Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.52 KB, 25 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>MỞ ĐẦU</b>
Kinh tế học vĩ mơ, hay cịn được gọi là kinh tế tầm lớn, là một phân ngành quan trọng của kinh tế học, tập trung vào nghiên cứu về đặc điểm, cấu trúc và hành vi của toàn bộ nền kinh tế. Trong xã hội hiện đại 4.0, việc áp dụng kiến thức từ kinh tế học vĩ mô vào thực tiễn trở nên cực kỳ quan trọng. Với tinh thần ham học hỏi và không muốn chỉ dừng lại ở việc học hỏi từ sách vở, nhóm sinh viên của chúng tơi quyết định thực hiện đề tài tiểu luận "Tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020: Thực trạng và giải pháp".
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Mục tiêu này cũng là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đóng vai trị quan trọng trong việc đo lường sự tiến bộ của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn. Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch Kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 của Việt Nam là đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định trong quá trình phát triển. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo, cần tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp song hành với nhau. Năm 2020 được xem là năm quan trọng đặt nền móng cho Kế hoạch 5 năm 2021-2025. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp hơn, cùng với những cơ hội và thách thức đồng thời, việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh này trở nên ngày càng khó khăn và đòi hỏi sự đổi mới và linh hoạt trong các biện pháp chính sách kinh tế.
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thành tựu đáng kể và tăng trưởng liên tục ở mức cao, nhưng vẫn còn một số hạn chế so với tiềm năng và thực tế của đất nước. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo, cần phải thực hiện một loạt các giải pháp đồng bộ và hiệu quả trong thời gian sắp tới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>NỘI DUNG</b>
Trải qua 36 năm cải cách kinh tế và chính trị, kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng ấn tượng. Quá trình cải cách từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Từ năm 2016 đến 2019, Việt Nam 4 năm liên tiếp được xếp hạng trong số 10 quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới và là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, năm 2020, khi hầu hết các nước tăng trưởng âm hoặc rơi vào suy thoái do ảnh hưởng của dịch Covid-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần tăng trưởng GDP bình qn 5,9%/năm trong 5 năm qua. năm, đứng đầu nước này, nằm trong số các nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới.
Tại sao tăng trưởng kinh tế lại quan trọng đến vậy? Tăng trưởng kinh tế không chỉ là một trong những mục tiêu hàng đầu của các quốc gia trên thế giới mà còn là chỉ số quan trọng để đo lường sự tiến bộ của các quốc gia trong các thời kỳ khác nhau. Tăng trưởng kinh tế có vai trị quan trọng trong việc tạo việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người dân, giảm nghèo, tạo điều kiện vật chất để xây dựng xã hội phát triển. Vì vậy, hiệu quả hoạt động của mỗi nền kinh tế thường được đánh giá dựa trên chỉ số GDP và hàng loạt chỉ số khác như PCE…
Năm 2020 có tầm quan trọng đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu do có vơ số thách thức mà nền kinh tế tồn cầu gặp phải, xuất phát từ nhiều yếu tố kinh tế và địa chính trị tồn cầu. Những yếu tố này bao gồm xung đột đang diễn ra giữa Nga và Ukraine, sự xuất hiện của dịch Covid-19 ở Trung Quốc và sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách tiền tệ để chống lạm phát leo thang. Mặc dù phải đối mặt với những trở ngại ghê gớm này, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện khả năng phục hồi vượt trội, hồi phục mạnh mẽ và vượt qua những hậu quả bất lợi. Quốc gia này đã duy trì được quỹ đạo tăng trưởng tích cực, qua đó không chỉ thể hiện sự vững mạnh và vững vàng của nền kinh tế Việt Nam mà còn đánh dấu một cột mốc quan trọng trong hành trình phát triển của đất nước.
Để trả lời câu hỏi về tình hình kinh tế của Việt Nam trong năm 2020 và xem xét liệu đó có phải là một năm tăng trưởng tốt hay không, chúng ta cần dựa vào các đánh giá khách quan và các chỉ số kinh tế cụ thể. Dưới đây là một số điểm nhấn:
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Tình hình thực tế của kinh tế Việt Nam trong năm 2020: Việc đánh giá tình hình thực tế của kinh tế Việt Nam trong năm 2020 cần dựa vào các chỉ số kinh tế chính như tăng trưởng GDP, sản xuất cơng nghiệp, xuất nhập khẩu, tiêu dùng, đầu tư và các chỉ số kinh tế khác. Cần xem xét cả mức độ ảnh hưởng của các yếu tố ngoại lai như đại dịch COVID-19, biến động thị trường quốc tế và chính sách kinh tế nội địa.
Thành tựu của Đảng nhà nước và người dân: Cần đánh giá những nỗ lực và thành tựu của Đảng, chính phủ và người dân trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này bao gồm các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, cũng như các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế.
Phương hướng và chính sách cho tương lai: Cần xem xét những phương hướng và chính sách được đề xuất để đảm bảo sự phục hồi vững chắc của kinh tế trong tương lai. Điều này có thể bao gồm các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, đầu tư vào các ngành công nghiệp chủ chốt, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện môi trường kinh doanh.
Dựa vào những đánh giá này, chúng ta có thể đưa ra kết luận liệu năm 2020 có phải là một năm tăng trưởng tốt cho kinh tế Việt Nam hay không, và đồng thời xác định các phương hướng và chính sách cần thiết để đảm bảo phát triển bền vững trong tương lai.
Tăng trưởng kinh tế là một chỉ tiêu phản ánh quy mô tăng trưởng của một nền kinh tế tăng lên hay giảm đi qua từng năm đồng thời sẽ được tính theo sự gia tăng của GDP hoặc GDP bình quân đầu người trong một khoảng thời gian nhất định và sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Đồng thời sự gia tăng này còn được tính theo quy mơ và tốc độ quy mơ là tăng nhiều hay là ít cịn tốc độ sẽ mang lại kết quả là nhanh hay chậm.
<b>Khung lý thuyết về tăng trưởng kinh tế: </b>
<b>Tăng trưởng dựa trên vốn (capital-based growth) lý thuyết này cho rằng tăng</b>
trưởng kinh tế phụ thuộc vào sự tích lũy cũng như là sử dụng hiệu quả số vốn ( bao gồm luôn cả vốn vật chất và vốn nhân lực) lý thuyết này nhấn mạnh của việc đầu tư trong việc tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới cải thiện năng suất lao động và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>Tăng trưởng dựa trên lao động (labor-based Growth) lý thuyết này tập trung vào </b>
sự phát triển kinh tế qua vai trò của lao động. Các yếu tố như tăng cường giáo dục đào tạo và cải thiện lao động là chìa khóa để nâng cao năng suất lao động và phát triển kinh tế.
<b>Tăng trưởng dựa trên công nghệ (Technology-based Growth) các lý thuyết này tập</b>
trung vào vai trị của cơng nghệ tăng trưởng kinh tế. Sự tiến bộ trong công nghệ thông tin khoa học và các lĩnh vực số và kĩ thuật được coi là động lực chính đắng sau kinh tế bền vững.
<b>Tăng trưởng kinh tế dựa trên thị trường (Market-based Growth) lý thuyết này</b>
nhấn mạnh sự quan trọng của thị trường tự do và cạnh tranh khốc liệt và khuyến khích sự cạnh tranh đó trong việc phát triển kinh tế. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự sáng tạo tăng cường hiệu quả và tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới.
<b>Tăng trưởng dựa trên phát triển bền vững (Sustainable Growth) nhấn mạnh sự</b>
phát triển kinh tế nhưng không gây ra tổn thất đối với môi trường và xa hội. Điều này bao gồm việc quản lý tài nguyên giảm thiểu ô nhiễm và đảm bảo sự công bằng xã hội trong q trình phát triển.
<b>2.2 Mơ hình tăng trưởng kinh tế</b>
Trong lĩnh vực kinh tế, khái niệm mơ hình tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt vì nó làm sáng tỏ việc mở rộng sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế. Mơ hình này có thể được phân thành hai loại chính: mơ hình tăng trưởng kinh tế chiều rộng và mơ hình tăng trưởng kinh tế chiều sâu.
Mơ hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là một khuôn khổ làm sáng tỏ sự phát triển của một nền kinh tế thông qua việc khuếch đại năng lực sản xuất. Bằng cách ưu tiên tăng cường vốn, lao động và tài ngun thiên nhiên, mơ hình này cố gắng khuếch đại sản xuất, tạo cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho cộng đồng. Tuy nhiên, mặc dù mô hình này có thể tạo điều kiện cho việc mở rộng kinh tế nhanh chóng nhưng nó khơng phải khơng có những hạn chế, bao gồm cả khả năng trì trệ kinh tế và hiệu quả lao động dưới mức trung bình.
Mơ hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu ưu tiên nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất hơn là chỉ đơn thuần tăng quy mô sản xuất. Nó đặt trọng tâm vào việc nâng cao năng suất lao động và áp dụng công nghệ tiên tiến. Mục tiêu của mơ hình này là thúc đẩy một nền kinh tế cạnh tranh hơn và nâng cao phúc lợi của cá nhân. Tuy nhiên, điều
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">quan trọng cần lưu ý là mơ hình này có thể bỏ qua một số khía cạnh con người và xã hội nhất định, chẳng hạn như chăm sóc sức khỏe và giáo dục, những khía cạnh này cũng cần được tính đến.
Tóm lại, mỗi mơ hình đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng và việc lựa chọn mô hình phù hợp nhất phụ thuộc vào mục tiêu và hồn cảnh riêng biệt của từng quốc gia.
<b>2.3 Các mơ hình tăng trưởng kinh tế nổi tiếng2.3.1 Mơ hình tăng trưởng kinh tế Lewis:</b>
Trong mơ hình tăng trưởng kinh tế Lewis, nền kinh tế được chia thành nông thôn và thành thị. Ban đầu, đa số lao động làm việc trong nông nghiệp, khiến cho việc làm trở nên khan hiếm. Công nhân ở thành thị, tham gia vào sản xuất công nghiệp, tạo ra giá trị cao hơn và thu hút lao động từ nông thôn di cư vào thành phố. Điều này thúc đẩy sự mở rộng của doanh nghiệp và di cư từ nông thôn sang thành thị.
<b>2.3.2 Mơ hình tăng trưởng kinh tế Rostow:</b>
Rostow phân loại tăng trưởng kinh tế thành 5 giai đoạn, từ xã hội truyền thống đến giai đoạn tiêu thụ hàng loạt, dựa trên sự thay đổi trong sản xuất và tiêu dùng.
<b>2.3.3 Mơ hình tăng trưởng kinh tế Harrod-Domar:</b>
Mơ hình Harrod-Domar tập trung vào vai trị của đầu tư vốn trong tăng trưởng kinh tế. Nó cho rằng tăng trưởng ổn định phụ thuộc vào việc điều chỉnh cung cầu vốn.Các giả định chính của mơ hình bao gồm sự cân bằng giữa đầu tư và tiết kiệm, khơng có can thiệp từ chính phủ, và sự bình đẳng về kế tốn giữa tiết kiệm và đầu tư.
<b>2.3.4 Mơ hình tăng trưởng kinh tế Solow:</b>
Mơ hình Solow, được đặt theo tên nhà kinh tế Robert Solow, tập trung vào sự tăng trưởng kinh tế do thay đổi về cơng nghệ và dân số. Nó cho rằng sự tăng trưởng bền vững là kết quả của sự cân bằng giữa sản lượng, vốn và lao động. Mơ hình này cũng nói về sự quan trọng của tiến bộ công nghệ trong tăng trưởng kinh tế.
<b>2.3.5 Mơ hình tăng trưởng kinh tế Romer:</b>
Mơ hình tăng trưởng kinh tế Romer, do Paul Romer phát triển, tập trung vào vai trò của sự phát triển tri thức trong tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là qua việc tạo ra và áp dụng các ý tưởng mới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b> Mục tiêu và kết quả tăng trưởng GDP của nước ta từ năm 2018 đến</b>
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP năm 2020 đạt 2,91%, với quy mô 268,4 tỷ USD. Đây là mức tăng thấp nhất trong vòng 10 năm 2011-2020, song thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất trên thế giới.
Năm 2021, kinh tế Việt Nam đã cán đích với mức tăng trưởng GDP là 2,58%, thấp hơn 0,33% so với năm 2020. Đây là mức thấp nhất trong giai đoạn 2011-2021.
Năm 2022, cùng với cả thế giới, kinh tế Việt Nam phải đối đầu với những biến động khó lường, như: xung đột quân sự Nga - Ukraina dẫn đến nhiều hệ lụy ảnh hưởng tiêu cực đến các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam; việc đứt gãy chuỗi cung ứng tồn cầu do đại dịch Covid-19, sự tăng vọt của giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào… Song, do Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách phù hợp, đặc biệt là thực hiện khẩu hiệu “vừa chống dịch vừa phục hồi sản xuất, kinh doanh, thực hiện mục tiêu kép”, kinh tế đã có bước phục hồi tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; GDP tăng ở mức 8,02% so với năm 2021, cao nhất trong 10 năm qua; quy mô đạt 9.513 triệu tỷ đồng, tương đương 391,92 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2022 đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021; năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">hiện hành đạt 188,1 triệu đồng/lao động, tương đương 8.083 USD, tăng 622 USD so với năm 2021. Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2022 tăng 4,8% do trình độ của người lao động được cải thiện.
Năm 2023, nhìn chung đã đạt được những mục tiêu lớn cơ bản; kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức 4,16%, thị trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái cơ bản ổn định mặc dù thị trường tài chính, tiền tệ thế giới có nhiều biến động lớn; các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo. Theo Tổng cục Thống kê, GDP năm 2023 tăng 5,05% so với năm 2022, cao hơn tốc độ tăng của năm 2020 và 2021 - thời điểm chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý I các năm 2020-2023
Thứ trưởng Trần Quốc Phương thông tin, tại Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XV, nghị quyết của Quốc hội đề ra mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2024 là 6-6,5%, trên tinh thần quán triệt vững các kết luận của Trung ương Đảng, cũng như trên cơ sở phân tích cụ thể các thuận lợi, khó khăn và khả năng đạt được mục tiêu năm 2024.
<b>3.1.1 Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản</b>
Năm 2020, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu và sản phẩm tôm tăng khá đã đưa tốc độ tăng của khu vực này đạt 2,68%, cao hơn năm 2019 (năm 2019 là 2,01%). Mặc dù thẻ vàng EC trong khai thác thủy sản chưa được gỡ bỏ và tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhưng kết quả tăng trưởng của khu vực này rất khả quan với sự nỗ lực đổi mới cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 2,55% (tăng hơn năm 2019 là 1,64%); ngành lâm nghiệp tăng 2,82% (giảm so với năm 2019 là 2,16%) và ngành thủy sản tăng 3,08% (giảm so với năm 2019 là 3,22%).
Năm 2021, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp 13,97 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế; kết quả hoạt động của ngành nơng nghiệp đã thể hiện rõ vai trị “trụ đỡ” của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện an sinh xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và tình hình thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng.
Năm 2022, ngành nơng, lâm thủy sản tiếp tục tăng mạnh 3,36%, đóng góp 5,11 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế. Riêng ngành nơng nghiệp tăng 2,88%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm; ngành lâm nghiệp tăng 6,13%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,43%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Năm 2023, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản duy trì ở mức tăng khá và có nhiều ứng dụng cơng nghệ cao. Trong đó, ngành nơng nghiệp tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,34 điểm phần trăm; ngành lâm nghiệp tăng 3,74%, nhưng do tỷ trọng của ngành này thấp hơn, nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3.71%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu, nuôi trồng thủy sản đạt tăng trưởng tích cực.
Giá trị tăng thêm ngành nơng nghiệp quý I/2024 tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4,08% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,46%, đóng góp 0,08 điểm phần trăm.
<b> 3.1.2 Ngành công nghiệp và xây dựng</b>
Năm 2020, ngành công nghiệp và xây dựng đạt tốc độ cao nhất với 3,98%, đóng góp 1,2 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trị chủ chốt, dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%, đóng góp 1,25 điểm phần trăm. Chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành, như: sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu; sản xuất kim loại, sản xuất than cốc; sản phẩm dầu mỏ tinh chế; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng với tốc độ tương ứng là 27,1%, 14,4%, 11,4% và 11,3%, góp phần đưa ngành sản xuất chế biến, chế tạo tăng trưởng khả quan trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát mạnh, làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu.
Năm 2021, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp là 4,82% so với năm 2020; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,37%, đóng góp 1,67 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; chỉ số tiêu thụ tồn ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%.
Năm 2022, ngành công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,1%, đóng góp 2,09 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,45%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,05%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm; ngành khai khống tăng 5,19%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm; ngành xây dựng tăng 8,17%, đóng góp 0,59 điểm phần trăm.
Năm 2023, ngành cơng nghiệp và xây dựng tăng 3,74%, đóng góp 28,87%. Tuy nhiên, trong khu vực này, ngành cơng nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm. Giá trị tăng thêm tồn ngành cơng nghiệp chỉ với mức 3,02% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1 điểm phần trăm vào mức tăng tổng
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">giá trị tăng thêm của tồn nền kinh tế. Trong đó, cơng nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,62%, đóng góp 0,93%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý chất thải, nước thải tăng 5,18%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành xây dựng tăng 7,06%, đóng góp 0,51 điểm phần trăm.
Giá trị tăng thêm tồn ngành cơng nghiệp quý I/2024 tăng 6,18% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 0,73%), đóng góp 2,02 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của tồn nền kinh tế. Ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,98%, đóng góp 1,73 điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm.Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 5,84% (sản lượng khai thác than giảm 0,3% và dầu mỏ thô khai thác giảm 3,2%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 6,83%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 1,87% của quý I/2023, đóng góp 0,4 điểm phần trăm.
<b>3.1.3 Ngành thương mại, dịch vụ</b>
Năm 2020, ngành dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm giảm 1,22% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, sau đó đã có sự phục hồi với tốc độ tăng 6 tháng cuối năm đạt 6,2% đưa lĩnh vực thương mại trong nước cả năm tăng 2,6%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một số ngành dịch vụ thị trường như bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp ,46%; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88% làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68% làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
Xuất khẩu hàng hóa đạt ở mức cao kỷ lục với kim ngạch đạt 19,1 tỷ USD, cán cân thương mại duy trì xuất siêu 5 năm liền. Đặc biệt là xuất khẩu hàng hóa nơng sản tăng mạnh trong bối cảnh đại dịch Covid-19; kim ngạch xuất khẩu gạo lần đầu tiên đạt 3 tỷ USD (tăng 9,3% so với năm 2019); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 12. 323,3 tỷ USD, tăng 15,7%. Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản lại có xu hướng chững lại, chỉ đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,8% so với năm 2019.
Năm 2021, ngành hương mại, dịch vụ tăng 1,22%, đóng góp 22,23%. Tính chung, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 4.789 nghìn tỷ đồng, giảm 3,8% so với năm 2020, nếu loại trừ yếu tố giá 6,2% (năm 2020 giảm 3%); vận tải hành khách đạt trên 2.387 lượt, giảm 33% so với năm 2020 và luân chuyển 94,7 tỷ lượt khách.km, giảm 42%; vận tải hàng hóa đạt 1.620 triệu tấn, giảm 8,7% so với năm 2020 và luân chuyển 333, 4 tỷ tấn/km, giảm 1,8%...
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Bên cạnh đó, năm 2021, kim ngạch nhập khẩu đạt 332,25 tỷ USD tăng 26,5% so với năm 2020, có 47 mặt hàng đạt giá trị nhập khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 94,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 4 tỷ USD.
Năm 2022, ngành thương mại, dịch vụ khôi phục và phát triển mạnh với tốc độ đạt 9,99%, cao nhất trong giai đoạn 2011-2022. Một số ngành dịch vụ thị trường tăng cao, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế, như: ngành bán buôn, bán lẻ tăng 10,15% so với năm 2021, đóng góp 0,97 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi tăng 11,93%, đóng góp 0,69 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 40,61%, đóng góp 0.79 điểm phần trăm...
Năm 2023, các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng khá tốt, đóng góp tích cực vào tăng trưởng ngành dịch vụ với mức tăng 6,82% so với năm trước. Trong khu vực này, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, như: tổng bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tăng 8,82% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0.86 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 9,18% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0.55 điểm phần trăm...
Đáng chú ý, năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 355,5 tỷ USD (giảm 4,4% so với năm 2022), mức giảm này được thu hẹp khá nhiều so với 12% trong 6 tháng đầu năm 2023. Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 28 tỷ USD (tăng hơn mức xuất siêu năm trước 15,1 tỷ USD).
Quý I/2024,trong ngành dịch vụ, các hoạt động thương mại diễn ra sôi động, du lịch phục hồi mạnh mẽ nhờ hiệu quả của chính sách thị thực thuận lợi và chương trình kích cầu du lịch, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chủ lực tăng cao.
Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế quý I năm nay như sau: Ngành vận tải kho bãi tăng 10,58% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 8,34%, đóng góp 0,24 điểm phần trăm.Ngành bán bn và bán lẻ tăng 6,94%, đóng góp 0,76 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5,2%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm; ngành thơng tin và truyền thơng tăng 4,14%, đóng góp 0,28 điểm phần trăm.
<b>3.2 Các nguyên nhân tăng trưởng kinh tếVề đầu tư vào cơ sở hạ tầng:</b>
Việt Nam đã đầu tư khoảng 6% GDP vào cơ sở hạ tầng - một trong những mức đầu tư cao nhất trong khu vực ASEAN.
</div>