Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

đảng lãnh đạo xây dựng xây dựng công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn thời kỳ 1996 2000 (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.25 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
---***---

PHẠM THỊ THÙY

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (1996 - 2000)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI - 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
---***---

PHẠM THỊ THÙY

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (1996 - 2000)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
Th.S NGÔ THỊ LAN HƯƠNG


HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo, Thạc sĩ Ngô
Thị Lan Hương đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình tìm đề tài, đến khi hoàn thành khóa luận. Đồng thời tôi xin trân thành
cảm ơn tất cả các thầy, cô giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị, bạn bè và gia
đình đã giúp đỡ tận tình và tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian thực
hiện khóa luận.
Là một sinh viên lần đầu tiên làm khóa luận tốt nghiệp nên không tránh
khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của
các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Tác giả

Phạm Thị Thùy


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 1996 2000” dưới sự hướng dẫn của cô giáo, Thạc sĩ Ngô Thị Lan Hương tại trường
Đại học sư phạm Hà Nội 2 là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những kết quả nghiên cứu của khóa luận chưa từng được công bố ở bất kì nơi
nào, nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Tác giả


Phạm Thị Thùy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CNH:

Công nghiệp hóa.

HĐH:

Hiện đại hóa.


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ........................................ 6
1.1. Một số khái niệm ................................................................................. 6
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông thôn ................. 11
1.3. Tính tất yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiên đại hóa nông nghiệp,
nông thôn ................................................................................................. 13
Chương 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ( 1996 – 2000).... 16
2.1. Tình hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trước
năm 1996.................................................................................................. 16
2.2. Qúa trình Đảng lãnh đạo thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

(1996 - 2000) ............................................................................................ 24
Chương 3: KẾT QUẢ THỰC HIỆN, MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI
PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN .............................................................................. 39
3.1. Kết quả thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn (1996 - 2000) .................................................................................... 39
3.2. Một số kinh nghiệm và giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn ..................................................................... 47
KẾT LUẬN.................................................................................................. 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 54


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi ra đời
Đảng đã được lịch sử giao cho sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vì vậy
ngay từ khi mới thành lập Đảng đã xác lập được vai trò lãnh đạo đối với tiến
trình cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối chiến lược đúng đắn: gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo phát triển
của cách mạng thế giới và xu hướng tiến bộ của nhân loại.
Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, Đảng ta không ngừng
lớn mạnh, lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại, nổi bật
nhất là cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của hai cuộc cách mạng
kháng chiến oanh liệt chống đế quốc Pháp và đế quốc Mĩ giải phóng dân tộc
và bảo vệ tổ quốc, từng bước đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày hôm nay, sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã
thu được những thành tựu to lớn, kì diệu, đất nước ta đã vượt qua những thử
thách ngoặt nghèo, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước

vào thời kì phát triển mới. Đó là kết quả của nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó phải kể tới tác động tích cực từ những thành quả trong công cuộc
thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
của Đảng.
Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới cho
thấy nông nghiệp nông thôn luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng đối với đời
sống xã hội. Những sản phẩm do nông nghiệp, nông thôn tạo ra không hoạt
động sản xuất nào thay thế được, tuy nhiên để nông nghiệp, nông thôn phát
triển có hiệu quả, đòi hỏi phải có hình thức bước đi phù hợp.
1


CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam là chủ trương lớn và
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, vì trong quá trình này đã thúc đẩy nền
kinh tế đất nước phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư ở
nông thôn, tạo điều kiện để giải quyết hàng loạt các vấn đề chính trị - xã hội
của đất nước, đưa nông thôn nước ta phát triển văn minh, hiện đại.
Tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định: “Đặc biệt coi trọng
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, phát triển công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu” [12, tr.96].
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một quá trình lâu dài cần được
tiến hành theo cách tuần tự, không nóng vội, không thể tùy tiện. Qúa trình này
được thực hiện không nhằm mục đích tự thân mà phục vụ các mục tiêu kinh
tế - xã hội của nông thôn cũng như của cả nước. Vì vậy nếu ta không nhìn
nhận và phân tích một cách sâu sắc quá trình chuyển đổi và phát triển của nền
nông nghiệp hiện nay thì sẽ có thể tìm ra những giải pháp vĩ mô cũng như vi
mô đúng và phát huy được hiệu quả trong quá trình CNH, HĐH nền nông
nghiệp của đất nước.
Thực tế lịch sử đã chứng minh trong những năm gần đây nhờ có đổi

mới đường lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng khích lệ, tuy vậy nông nghiệp hiện nay vẫn đang đứng
trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề sản xuất và đời sống của nhân
dân đang nổi lên gay gắt. Do vậy đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương này
của Đảng và Nhà Nước là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng Việt
Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội xã
chủ nghĩa.
Xuất phát từ thực tế cấp bách đó, cùng với vốn kiến thức đã được tiếp
thu cùng sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn và các thầy, cô trong
khoa Giáo dục Chính trị tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Đảng Cộng sản
2


Việt Nam lãnh đạo công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
(1996 - 2000)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Về vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu đòi hỏi
khách quan của thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn mới, giai đoạn chuyển từ
nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy đề tài này đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu.
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu, tiêu
biều như cuốn “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn một
số lí luận và thực tiễn” của tác giả Hồng Vinh; “Đổi mới và hoàn thiện một số
chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn” của tác giả Lê Đình Thắng; và
gần đây nhất là của tác giả Chu Hữu Qúy với cuốn “Con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” (2002)… Tất cả các cuốn sách nói
trên đều tìm hiểu chung tình hình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn một
cách chung chung mà chưa đi vào nghiên cứu một giai đoạn nhất định để thấy
được hệ thống lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn. Vì vậy tôi đã quyết định chọn cho mình một giai đoạn
(1996 - 2000) làm đề tài khóa luận của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo của chủ trương CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, kết quả đạt được và những yếu kém, khuyết
điểm trong quá trình Đảng lãnh đạo CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ
năm 1996 - 2000, qua đó rút ra một số kinh nghiệm, góp phần vào quá trình
hoàn thiện hơn chủ trương của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
thúc đẩy sản xuất phát triển thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ
kinh tế, xã hội trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ yêu cầu khách quan, chủ trương của Đảng về CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Trình bày sự lãnh đạo của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn, làm rõ những thành tựu cũng như yếu kém trong quá trình thực hiện chủ
trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 - 2000.
Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, Đảng lãnh đạo sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 - 2000.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Khóa luận nghiên cứu đường lối, chủ trương của Đảng và sự lãnh đạo
của Đảng đối với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta từ
1996 - 2000.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận tập trung nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 - 2000 trên phạm vi
cả nước, trong khuân khổ giới hạn của đề tài, em cố gắng tập trung làm rõ quá
trình hình thành, phát triển chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
của Đảng và Nhà nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về vấn đề
CNH, HĐH trong đó tập trung chủ yếu vào lĩnh vực CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
- Phương pháp chuyên ngành: đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành
lịch sử Đảng, nên phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là các

4


phương pháp: lịch sử và lôgic, ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp
khác như so sánh, quy nạp, diễn dịch, diễn giải…

6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương, 7 tiết

5


Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN


1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Ở thế kỉ XVII, XVIII khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây
âu, CNH được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc. Những khái niệm kinh tế nói chung và khái niệm CNH, HĐH
nói riêng, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã
hội, của khoa học công nghệ. Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này
trong từng giai đoạn phát triển sản xuất của nền kinh tế xã hội có ý nghĩa to
lớn về lý luận và thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những
kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành CNH, và từ những thực tiễn CNH ở Việt
Nam trong thời kì đổi mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII (7/1994) Đảng đã xác định:
“CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện
đại trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ
nhằm tạo ra năng suất lao động cao” [10, tr.65].
Khái niệm CNH trên đây được Đảng ta xác định rộng trên những quan
niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại cùng với kĩ thuật và công nghệ cao. Như vậy, CNH theo tư

6


tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất, kĩ
thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan
niệm trước đây.

Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất
nước, CNH ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, CNH phải gắn liền với HĐH.
Sở dĩ như vậy vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế trí thức, nên phải tranh thủ ứng dụng những
thàng tựu của cuộc cách mạng khoa học hiện đại, tiếp cận kinh tế tri thức để
HĐH những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
Thứ hai, CNH nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
CNH là tất yếu với tất cả những nước chậm phát triển, nhưng với mỗi
nước, mục tiêu và tính chất của CNH có thể khác nhau. Ở nước ta, CNH
nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức
mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thứ ba, CNH trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước.
Điều này làm cho CNH trong giai đoạn hiện nay khác với CNH trong
thời kì trước đổi mới. Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung
hành chính, bao cấp, CNH được thực hiện theo kế hoạch, mệnh lệnh của Nhà
nước. Trong cơ chế quản lý kinh tế hiện nay Nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức
quan trọng trong quá trình CNH nhưng CNH không xuất phát từ chủ quan của
Nhà nước, nó đòi hỏi vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết là quy
luật thị trường.
Thứ tư, CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân trong nền kinh tế toàn cầu
hóa, vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất
yếu đối với nước ta.
7


CNH trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở có thể đi nhanh nếu
chúng ta biết vận dụng, tranh thủ được những thành tựu của thế giới và sự

giúp đỡ của quốc tế. CNH trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở cũng gây
ra không ít trở ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới, do
“trật tự” của nền kinh tế thế giới mà các nước tư bản phát triển thiết lập không
có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế CNH, HĐH phải đảm bảo xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Những đặc điểm trên đây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay, vừa đem lại những thuận lợi cũng như thách thức
buộc chúng ta phải có những chủ trương, chính sách và bước đi đúng đắn,
nhằm đưa kinh tế nước ta phát triển bền vững.
1.1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa
IX Đảng ta đã đưa ra khái niệm về CNH, HĐH như sau:
“CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn công nghiệp chế biến và thị
trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các
thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa
thiết bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông
nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nông sản hàng hóa trên thị trường”.
“CNH, HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng tăng tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành
công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và lao động nông
nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quy hoạch phát triển
nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công

8


bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa

của nhân dân ở nông thôn” [14, tr.93].
Tuy hai quá trình có phạm vi, đối tượng khác nhau nhưng quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động lẫn nhau cùng phát triển. Tách ra giữa CNH, HĐH
nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn nhằm nhận thức về bản chất khoa học
của mỗi quá trình từ đó xác định chủ trương, giải pháp tác động phù hợp, thúc
đẩy sản xuất phát triển.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật
chất, kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất
hàng hóa lớn, hiện đại; gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, cho phép
phát huy có hiệu quả cao nguồn nhân lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt
đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế, nhằm nâng cao năng suất lao
động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn; xây dựng nông thôn mới giàu có,
công bằng dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển
đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp và bộ mặt
kinh tế - xã hội nông thôn thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ giới,
đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng hóa lớn. Đó là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỉ trọng các hoạt động
sản xuất phi nông nghiệp nhằm khai thác mọi tiềm năng để tạo ra năng suất
lao động, hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, từ đó làm thay đổi diện mạo nông
thôn tiến gần tới thành thị...Trong đó, CNH nông nghiệp, nông thôn là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình
không ngừng nâng cao trình độ khoa học công nghệ, trình độ tổ chức và quản
lý sản xuất khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Như vậy, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình phát triển
nông thôn theo hướng tiến bộ như kinh tế - xã hội của một nước công nghiệp.

9



Điều đó có nghĩa là không chỉ phát triển nông nghiệp, nông thôn mà còn bao
hàm cả việc phát triển các hoạt động; các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, đời sống,
văn hóa, tinh thần của người nông thôn phù hợp với nền sản xuất nông nghiệp
ở nông thôn và cả nước nói chung.
Trước tình hình thực tiễn của đất nước, sau Đại hội VI của Đảng (năm
1986), Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư (khóaVIII) một lần nữa
khẳng định: phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH và hợp
tác hóa, dân chủ hóa. Trong những năm trước mắt cần đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phù hợp với sự phát triển kinh tế nông
nghiệp hàng hóa, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người nông dân. Trong
đó phải giải quyết vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông sản.
Tháng 11 năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “Một số vấn đề
phát triển nông nghiệp, nông thôn” khẳng định quan điểm, mục tiêu nhất
quán của Đảng ta là: coi trọng CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp, đưa
nông nghiệp lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kì quan trọng trong cả trước
mắt và lâu dài. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH tăng nhanh khối lượng sản phẩm hàng hóa nhất là nông - lâm - thủy hải
sản qua chế biến, tăng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp trước hết phải giữ vững mục tiêu đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia trong mọi tình huống.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định:
“... ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thôn và phát huy vai trò của giai
cấp nông dân trong thời kì đổi mới, tập trung sự chỉ đạo và các nguồn
lực cần thiết cho CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn;
thực hiện tốt các chính sách về ruộng đất, phát triển nông nghiệp toàn
diện, tiêu thụ nông sản hàng hóa, bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã
hội, phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ những vùng khó khăn, phân bố

10



dân cư theo quy hoạch, phát triển nghành nghề giải quyết việc làm, xóa
đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông
thôn mới” [13, tr.168].
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông thôn
Với tư cách là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản
Việt Nam, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình thực tế
nước ta, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: phải “Xây dựng một nền nông nghiệp
phát triển toàn diện, đó là nền nông nghiệp có kết cấu hợp lý giữa trồng trọt
và chăn nuôi, trong trồng trọt lấy phát triển cây lương thực là chủ yếu, sau đó
đến các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ” [20, tr.230]. Do đó
Người phát động tết trồng cây và kêu gọi mọi người tham gia.
Nền nông nghiệp phát triển toàn diện, phải có ngành chăn nuôi phát
triển. Theo người “Phải phát triển mạnh chăn nuôi để có thêm thịt ăn và thêm
sức kéo, phân bón” [ 20, tr.63].
Nền nông nghiệp phát triển toàn diện phải phát triển cả về lâm nghiệp,
Người nói “Rừng là vàng nếu chúng ta biết bảo vệ thì rừng rất quý” [20, tr.321].
Nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo người phải có ngành ngư
nghiệp phát triển và phát triển các ngành kinh tế gắn liền với biển.
Nền nông nghiệp phát triển toàn diện ngoài phát triển các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp, Người cho rằng “Miếng vườn của mỗi gia đình, xã viên và
các ngành nghề phụ là nguồn lợi để phát triển thu nhập, vì vậy cần phải phát
triển thích đáng kinh tế phụ gia đình” [20, tr.407].
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về nông nghiệp phát triển toàn
diện, không phải sản xuất manh mún, tự cấp, tự túc, mà trên cơ sở quy hoạch
theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn tập trung phù hợp với nền CNH,
HĐH đất nước.
11



Phát triển lý luận Mác - Lênin về vấn đề phát triển nông nghiệp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
“Đối với một nước nghèo, lạc hậu như nước ta, phát triển nông nghiệp
là vấn đề cốt lõi của nền kinh tế ”. Trong phát triển nông nghiệp, sản
xuất nông nghiệp có vị trí quan trọng, Người nói “Sản xuất nông nghiệp,
trước hết là sản xuất lương thực là việc làm cần thiết cho đời sống của
nhân dân, là bộ phận cực kì quan trọng trong kế hoạch kinh tế nông
nghiệp” [20, tr.5].
Theo quan niện của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì: nông nghiệp, nông thôn
và nông dân có vị trí quan trọng đối với xã hội, Người nói:
“Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế nước ta lấy
nông nghiệp làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, chính phủ
trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn,
nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông dân ta thịnh thì nước ta thịnh”
[18, tr.45].
Trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp là một trong ba bộ
phận quan trọng không thể thiếu được, vì nông nghiệp là cơ sở để phát triển
các ngành kinh tế khác. Người nói “Về nhiệm vụ thì phải hiểu rõ trong nền
kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng là nông nghiệp, công nghiệp và
thương nghiệp. Ba mặt cộng tác quan hệ mật thiết với nhau, thương nghiệp là
khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp” [20, tr.147].
Người chỉ rõ: “Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển,
cho nên nông nghiệp và công nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau
phát triển như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh
chóng đi đến mục đích” [19, tr.545].
Về xây dựng nông thôn mới, Người dạy: Muốn cơm no, áo ấm thì mọi
người phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người nói:
“Nhiều gia đình cộng lại mới thành một xã hội, gia đình tốt thì xã hội tốt, hạt


12


nhân của xã hội là gia đình, chính vì vậy muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
xây dựng hạt nhân cho tốt” [20, tr.523].
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng cơ sở
vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải có nông nghiệp, công nghiệp hiện
đại, trong đó phải tiến hành CNH nông nghiệp. Người căn dặn:
“Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, đó là chỗ bắt đầu đi của chúng
ta. Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng ta dùng máy
móc để sản xuất một cách thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong nông
nghiệp và công nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức
người tăng lên gấp trăm ngàn lần và giúp cho con người làm những
việc phi thường... Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp là
chính, vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có dư lương thực,
nguyên liệu. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu
chung, là con đường ấm no thực sự của nhân dân ta” [19, tr.41].
Người cho rằng: sự nghiệp CNH là tất yếu khách quan của cách mạng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phải
tiến hành CNH cả nông nghiệp và công nghiệp, trong đó nông nghiệp đi trước
và là mặt trận hàng đầu.
1.3. Tính tất yếu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ
biến sản xuất nhỏ, lạc hậu và đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất, kĩ
thuật mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu nhập của nông dân còn thấp, đời
sống mọi mặt ở nông thôn còn hết sức khó khăn. Trong khi đó nhiều nước
trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi hoạt động
sản xuất nông nghiệp đã được cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, hóa học

hóa. Nhờ đó năng suất lao động của họ đạt hiệu quả cao, tạo sự phân công sâu
sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
13


Ở nước ta, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm cuối thập kỉ
70 đến giữa thập kỉ 80 của thế kỉ XX, xuất phát điểm từ khủng hoảng kinh tế
nông nghiệp, nông thôn, do chậm trễ trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và
chính sách sản xuất nông nghiệp đã cản trở sự phát triển của lực lượng sản
xuất, làm cho lương thực, thực phẩm thiếu hụt triền miên, đồng thời do sai
lầm trong lựa chọn hình thức, bước đi thực hiện CNH đất nước, thiên về phát
triển công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ không được chú trọng, dẫn đến
nhiều mặt hàng tiêu dùng không được đảm bảo phục vụ cho nhu cầu của đời
sống xã hội.
Tình hình trên đã ảnh hưởng lớn đến phát triển chung của nền kinh tế
quốc dân. Trước thực trạng đó, những tư duy về đổi mới kinh tế, đặc biệt là
trong nông nghiệp, nông thôn ra đời từ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa IV (8/1979), Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (1/1981), nội dung
chính về CNH xã hội chủ nghĩa do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V
(3/1982), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) và sự hoàn thiện về
cơ chế quản lí kinh tế nông nghiệp theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khoá
VI (4/1988), Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa VI
(3/1989),... Đã từng bước đi vào thực tiễn đời sống xã hội mở ra bước ngoặt
mới thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội
cho thấy, phát triển nông nghiệp, nông thôn có vai trò quyết định đối với sự
ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, tạo cơ sở phát triển cho các ngành
công nghiệp, tăng cường khả năng quốc phòng an ninh đất nước.
Công cuộc đổi mới tuy giành được những thành tựu to lớn, song nền
kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp là

chủ yếu, năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kĩ
thuật còn lạc hậu. Đời sống nhân dân nhất là vùng sâu vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số còn quá khó khăn.
14


Nông thôn nước ta, nơi đang sinh sống của phần lớn dân cư toàn xã hội,
nhưng vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, đang là
vần đề bức xúc của xã hội.
Mặt khác do yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu
cầu về nâng cao đời sống con người ngày càng phát triển, đời sống con người
nâng lên thì nhu cầu về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng lên cả về
số lượng và chất lượng, chủng loại… Như vậy, chỉ có một nền nông nghiệp
phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu tăng lên thường
xuyên đó.
Xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế, trước hết là quá trình quốc tế hóa, khu
vực hóa các quan hệ kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại, trao
đổi thông tin khoa học - kĩ thuật, chuyển giao công nghệ,... Buộc chúng ta phải
đẩy nhanh việc thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn để chúng ta có
thể tận dụng vốn, khoa học, kĩ thuật hoặc học hỏi kinh nghiệm quản lý ở nước
ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn, vận dụng vào quá trình CNH, HĐH đất
nước, nhằm tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế... Vì vậy, đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để giải quyết những
yêu cầu cấp thiết đó, nó có ý nghĩa chiến lược quan trọng, là sự lựa chọn bước
đi đúng của Đảng ta, phù hợp với yêu cầu khách quan của nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội trong thời kì đầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

15



Chương 2
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ( 1996 – 2000)

2.1. Tình hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
trước năm 1996
2.1.1. Chủ trương của Đảng
Sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước của nhân dân ta kết thúc thắng lợi đây là một trong những chiến thắng
vẻ vang, oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã đánh bại đế quốc
Mĩ, một đế quốc có thế lực kinh tế, quân sự hùng mạnh vào bậc nhất thế giới,
mở ra kỉ nguyên mới cho cách mạng Việt Nam, đó là kỉ nguyên cả nước độc
lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ hết sức
khó khăn, lại phải tiến hành trong những điều kiện đất nước vừa trải qua
những năm tháng chiến tranh liên miên nên càng trở nên nặng nề và gian nan
hơn. Những năm cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX, do cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp kéo dài đã làm cho nền kinh tế nước ta trì trệ, dẫn tới
khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng.
Trong bối cảnh đó, để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và đưa
nền kinh tế phát triển bền vững, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã
quyết định đổi mới đất nước một cách toàn diện. Trong đó, Đảng đã vạch ra
đường lối đổi mới và xác định phương hướng đổi mới trong quản lí nông
nghiệp: Phải bố trí lại cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đưa nông nghiệp nước ta
tiến lên một bước theo hướng sản xuất hàng hóa lớn.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI cũng đã tổng kết những thành
tựu đạt được cũng như những khó khăn, yếu kém cần được khắc phục trong

16



những năm trước và đề ra phương hướng phát triển kinh tế trong giai đoạn
mới, trong đó Đảng xác định:
“Trong những năm tới chúng ta thực sự lấy nông nghiệp làm mặt trận
hàng đầu, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Công nghiệp nặng trong lúc này, hướng trước hết và chủ yếu vào phục
vụ nông nghiệp, công nghiệp nhẹ với quy mô và trình độ kĩ thuật thích
hợp” [9, tr.15].
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, trên cơ sở tổng kết thực tiễn tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lí kinh tế nông nghiệp. Ngày 5/4/1988 Bộ chính trị đã ra
Nghị quyết 10 tạo đà cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Nghị quyết 10 chủ trương sắp xếp, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp
theo hướng chuyên môn hóa và kết hợp với kinh doanh tổng hợp, gắn trồng
trọt với chăn nuôi, gắn nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp và giao
thông vận tải, đặc biệt là công nghiệp chế biến và các nghành tiểu thủ công
nghiệp ở nông thôn, gắn phát triển sản xuất và mở rộng lưu thông giữa các
vùng trong nước với thị trường quốc tế. Đồng thời không ngừng tăng cường
cơ sở vật chất kĩ thuật vào sản xuất, chế biến, tăng năng suất khối lượng và
giá trị hàng hóa trong nông nghiệp.
Sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị là Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII (3/1989) về phương hướng lớn trong đổi mới quản lí nông
nghiệp đã góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất khỏi sự trói buộc
của cơ chế cũ, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn kinh tế nông nghiệp,
nông thôn.
Trong giai đoạn này, Đảng ta đã có những giải pháp đồng bộ điều chỉnh
các mối quan hệ về quyền sở hữu, công tác quản lí và phân phối, gắn với việc
đầu tư trọng điểm cho sản xuất nông nghiệp, tạo động lực cho sản xuất nông
nghiệp phát triển. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, kinh tế - xã

17



hội ổn định, an ninh - quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên, nền nông
nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kĩ
thuật kém, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, sức cạnh
tranh kém, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) của Đảng đã đề ra
những định hướng lớn trong đó có quan điểm: phải đảm bảo cho sự tăng
trưởng kinh tế gắn liền với quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước CNH, thoát khỏi tình trạng nông
nghiệp lạc hậu, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến; phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Đảng
coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã
hội. Đồng thời xác định:
“Phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu tích
lũy từ nền kinh tế, tăng thêm vật chất làm cho người lao động ổn định
từng bước, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”
[10, tr.63].
Triển khai những định hướng đó, tháng 6 năm 1993 tại Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khóa VIII), Đảng ra Nghị quyết về “Tiếp
tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”. Hội nghị nhấn mạnh
quan điểm phải đặt sự nghiệp phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn
theo hướng sản xuất hàng tiêu dùng trong quá trình CNH, HĐH đất nước, coi
đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu. Đồng thời đề ra những
phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu đó.
Đảng chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở thực
hiện chuyển dịch kinh tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững chắc có
hiệu quả công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn tăng tỉ trọng những ngành này
trong cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Kế thừa những quan điểm


18


cơ bản trên và tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, phát triển Nghị quyết Đại hội Đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (1/1994) đã phân tích làm rõ hơn mối
quan hệ giữa CNH và HĐH đất nước. Cùng với nhận thức quy luật khách
quan của CNH, HĐH đất nước, Đảng ta cũng nhận thức yêu cầu cấp bách tiến
hành CNH nông nghiệp, nông thôn, bộ phận hữu cơ có vị trí quan trọng trong
quá trình CNH, HĐH đất nước. Do đó, tư tưởng về CNH và HĐH nông
nghiệp, nông thôn đã đề cập trong Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương khóa VII, được Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì phát triển và
gắn liền thành cụm từ “CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”, Hội nghị chỉ rõ:
Để khắc phục tình trạng kinh tế lạc hậu, chậm phát triển trước mắt trong
những năm còn lại của thập kỉ 90, phải đặc biệt quan tâm tới CNH, HĐH
nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn trong những năm 1991- 1995:
Một là, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
lạc hậu sang cơ cấu kinh tế mới theo hướng CNH, HĐH với năng suất, chất
lượng hiệu quả cao hơn.
Đây là nội dung cơ bản nhất của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn có
ý nghĩa chiến lược trước mắt cũng như lâu dài đối với quá trình cách mạng.
Trước mắt nhằm khai thác sử dụng có hiệu quả về lực lượng sản xuất, tiềm
năng lớn trong nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân làm giàu và
làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng tích cực, đồng thời còn là chìa khóa
mở ra con đường phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời kì mới.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với khôi
phục các ngành nghề, làng nghề truyền thống, phát triển nhiều ngành nghề
mới trong nông thôn.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn là tiền đề vật chất, kĩ thuật

quan trọng để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển. Trong điều
19


×