phảnánhvàhỗtrợnhữngngười nghèo có hồn cảnh khó khăn, các đối tượng chính sách, những người già cô đơn, trẻ mồ côi, kể cả NLĐ nhập cư để giúp họ khi có những biến cố bất lợi, suy giảm về kinh tế, gặp rủi ro trong đời sống.Tuynhiên, bài viết mới chỉ tiếp

PCTthuộcnhómlàmcơngănlương,nênmộtsốgiảiphápkhơngápdụngđượcvớilao động có việc làm PCT mà khơng có quan hệ lao động. Ngồi những giải pháp trên Trương Thị Phượng,

<i>Nguyễn Thị Hiển (2013) “Các nhân tố ảnh hưởng đến ý</i>

<i>PhúYên”[122]bổsungthêmcácgiảiphápkhácnhưcầncósựphốikếthợp,lồngghép chương trình</i>

BHXH tự nguyện với các chương trình mục tiêu khác để tạo việc làm và thu nhập ổn định cho NLĐ có việc làm PCT; Nhà nước cần nghiên cứu sâu và kỹ lưỡng, thống kêđầyđủ thông tin về khu vực PCT để có chính sách BHXH tự nguyện phù hợp cho khu vực này; Nhà nước cần phải đưa chỉ tiêu cơng tác thực hiện chính sách BHXH tự nguyện vào các thống kê,

từcấptỉnhxuốngcơsởvàphảixemnólàmộtchỉtiêuthiđuanhưcácchỉtiêukinhtế,

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

xãhộikhác;MởrộngđạilýthuBHXHtựnguyện,tăngcườngvàđàotạođộingũcộng tác viên BHXH;

<i>Ngô Thị Kim Dung (2014), “Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợgiúp xã hội cho người</i>

<i>lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức tại thành phố Hồ Chí Minh” [52] cũng</i>

đưa thêm các giải pháp khác như cần có các chương trình mục tiêu như chương trình xố đói, giảm nghèo, chương trình đào tạo nghề, giải quyếtviệc làm, chương trình tín dụng nhỏ, hỗ trợ tài chính đối với hoạt động kinh tế PCT; tạo điều kiện cho người sản xuất, kinh doanh trong khu vực kinh tế PCT tiếp cận nguồn vốnchínhthức;đốivớiNLĐtựtạoviệclàm,làmviệctựdokhơnggắnvàomộtcơsở,

tổchứcnào,tạiđịaphươngnêncótổchứccơngđồnđểgắnkếtNLĐvớinhau;Đồn Thị Thu

<i>Hương (2015), “Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao</i>

<i>độngphichínhthức-Mộtsốvấnđềcầnhồnthiện”[21]khuyếnnghịnêncósựđầutư thỏa đáng về</i>

giáo dục và đào tạo kỹ năng cho lực lượng lao động trẻ. Riêng với lao động giúp việc gia

<i>đình, thì Nguyễn Quỳnh Phương (2018) “Thực trạng pháp luật bảo vệquyền lợi của lao</i>

<i>động giúp việc gia đình ở Việt Nam” đề xuất cần tuyên truyền kiến thức pháp luật về</i>

BHXH cho lao động giúp việc gia đình, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật và ý thức chấp hành pháp luật của lao động giúp việc gia đình và NSDLĐ, tăng cường cơng tác đào tạo nghề nhất là kỹ năng ứng xử văn hố trong gia đình chongười giúp việc gia đình và cấp chứng chỉ hành nghề cho họ, tăng cường công tác quản lý, thanhtra,kiểmtracủanhànướcvàkhuyếnkhíchcáctổchứcchínhtrị-xãhộicáccấp

thamgiaquảnlý,giámsáttìnhhìnhthựchiệnphápluậttronglĩnhvựcnày,nênhướng tới thành lập hội của của những người giúp việc gia đình do họ tự thành lập [64]; Nguyễn Hữu Tài,

<i>Trương Khánh Vọng (2018), “Lao động phi chính thức ở ViệtNam:Thực trạng và một số</i>

<i>định hướng chính sách” [61]và Nguyễn Hữu Tài (2019) “Laođộng phi chính thức ở ViệtNam hiện nay” [60] đề xuất cần quyết liệt tăng cường thực thi pháp luật lao động trong</i>

khu vực PCT nhằm chuyển số lượng lớn lao động PCT chưahoặckhơngcóHĐLĐ,BHXH,BHYT,BHTNthànhlaođộngchínhthức.Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp về mặt thủ tục, pháp lý khi tham gia BHXH cho NLĐ; có các chế tài về mặt luật pháp đủ mạnh bắt buộc các doanh nghiệp trong việc ký kết HĐLĐ, tham gia BHXH, BHYT cho NLĐ trong doanh nghiệp; tăng cường công tác tuyên truyền vận động để khuyến khích NLĐ có việc làm PCT tham gia BHXH tự nguyện; tiếp tục đơn giản các thủ tục hành chính trong các cơ quan cung cấp dịch vụ công, đặc biệt đối với ngành BHXH cần đảm bảo duy trì tốt việc giao dịch một cửa, ứngdụngtốiđacơngnghệthơngtintronggiaodịchhànhchính,tiếptụcnângcaochất

lượngđộingũcánbộđểđápứngngàymộttốthơnnhucầuthamgiaBHXHtựnguyện của NLĐ có

<i>việc làm PCT; Phạm Thị Thu Lan (2021), “Bảo vệ người lao động trongxu hướng phi</i>

<i>chính thức việc làm ở Việt Nam”là một đề tài đưa ra những giải pháp</i>

bảovệbaoquátnhấtnhư:phảiđảmbảophápluậtlaođộngđượcthựcthiđểngănchặn

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

PCT việc làm, bảo vệ các nguyên tắc và quyền cơ bản của NLĐ có việc làm phi tiêu chuẩnngangbằngvớiNLĐcóviệclàmtiêuchuẩn,đảmbảoquyềnlợicủaNLĐởcác

đơnvịthầuphụ,điềuchỉnhviệclàmmớitrongnềnkinhtếsố,chínhthứchốviệclàm khơng có quan hệ lao động, phát huy vai trò của tổ chức cơng đồn đại diện bảo vệ NLĐ. Tuy nhiên cơng trình này khơng nghiên cứu, tiếp cận dưới góc độ quyền lợicủa NLĐ có việc làm PCT, khơng chỉ ra được đặc trưng của của NLĐ có việc làm PCT. Nhưng cơng trình này đã nêu bật được bức tranh tổng thể về thực trạng PCT việc làm và nguyên nhân dẫn đến PCT việc làm ở Việt Nam, đây chính là nội dung giátrịđể luận án tham khảo và củng cố rằng NLĐ có việc làm PCT cần được bảovệ.

Những cơng trình trên đã đưa ra được một số giải pháp nhất định nhằm tăng cườngbảovệmộtsốquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCT.Điểmhạnchếcủacáccơng

trìnhnàylàmỗicơngtrìnhchỉđưaramộtnhómgiảiphápnhằmbảovệđếnmộtnhóm quyền lợi nhất định (quyền lợi về an sinh xã hội, việc làm, thu nhập, HĐLĐ…) hoặc bảo vệ cho một nhóm NLĐ có việc làm PCT nhất định (lao động nữ di cư PCT, lao động PCT trong khu vực kinh tế chính thức), và có những giải pháp đề xuất đếnnayđã được Nhà nước thực hiện. Do đó, trong luận án của mình, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục kế thừa một số kết quả nghiên cứu của những công trình trên và nghiên cứu một cách bao quát nhất và có hệ thống về các giải pháp bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

<b>1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tụcnghiêncứu</b>

Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu:

<i>Thứ nhất, các công trình bước đầu đã xác định được NLĐ có việc làm PCT là</i>

aidựavàokhuvựclàmviệchoặctínhchấtcơngviệctheocáccáchtiếpcậnkhácnhau, từkhíacạnhkinhtếhoặcpháplý.HầuhếtcáccơngtrìnhđềuchỉrađượcNLĐcóviệc

làmPCTcóđặcđiểmlàthunhậpthấp,khơngổnđịnh,điềukiệnsinhsốngkhơngđảm bảo, khó tiếp cận các chính sách và pháp luật của nhà nước, phần lớn là phụ nữ, lao động di cư. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đưa ra được một khái niệm về NLĐ có việclàmPCTmộtcáchbaoqtvàtồndiện,cácđặcđiểmđưaracũngchủyếumang tính chất hạn chế trong khi việc làm PCT trên thực tế có nhiều ưu điểmkhác.

<i>Thứ hai, đa số các cơng trình nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền của NLĐ</i>

việclàmPCTcịnkháít,mứcđộnghiêncứuchưatồndiện,chủyếudừngởcácquyền về an sinh xã hội. Và các phương thức bảo vệ cũng được các cơng trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các phương thức bảo vệ NLĐ nói chung, một sốít cơng trình có nghiên cứu đến phương thức bảo vệ liên quan trực tiếp đến

cácphươngthứcnhưTồán,thanhtralaođộng,trọngtàilaođộng,tổchứccơngđồn

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

của lao động giúp việc gia đình. Vì vậy, mức độ nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật cũng bị “bó” trong các vấn đề này. Chưa có cơng trình nghiêncứunàonghiêncứuvềquyền,bảovệquyền,thựctrạngphápluật,thựctiễnthực hiện pháp luật và phương thức bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT một cách tồn diện và dựa trên đặc điểm riêng của nhóm lao động này. Vì tuy là NLĐ, nhưng NLĐ có việc làm PCT có những đặc điểm riêng nên khơng thể áp dụng cách bảo vệ giống như bảo vệ NLĐ chínhthức.

<i>Thứ ba, các cơng trình cũng đã ra được các kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả</i>

bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam hiện nay, nhưng phạm vi vẫn tập trung chủ yếu ở lĩnh vực an sinh xã hội, một số ít có đề cập đến việc làm, thu nhập, HĐLĐ. Nhưng các nghiên cứu này cịn rời rạc, chưa tồn diện.

Luậnánsẽtiếptụckếthừanhữngkếtquảcủacáccơngtrìnhnghiêncứuđãthực hiện và tiếp tục nghiên cứu phát triển các vấn đề sauđây:

<i>Thứ nhất, xây dựng khái niệm việc làm PCT, NLĐ có việc làm PCT, nêu tồn diện các</i>

đặc điểm của NLĐ có việc làm PCT.

<i>Thứ hai, nghiên cứu sâu sắc hơn, toàn diện hơn về mặt lý luận cũng như thực trạng pháp</i>

luật, thực tiễn thực hiện pháp luật về các quyền lợi trọng yếu của NLĐ có việc làm PCT.

<i>Thứ ba,nghiên cứu các phương thức pháp lý của Nhà nước trong bảo vệquyền lợi của NLĐ có</i>

việc làm PCT dựa trên các đặc trưng của họ. Từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

<b>1.3. Lýthuyết, câu hỏi và giả thuyết nghiêncứu</b>

Luận án được thực hiện trên cơ sở các lý thuyết cơ bản của khoa học pháp lý, đó là:

<i>Thứnhất,lýthuyếttiếpcậndựatrênquyềnconngười(right-basedapproach/human rights-based approach– HRBA) là thuật ngữ được sử dụng phổ biến bởi các cơ</i>

quan của Liên hợp quốc, có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm “phát triển con người”

<i>(human development). Đầu tiên, HRBA là quan điểm có tính ngun tắc được các cơ</i>

quan của Liên hợp quốc sử dụng trong xây dựng và thực hiện các chương trình/dựánpháttriển.Tuynhiên,hiệntạinóđangđượcmởrộngsangviệchoạchđịnh

hiệnquanhữngđặctrưngcốtlõiđólà:Coiviệchỗtrợthựchiện,thụhưởngcácquyền con người là mục tiêu chính trong các chính sách và chương trình phát triển; Lấy các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người làm định hướng trong việc thiết lập và thực hiện các chính sách, chương trình phát triển; Làm rõ những chủ thểquyền, chủ thể có trách nhiệm và các quyền, trách

cườngnănglựctrongviệcthựchiệncácquyền,nghĩavụvàtráchnhiệm[131].Theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

lý thuyết này, quyền con người giữ vai trị chi phối các ngun tắc, tiêu chuẩn, chính sáchvàphápluậtvềbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmnóichungvàquyềnlợicủa

ánsẽlàmrõnhữngvấnđềlýluậnvềbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCT,thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam và các quan điểm, giải pháp tăng cường bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở ViệtNam.

<i>Thứhai,lýthuyếtvềđốitượngyếuthế.Đốitượngyếuthếlànhữngngườicóvị thế thiệt thịi hơn nhiều</i>

nhóm đối tượng xã hội khác trên nhiều phương diện như kinh tế,xãhội,vănhố,dânsự,chínhtrị.Trongluậtquốctếghinhậnphụnữ,trẻem,người

khuyếttật,ngườisốngchungvớiHIV,ngườiditrú,ngườithiểusố,ngườicaotuổi...là người yếu thế. Xét trong lĩnh vực lao động, NLĐ nói chung cũng có thể được xem là yếu thế hơn so với NSDLĐ. Mặt khác, NLĐ có việc làm PCT cũng bao gồm phần lớn đốitượngyếuthế.Tiếpcậnlýthuyếtnàychothấybảovệquyềncủa NLĐcóviệclàm PCT là cần thiết và quantrọng.

<i>Thứ ba,lý thuyết bình đẳng về cơ hội. Quyền bình đẳng là quyền được đối xử cơng bằng,</i>

là quyền cơ bản của con người và ai cũng được hưởng. Một số công ước của ILO cũng đề cập đến quyền bình đẳng của con người như Công ước về trả cơng bìnhđẳnggiữalaođộngnamvàlaođộngnữchonhữngcơngviệccógiátrịngangnhau (Cơng ước số100); Cơng ước chống phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Cơngướcsố111).Bìnhđẳnggồmcóbìnhđẳngtrêndanhnghĩa,bìnhđẳngvềkếtquả và bình đẳng về cơ hội [136, tr 21]. Bình đẳng trên danh nghĩa là đối xử giống nhau giữa người với người; bình đẳng về kết quả là sự bảo đảm các kết quả là như nhau đối với tất cả mọi người; cả hai hình thức bình đẳng này đều khơng tính đến sự khác biệt và bất lợi của từng chủ thể. Bình đẳng về cơ hội là thừa nhận vai trò quan trọng của những khác biệt và bất lợi giữa các chủ thể, từ đó đưa ra những biện pháp để đạt được bình đẳng thực chất. Bình đẳng về cơ hội sẽ bao qt

nghĩavàbìnhđẳngvềkếtquả.Trêncơsởghinhậnmọingườicóquyềnbìnhđẳngnhư nhau trong mọi lĩnh vực, đối với những người có những bất lợi hơn những ngườikhác thì cần có những biện pháp cụ thể để khắc phục những bất lợi đó để cuối cùng tất cả mọi người đều được thụ hưởng quyền như nhau. Trong lao động, quyền bình đẳng được hiểu là bình đẳng giữa mọi công dân trong thực hiện quyền lao động thông qua việc tìm kiếm việc làm, được hưởng các quyền, lợi ích khi làm việc (vị trí việc làm, thunhập,điềukiệnlàmviệc,antồnlaođộng,vệsinhlaođộng,đượcthamgiaBHXH,

BHYT…),baogồmcảbìnhđẳnggiớitronglĩnhvựclaođộng.DođóNLĐchínhthức và NLĐ có việc làm PCT cũng phải bình đẳng vớinhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i>Thứtư,lýthuyếtpháttriểnBềnvững.PhátTriểnBềnVữnglàhướngđimànhiều quốc gia và Liên</i>

Hợp Quốc (UN) tán đồng và ủng hộ. Các nước dù là giàu hay nghèo đềuchủtrươngPhátTriểnBềnVững.NgânhàngthếgiớiđãchọnPhátTriểnBềnVững làm đề tài cho phúc trình thường niên 2003 với tựa là “Phát triển bền vững trong một thế giới năng động” (Sustainable Development in a Dynamic World, World Development Report 2003, World Bank). Lý thuyết này có thể được vận dụng trong nghiên cứu bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ khu vực PCT như một khung lý thuyết để đảm bảo rằng các biện pháp bảo vệ và chính trị liên quan đến lao động PCT khơng chỉ đảm bảo lợi ích ngay lập tức mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai. Nghiên cứu có thể xem xét cách công việc khu vực PCT ảnh hưởng đến các khía cạnh của phát triển bền vững. Điều này bao gồm việc đảm bảo rằng công việc này khôngchỉ cung cấp thu nhập và lợi ích ngay lập tức mà còn tạo ra giá trị cho xã hội, hỗ trợ tài chính cho gia đình, và khơng gây hại cho mơi trường. Phát triển bền vững địi hỏi một xã hội cơng bằng. Nghiên cứu có thể xem xét cách cơng việc khu vực PCT ảnh hưởng đến tình trạng bất bình đẳng và kỳ thị trong lao động. Nghiên cứu cũng có thể xem xét tác động của cơng việc khu vực PCT lên môi trường, nghiên cứu để đảm bảo rằngcông việc này không gây hại cho môi trường và có thể đóng góp vào các mục tiêu bền vững liên quan đến môi trường và tài nguyên tựnhiên.

Luận án được triển khai với các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu sau đây:

<i>Câu hỏi nghiên cứu tổng quát: Để bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT</i>

ở Việt Nam hiện nay cần làm rõ những vấn đề gì?

<i>Giả thuyết nghiên cứu chung: Việt Nam cũng như thế giới tồn tại NLĐ có việc làm</i>

PCT. Nhóm NLĐ này có các đặc trưng cơ bản là làm việc trong khu vực kinh tế PCT hoặc làm việc trong khu vực kinh tế chính thức nhưng việc làm bấp bênh, thu nhập trung bình thấp, dễ bị tổn thương, không được tham gia BHXH, BHYT, BHTN, không được hưởng phúc lợi như lao động chính thức. Pháp luật và các cơ quan nhà nước là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT, nhưng hiện nay các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, Bộ luật Lao động 2019 đã có các quy định nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT nhưng chưa rõ ràng, khó thực hiện. Mặt khác công tác tổ chức thực hiện pháp luật để bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT vẫn còn hạn chế. Để trả lời câu hỏi nghiên cứu tổng quát và làm rõ giả thuyết nghiên cứu chung, luận án sẽ trả lời các câu hỏi chi tiết sau đây:

Câuhỏinghiêncứu1:QuanniệmnhưthếnàovềNLĐcóviệclàmPCTvàbảo vệ NLĐ có việc làmPCT?

Giả thuyết nghiên cứu:

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

NLĐ có việc làm PCT trước hết cũng giốngvớiNLĐ chính thức là có hành vi lao động để tìm kiếm thu nhập và lợi ích hợp pháp. Quyền của NLĐ có việc làm PCT về cơ bản cũng giống với quyền của NLĐ có việc làm chính thức, gồm: quyền ansinh xãhội;quyềncócácđiềukiệnsốngđảmbảo;quyềncócácđiềukiệnlàmviệcđảmbảo

nhânthânkhác.NhưnghọcónhữngđặctrưngriêngthểhiệntínhPCT,dẫnđếnquyền lợi của họ thiệt thòi hơn so với NLĐ có việc làm chính thức, như: khơng có cơ chế ba bên, cơ chế hai bên trong thương lượng, đối thoại, thỏa thuận về việc làm; lao động PCT dù làm trong khu vực chính thức cũng không được điều chỉnh bởi các quy định về lao động, an sinh xã hội và các chế độ việc làm khác… Vì vậy họ có nguy cơ rủiro caovềviệclàm,nghềnghiệp,cuộcsốngkinhtếvàbịdễtổnthương.Dođó,đặtrayêu cầu phải bảo vệ quyền lợi của họ, nhất là những quyền lợi cấpthiết.

Câu hỏi nghiên cứu 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam hiện nay như thế nào?

Giảthuyếtnghiêncứu:PhápluậtvềbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCT ởViệtNamhiệnnaybaogồmcácquyđịnhvề2hainộidunglớn:(1)Quyđịnhvềcác

quyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCTnhưquyềnlàmviệc,quyềnđượchưởngthunhập, quyền về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý, an toàn lao động, vệ sinh lao độngđểđảmbảosứckhỏe…;(2)QuyđịnhvềphươngthứcbảovệquyềnlợicủaNLĐ

cóviệclàmPCT.P h á p luậtvềbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCTởViệtNam hiện nay đã có nhiều tiến bộ so với giai đoạn trước như quy định thêm nhiều quyền hơn, nhưng cũng còn hạn chế như quy định chưa chi tiết, cơ sở áp dụng chưa cụ thể. Đồng thời thực tiễn bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam hiện nay đãđạtđượcmộtsốkếtquảvàđangtừngbướcbảođảmquyềnlợicủaNLĐcóviệclàm

PCT.BêncạnhnhữngkếtquảđạtđượcthìthựctiễnbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệc làm PCT vẫn còn nhiều hạnchế.

Câu hỏi nghiên cứu 3: Để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của NLĐ cóviệc làm PCT ở Việt Nam hiện nay thì cần những giải phápgì?

Giả thuyết nghiên cứu: Cần thực hiện các giải pháp sau để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam: (1) Hoàn thiện pháp luật ghi nhậnquyềnlợicủaNLĐcóviệclàmPCTởViệtNam;(2)Hồnthiệncácphươngthức pháp lý bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ có việc làm PCT ở ViệtN a m .

(3)NângcaonhậnthứccủaNSDLĐvàNLĐcóviệclàmPCTvềbảovệcácquyềnvà lợi ích hợp pháp của NLĐ có việc làmPCT.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1</b>

Liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trong và ngồi nước. Trong đó có một số cơng trình đã “định hình” được đối tượng NLĐ có việc làm PCT; một số cơng trình nêu lên thực trạng quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT, từ đó cho thấy bảo vệ quyền lợi của họ là cần thiết; một số cơng trình khác lại trình bày thực trạng bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở khía cạnh an sinh xã hội của một nhóm NLĐ có việc làm PCT nhất định (lao động nữ di cư PCT, lao động giúp việc gia đình)…Những cơngtrìnhnàyđềucóđónggópnhấtđịnhvàoviệcnghiêncứulýluậnvàthựctiễntrong bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT ở Việt Nam hiệnnay.

Tuynhiên,vẫncịnnhiềuvấnđềliênquanđếnbảovệquyềnlợicủaNLĐcóviệc làm PCT chưa được các cơng trình đưa ra, như: khái niệm tổng quát về NLĐ có việc làmPCT;thựctrạngphápluậtvàthựctiễnthựchiệnphápluậtliênquanđếnquyềnlàm việc, quyền được đảm bảo thu nhập, quyền về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơihợp lý, quyền về an sinh xãhội…

Luận án sẽ tiếp thu, kế thừa và phát triển những kiến thức nói trên. Luận án sẽ tiếptụclàmrõkháiniệmNLĐcóviệclàmPCT;phântíchthựctrạngphápluậtvàthực tiễn thực hiện pháp luật liên quan đến quyền làm việc, quyền được đảm bảo thu nhập, quyềnvềthờigiờlàmviệc,thờigiờnghỉngơihợplý,quyềnvềansinhxãhộicũngnhư các phương thức của Nhà nước trong bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làm PCT và đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của NLĐ có việc làmPCT.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<b>Chương 2</b>

<b>NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦANGƯỜILAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC VÀ PHÁP</b>

<b>LUẬTVỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNGCĨ VIỆC LÀM PHI CHÍNH THỨC</b>

<b>2.1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của người lao động có việc làm phi chínhthức</b>

<i><b>2.1.1. Khái niệm và đặc trưng của người lao động có việc làm phi chínhthức</b></i>

<i>2.1.1.1. Khái niệm người lao động có việc làm phi chínhthức</i>

NLĐ PCT (hay cịn gọi là NLĐ có việc làm PCT) và việc làm PCT là hai khái niệmvàphạmtrùkhácnhau.NóiđếnNLĐPCTlànóiđếnconngười,cịnnóiđếnviệc làm PCT là nói đến cơng việc. Tính PCT của NLĐ khơng được quyết định bởi chính bản thân NLĐ mà được quyết định bởi tính chất việc làm mà NLĐ tham gia. Do vậy, khi xem xét khái niệm NLĐ có việc làm PCT thì cần nghiên cứu xác định “việc làm PCT”trước,từđómớixácđịnhđượcmộtcáchchínhxácnhấtkháiniệm“NLĐcóviệc làmPCT”.

<i>Thứ nhất, khái niệm việc làm PCT.</i>

<i>Cố vấn Văn phòng lao động quốc tế Giăng Mu tê đưa ra quan điểm: “Việc</i>

<i>làmnhư một tình trạng, trong đó có sự trả cơng bằng tiền hoặc hiện vật do có sự thamgia tích cực có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” [113, tr 18]. Theo</i>

quan điểm này thì việc làm phải có yếu tố trả cơng, mà vấn đề trả công chỉ xảy ra trongquan hệ lao động, những trường hợp khơng có quan hệ lao động thì khơng thể xảy ra việc trả cơng,nhưngNLĐvẫncóthunhậptừchínhhoạtđộnglaođộngcủamình.Dođó,cóthể thấy, quan điểm việc làm trên chưa thật sự đầyđủ.

Quan niệm về việc làm của ILO được thể hiện qua khái niệm người có việclàm:

<i>“Ngườicóviệclàmlànhữngngườilàmmộtviệcgìđócóđượctrảtiềncơng,lợinhuậnhoặc được</i>

<i>thanh tốn bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tínhchất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình khơng được nhậntiền cơng hoặc hiệnvật” [14, tr 126]. Theo khái niệm trên của ILO, việc làm có thể là hoạt động lao động</i>

làm thuê cho người khác, cũng có thể là công việc do chính mình tạo ra vìlợiích,thunhậpgiađình,quanđiểmnàyđãbaoqtcảviệclàmcóquanhệlaođộng và việc làm khơng có quan hệ laođộng.

Dưới góc độ pháp lý, nước ta quy định việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Quy định này được đánh giá là tương đồng với quan niệm việc làm của ILO [14, tr 127]. Khái niệm việc làm PCT không thể tách rời khái niệm việc làm, cũng là những hoạt động lao động tạo ra thu nhập và không bị phápluật

</div>

×