Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng giai đoạn 1945 – 1946 và bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 16 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ RỊA VŨNG TÀU

<b>---TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔNLỊCH SỬ ĐẢNG</b>

<b>Đề tài: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ BẢOVỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG GIAI ĐOẠN</b>

<b>1945 – 1946 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM</b>

<b>GVHD: Lê Kinh Nam</b>

<b>Họ tên và MSSV: Nguyễn Thị Minh Phúc – 21031335 – DH21KS</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Pháp xâm lược ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ</b>

Sau Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, tiếp đó là thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; và đến nay chúng ta cũng

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

khẳng định công cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang giành được những thắng lợi lớn, "có ý nghĩa lịch sử sâu sắc"... Tất cả những thắng lợi đó của dân tộc Việt Nam đều nhờ vào vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ khi có Đảng, dân tộc ta liên tiếp giành được những thắng lợi mang ý nghĩa của dân tộc và thời đại sâu sắc, biểu hiện được những bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Chúng ta đã khẳng định được công cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được những thắng lợi lớn có ý nghĩa lịch sử sâu sắc.

Tuy nhiên chính quyền cách mạng và chế độ mới đứng trước nhiều thuận lợi đồng thời cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức mới, to lớn. Trong giai đoạn này vai trò lãnh đạo của Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN NỘI DUNG</b>

<b>I. Tình hình cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945</b>

<b>1.Thuận lợi </b>

Trên phạm vi quốc tế: Chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, chủ nghĩa đế quốc lâm vào tình trạng suy yếu đã tạo ra điều kiện để phong trào chống đế quốc, thực dân, giải phóng 5 dân tộc ở các nước thuộc địa ở khắp các nước châu Á, châu Phi, Mĩ latinh phát triển mạnh, các nước tư bản suy yếu.

Phong trào giải phóng dân tộc vì hịa bình, dân chủ phát triển mạnh, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được hình thành và nhân nhân. Nhiều nước ở Đông Trung Âu, được sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội.

Trên phạm vi trong nước: Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới. Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước; Chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Đặc biệt, việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân.

<b>2.Khó khăn</b>

<small>1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Thế giới: trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “ Chia lại hệ thống thuộc địa thế giới ”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn, khơng có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và cơng nhận vị trí địa lí pháp lý của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sau Cách mạng tháng tám thành công năm 1945, nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.

- Trong nước: hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm trọng. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, cơng nghiệp đình đốn, nơng nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Ngày 2-9-1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào cuộc mít tinh mừng ngày độc lập của nhân dân ta ở Sài Gòn-Chợ Lớn.

Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh-

Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng đội quân Nhật giúp sức quân Pháp ngang nhiên nổ

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ) vào rạng sáng ngày 23-9-1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam. Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam (Đức), từ cuối tháng 8-1945, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) tràn qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thâm độc “ Diệt Cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh. Trong khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn cịn 6

vạn qn đội Nhật Hồng thua trận chưa được giải giáp. Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “ Như ngàn cân treo sợi tóc ”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc

Ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt, là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, nhận định tình hình và định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền. Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Nam Bộ

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

và xác định rõ: “ Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng ” . Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện thời của cách mạng Việt Nam, trong đó nêu rõ cần nhanh chóng xúc tiến bầu cử Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ chính thức, lập ra Hiến pháp, động viên lực lượng tồn dân, kiên trì kháng chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài; kiên định nguyên tắc độc lập về chính trị; về ngoại giao phải đặc biệt chú ý “ Làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết ”; đối với Tàu Tưởng nêu chủ trương “ Hoa Việt thân-thiện ”, đối với Pháp “ Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế ”.

<b> Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói là một nhiệm vụ lớn,</b>

quan trọng, cấp bách lúc bấy giờ. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào lớn, các cuộc vận động, như: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với khẩu hiệu tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa; lập hũ gạo tiết kiệm, tổ chức Tuần lễ vàng, gây Quỹ độc lập, Quỹ đảm phụ quốc phòng, Quỹ Nam Bộ kháng chiến v.v. Chính phủ bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vơ lý của chế độ cũ, thực hiện chính sách giảm tô 25%. Ngay năm đầu, sản xuất nông nghiệp có bước khởi sắc rõ rệt, việc sửa chữa đê điều được khuyến khích, tổ chức khuyến nơng, tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đất hoang hóa chia cho nông dân nghèo. Sản xuất lương thực tăng lên rõ rệt, cả về diện tích và sản lượng hoa màu. Một số nhà máy, công xưởng, hầm

mỏ được khuyến khích đầu tư khơi phục hoạt động trở lại. Ngân khố quốc gia được xây dựng lại, phát hành đồng giấy bạc Việt

<small>4</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Nam. Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân được ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ, góp phần động viên kháng chiến ở Nam Bộ.

<b> Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ</b>

Chí Minh đặc biệt coi trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, góp phần tích cực xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương phát động phong trào “ Bình dân học vụ ”, tồn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt; vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới, đời sống văn hóa mới để đẩy lùi các tệ nạn, hủ tục, thói quen cũ, lạc hậu cản trở tiến bộ. Các trường học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt khai giảng năm học mới; thành lập Trường Đại học Văn khoa Hà Nội. Đến cuối năm 1946, cả nước đã có hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào chế độ mới, nêu cao quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.

<b> Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cáchmạng: Để khẳng định địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam,</b>

Đảng và Hồ Chí Minh đã chủ trương sớm tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thơng đầu phiếu để bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức.

<b>2.Tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dânPháp xâm lược ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệchính quyền cách mạng non trẻ</b>

Ngày 22 rạng ngày 23-9-1945, quân đội Pháp đã nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn Chợ Lớn (Nam Bộ). Vận mệnh nước

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Việt Nam mới “ Như ngàn cân treo sợi tóc ”. Ngay lập tức, sáng 23-9-1945, Hội nghị liên tịch 7 giữa Xứ ủy, Ủy ban nhân dân, Ủy ban kháng chiến và đại diện Tổng bộ Việt Minh đã nhanh chóng thống nhất, đề ra chủ trương hiệu triệu quân, dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống xâm lược Pháp. Nhân dân các tỉnh Nam Bộ đồng lòng đứng lên chiến đấu với tinh thần “ Thà chết tự do cịn hơn sống nơ lệ ”. Cùng với sự hưởng ứng và chi viện kịp thời của nhân dân miền Bắc đã tiếp lửa cho cuộc kháng chiến. Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện sách lược “ Triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hịa hỗn, nhân nhượng có ngun tắc ” với quân Tưởng, đề ra nhiều đối sách khơn khéo đối phó có hiệu quả với các hoạt động khiêu khích, gây xung đột vũ trang của quân Tưởng; thực hiện giao thiệp thân thiện, ứng xử mềm dẻo, linh hoạt với các yêu sách của quân Tưởng và các tổ chức đảng phái chính trị tay sai thân Tưởng, nhất là số cầm đầu Việt Quốc, Việt Cách. Trong tình hình thay đổi phức tap Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra bản chỉ thị “ Tình hình và chủ trương ”. Tạm hịa hỗn với quân Pháp để quân Tưởng rút về nước, tránh được một kẻ thù nguy hiểm. Đây là một nước cờ rất sáng suốt của Đảng khi lực lượng quân ta còn yếu hơn địch rất nhiều. Ngày 6-3-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nước Việt Nam dân chủ cộng hịa kí hiệp định sơ bộ với Pháp. Chỉ thị nêu rõ Pháp phải thừa nhận Việt Nam là quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng nằm trong Liên bang Đông Dương. Thay vào đó chính phủ ta đồng ý cho 15000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế cho 20000 quân Tưởng. Đảng ta đã có nhiều chuyến thăm thân thiện và đàm phán với chính phủ Pháp tuy có gặt hái được nhiều thành công làm cho dư luận Pháp, chính phủ Pháp tiến bộ hiểu thêm cuộc đấu tranh chính

<small>6</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

nghĩa nhưng cũng vấp phải nhiều bất đồng do giã tâm xâm lược của Pháp. Trong khi đó qn Tưởng ở Việt Nam lại trì hồn rút quân, các thế lực Pháp ở Hà Nội âm mưu phản động nhằm lật đổ chính quyền Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, sáng suốt của Đảng và Chính phủ do cụ Huỳnh Thúc Kháng quyền Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ lãnh đạo, rạng sáng ngày 12-7-1946, lực lượng Công an đã khôn khéo, sáng tạo, tổ chức một cuộc đột nhập, tấn công bất ngờ vào trụ sở của bọn Đại Việt Quốc dân đảng nhanh chóng khống chế bọn phản động vũ trang lật đổ chính quyền tay sai phản động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời chỉ đạo từng bước chuyển sang tình trạng chiến tranh và chuẩn bị kháng chiến lâu dài; tiếp tục cuộc chiến đấu giam chân địch ở Nam Bộ và trong các thành phố, thị xã ở miền Bắc, khẩn trương tiến hành cuộc tổng di chuyển các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các ban, bộ, ngành, quân đội, công an và các cơ quan lãnh đạo kháng chiến địa phương ra khỏi thành phố, thị xã; củng cố, xây dựng căn cứ địa,… Ở các nơi quân Pháp có thể chiếm đóng, nhân dân thực hiện tiêu thổ kháng chiến với khẩu hiệu “ Vườn không nhà trống ”, “ Phá hoại để kháng chiến ” nhằm ngăn cản bước tiến của địch, hạn chế tiềm năng kinh tế địch, phá kinh tế địch.

<b>3.Kết quả</b>

● Về chính trị – xã hội:

- Xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới – chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết.

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

- Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử.

- Hiến pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Các đoàn thể nhân dân Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được xây dựng và mở rộng.

● Về kinh tế, văn hóa:

- Q trình phát động phong trào tăng gia sản suất, lập hũ gạo cứu đói đã thành cơng khiến cho nền kinh tế được phục hồi nhanh chóng.

- Sản xuất lương thực tăng lên rõ rệt, cả về diện tích và sản lượng hoa màu, một số nhà máy, công xưởng, hầm mỏ được khuyến khích đầu tư khơi phục hoạt động trở lại.

- Ngân khố quốc gia được xây dựng lại, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam.

- Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân được ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ, góp phần động viên kháng chiến ở Nam Bộ.

- Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sơi nổi, cuối năm 1946, cả nước đã có thêm 2.5 triệu người biết đọc, biết viết. Đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào chế độ mới, nêu cao quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.

● Về bảo vệ chính quyền cách mạng:

- Ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở Nam Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

của các kẻ thù; củng cố và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám; tạo thêm thời gian hịa hỗn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài.

<b>4.Ý nghĩa lịch sử </b>

- Bảo vệ nền độc lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng nền móng cơ bản cho chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chuẩn bị điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến tồn quốc sau đó.

- Củng cố, phát triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

- Thắng lợi của cuộc kháng chiến đưa đến việc giải phóng hồn tồn miền Bắc, tạo tiền đề để Đảng quyết định miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội ,xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

<b>III. Bài học kinh nghiệm</b>

- Tích cực xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền cách mạng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.

- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng<small>.</small>

- Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cành, cụ thể.

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

- Tận đụng khả năng hịa hỗn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.

- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong mọi hồn cảnh khó khăn, phức tạp.

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>KẾT LUẬN</b>

Đảng ra đời là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng một lúc nhân dân ta phải thực hiện nhiều nhiệm vụ lớn: Kháng chiến chống xâm lược giữ vững nền độc lập, trấn áp các thế lực phản động, xây dựng và củng cố chính quyền, xây dựng chế độ mới, phát triển kinh tế, vǎn hoá để từng bước ổn định đời sống nhân dân… nhưng nhờ sự đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt và những chính sách chiến lược chiến đấu cũng như chính sách xây dựng và bảo vệ tổ quốc đúng đắn của Đảng, chúng ta đã được sống trong nền hịa bình của dân tộc. Mặc dù vậy chúng ta vẫn luôn phải đối mặt với những khó khăn thử thách nhưng bằng sự đồng lịng, đồng tâm của dân tộc, chúng ta ln vượt qua nó dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và cuối cùng chúng ta không thể phủ nhận một điều rằng xã hội ln tiến lên phía trước nhưng các giá trị truyền thống, bài học kinh nghiệm của cha ông chưa bao giờ là lỗi thời, những điều đó vẫn ln được Đảng ta vận dụng và học hỏi cho đến tận ngày nay.

</div>

×