Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Luận văn “pháp luật về thu bhxh và thực tiễn thực hiện tại huyện thanh ba, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.39 KB, 109 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

1.1 Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội...8 1.1.1 Khái niệm bảo hiểm xã hội...8 1.1.2 Khái niệm chế độ Bảo hiểm xã hội.

1.1.3 Đặc điểm chế độ của hệ thống bảo hiểm xã hội...21 1.2 Nội dung pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội

1.2.1. Đối tượng áp dụng 1.2.2. Nguồn hình thành

1.2.3. Các chế độ Bảo hiểm xã hội

1.3 Vai trò của Pháp luật về chế độ Bảo hiểm xã hội 1.4 Cơ sở hình thành chế độ Bảo hiểm xã hội

1.5 Nguyên tắc pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI BẢO XÃ HỘI HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ 30

2.1 Giới thiệu chung về cơ quan bảo hiểm huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ...30 2.1.1 Đặc điểm kinh tế xã hội huyện Thanh Ba...30 2.1.2 Khái quát chung về BHXH huyện Thanh Ba...30 2.2 Pháp luật về Bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thực hiện tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ

2.2.1 Thực trạng thực hiện các chế độ Bảo hiểm xã hội 2.2.2 Thực trạng công tác quản lý thu

2.2.3 Thực trạng công tác quản lý quỹ

2.2.4 Công tác thanh kiểm tra và xử lý vi phạm

2.3 Đánh giá chung tình hình thực hiện thu bảo hiểm tại BHXH huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ...68

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

2.3.1 Những mặt đạt được...68 2.3.2 Những tồn tại và nguyên nhân...71 Kết luận chương 2 76

CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ 77

3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội...77 3.2 Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật BHXH tại BHXH huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ...78 3.2.1 Hoàn thiện pháp luật phù hợp với chính sách và định hướng phát triển BHXH của Đảng và Nhà nước

3.2.2 Cải cách thủ tục hành chính, hồn thiện quy trình thu bảo hiểm xã hội81 3.2.3 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hậu kiểm

3.2.4 Tăng cường tuyên truyền, phát triển người tham gia BHXH hướng tới bao phủ BHXH

3.2.5 Tăng tính hấp dẫn của chính sách BHXH tự nguyện...84 3.2.6 Kiện toàn bộ máy quản lý thu, nâng cao trình độ nguồn nhân lực...90 3.2.7 Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ công tác thu, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thu BHXH...94 Kết luận chương 3 96

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ

<small>Hình 1. 1 Sơ đồ mơ hình tổng quan về phân cấp quản lý thu BHXH...</small>

Hình 2. 1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của BHXH huyện Thanh Ba...35

Hình 2. 2 Cơ cấu đơn vị SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc theo khối tại BHXH huyện

Hình 2. 5 Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý thu của BHXH...64

Hình 2. 6 Quy trình thu tại BHXH huyện...

Hình 2. 7 Tình hình nợ đọng tiền BHXH giai đoạn 2014-2018...66

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>CHƯƠNG 1</b>

<b>DANH MỤC CÁC BẢNG</b>

Bảng 2. 1 Kết quả hoạt động của BHXH huyện Thanh Ba giai đoạn 2018-2020... Bảng 2. 2 Tổng hợp đơn vị tham gia BHXH bắt buộc theo khối tại huyện Thanh Ba giai đoạn 2018-2020...46 Bảng 2. 3 Tổng hợp đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo khối tại huyện Thanh Ba giai đoạn 2018-2020...50 Bảng 2. 4 Tổng quỹ tiền lương đóng BHXH bắt buộc (2018-2020)...57 Bảng 2. 5 Số thu BHXH bắt buộc trong các lĩnh vực (2018-2020)...60 Bảng 2. 6 Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Thanh Ba giai đoạn 2018-2020...62 Bảng 2. 7 Kết quả công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm giai đoạn 2018-2020...67

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT</b>

BHTN Bảo hiểm thất nghiệp

DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài</b>

An sinh xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Chế độ an sinh xã hội có liên quan đến quyền lợi và sự phát triển của con người, bởi con người chính là mục tiêu “hạt nhân” của phát triển bền vững. Ngày nay, an sinh xã hội được coi là công cụ để xây dựng một xã hội phát triển, công bằng và văn minh. Nó cũng thể hiện quyền của con người, có thể đảm bảo sự đồn kết, thống nhất và tương trợ cộng đồng đối với những rủi do trong cuộc sống. Giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển.

<b>Ở Việt Nam, Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách quan trọng trong hệ</b>

thống các chính sách của Đảng và Nhà nước ta. BHXH đóng vai trị là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách BHXH, chăm sóc tốt cho người dân sẽ góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị, từ đó đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Ở nước ta, hoạt động BHXH là hoạt động do nhà nước tổ chức thực hiện và quản lý, khơng vì mục đích sinh lợi. Vì vậy quản lý thu BHXH là một nội dung quan trọng trong quá trình thực thi chính sách BHXH, có thể nói đây là xương sống của ngành BHXH. Vì vậy, cơng tác quản lý thu BHXH tốt là cơ sở để đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.

Thực tiễn cơng tác thu của BHXH Việt Nam nói chung và BHXH các tỉnh, địa phương nói riêng, trong thời gian qua cho thấy mặc dù chính sách BHXH đã có nhiều sửa đổi, bổ sung. Quy trình tổ chức thực hiện thu BHXH đã có nhiều cải cách, cải tiến rõ rệt, song hiệu quả công tác thu BHXH chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, cần phải có sự nỗ lực hơn nữa.

Là một bộ phận trong hệ thống BHXH Việt Nam, BHXH huyện Thanh Ba,tỉnh Phú Thọ đang từng bước cố gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

mình để góp phần vào sự nghiệp chung của ngành BHXH. Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tỉnh Phú Thọ nói chung và huyện Thanh Ba nói riêng đang có nhiều chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngồi, khuyến khích doanh nghiệp trên địa bàn phát triển, vì vậy số đơn vị và số lao động tham gia BHXH ngày càng tăng, điều này làm cho công tác quản lý thu BHXH ở huyện Thanh Ba gặp khơng ít khó khăn, thách thức. Nhiều doanh nghiệp tìm mọi cách để trốn đóng BHXH hoặc tham gia khơng đầy đủ cho người lao động. Nhiều doanh nghiệp tham gia mang tính đối phó với tổ chức BHXH, đóng BHXH cho người lao động ở mức thấp (bằng mức lương tối thiểu vùng). bên cạnh đó một số đơn vị cố tình trây ỳ, khơng nộp tiền BHXH để lạm dụng quỹ BHXH, số tiền nộp BHXH được để lại để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Điều này đã ảnh hưởng đến nguồn thu của cơ quan BHXH qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ BHXH cho người lao động.

<i><b>Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về thu</b></i>

<i><b>BHXH và thực tiễn thực hiện tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ” là luận văn</b></i>

thạc sỹ của mình.

<b>2.Tình hình nghiên cứu</b>

Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan lĩnh vực cơng tác quản lý thu BHXH tại một số địa phương, có thể đưa ra một số cơng trình tiêu biểu:

Tác giả Nguyễn Quốc Cương đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ Luật

<i>kinh tế với đề tài: “Pháp luật về chế độ Bảo hiểm xã hội” tại Trường Đại học</i>

Luật thuộc Đại học Huế năm 2018. Đề tài luận văn nghiên cứu những cơ sở lýluận về pháp luật bảo hiểm xã hội ở Việt Nam nói chung và quy định cụ thể vềchế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam nói riêng. Qua đó, nhận xét, phân tích,hướng đến việc áp dụng trên thực tiễn các quy định của pháp luật về chế độ bảohiểm xã hội ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hồnthiện pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độbảo hiểm xã hội ở Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Tác giả Nguyễn Thị La Giang đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ Luật

<i>học với đề tài: “ Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn tại Hà Nội”</i>

tại Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2015. Luận văn bám sát các chính sách an sinh xã hội, Bảo hiểm xã hội trong các văn kiện của Đảng, hiến pháp mới để luận giải các vấn đề lý luận, thực tiễn về Luật Bảo hiểm xã hội. Phân tích thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Hà Nội, qua đó tìm ra những mặt đạt được và tồn tại cũng như các nguyên nhân của những tồn tại đó, Từ đó đề ra phương hướng, giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm xã hội tại Việt Nam

Tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung đã bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ

<i>chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính với đề tài: “Pháp luật về Bảohiểm xã hội từ thực tiễn tại thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên” tại Học viện</i>

hành chính Quốc gia năm 2017. Luận văn phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên, nhắm đưa ra những nhận định, đánh giá thực trạng của Pháp luật về Bảo hiểm xã hội trên địa bàn thị xã, so sánh về đối tượng Bảo hiểm xã hội, tình hình quản lý Thu, chi Bảo hiểm xã hội, chấp hành, áp dụng, sử dụng pháp luật Bảo hiểm xã hội qua các năm để có phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật trên địa bàn thị xã Sơng Cơng, tỉnh Thái Ngun.

Có thể nói đã có nhiều đề tài luận án, luận văn nghiên cứu về Pháp luật bảo hiểm xã hội, tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề này trên địa bàn huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

<b>3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn</b>

<i><b>3.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn</b></i>

Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện các quy định củaPháp luật về Bảo hiểm xã hội tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ từ đó đề xuấtnhững giải pháp nhằm hồn thiện và tổ chức thực hiện Pháp luật về Bảo hiểmxã hội trong giai đoạn hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i><b>3.2. Câu hỏi nghiên cứu của luận văn</b></i>

<i>Một là, làm rõ khái niệm, phân tích các đặc điểm, cơ chế, nội dung, chủ</i>

thể, biện pháp thực hiện các quy định của Pháp luật về Bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

<i>Hai là, phân tích, đánh giá kết quả đã đạt được, những hạn chế của việc</i>

thực hiện các quy định của Pháp luật về Bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

<i>Ba là, nghiên cứu phân tích các quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ</i>

thể có tính khả thi nhằm thực hiện các quy định của Pháp luật về Bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài</b>

<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu</b></i>

Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào các nội dung sau: Thực tiễn thực hiện pháp luật BHXH tại huyện Thanh Ba và những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện.

Giải pháp thực hiện pháp luật BHXH tại BHXH huyện Thanh Ba

<i><b>4.2. Phạm vi nghiên cứu</b></i>

Phạm vi về nội dung:

Các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật BHXH.

Đề tài nghiên cứu pháp luật bảo hiểm và những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả của công tác này.

Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện pháp luật BHXH tại BHXH huyện Thanh Ba.

Về mặt thời gian: Đề tài khảo sát thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm trong giai đoạn 2018-2020 tại BHXH huyện Thanh Ba để phân tích đánh giá và đưa ra các giải pháp cho giai đoạn 2021-2026.

<b>5. Nội dung và phương pháp nghiên cứu.</b>

<b>5.1. Nội dung nghiên cứu và các chỉ tiêu khảo sát</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Thông qua số liệu về thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội trong giai đoạn 2018-2020 tại BHXH huyện Thanh Ba, đề tài đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện pháp luật về BHXH.

<i><b>5.2. Phương pháp nghiên cứu và thu thập thông tin, số liệu</b></i>

Với thời gian nghiên cứu trong 3 năm, số liệu cần phân tích, đánh giá lớn, trên nhiều khía cạnh về pháp luật BHXH. Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp để có cái nhìn tổng quát về việc thực hiện pháp luật BHXH trên địa bàn huyện Thanh Ba, từ đó tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện đó.

<i><b>a) Chọn mẫu nghiên cứu </b></i>

Mẫu nghiên cứu của đề tài là báo cáo tình hình thu, chi, giải quyết chế độ chính sách trong 3 năm 2018, 2019, 2020 của bảo hiểm xã hội huyện Thanh Ba. Trong đó bao gồm tồn bộ số liệu thu của tất cả các đơn vị trên địa bàn. Do đề tài nghiên cứu về pháp luật BHXH và việc thực hiện pháp luật BHXH nên số liệu cần phải là số liệu chi tiết đến từng đơn vị để có cái nhìn tổng thể, cũng như chi tiết nhất đảm bảo cho việc đánh giá được khách quan.

Ngoài ra luận văn tham khảo một số tài liệu hội nghị và báo cáo của BHXH Việt Nam và BHXH tỉnh Phú Thọ.

<i><b>b) Công cụ nghiên cứu</b></i>

Luận văn chủ yếu sử dụng công cụ nghiên cứu là các phần mềm EXCEL, để phân tích số liệu và đưa ra đánh giá.

<i><b>c) Thu thập dữ liệu</b></i>

Đề tài thu thập số liệu trong khoảng thời gian 3 năm từ 2018 đến 2020 về việc thực hiện pháp luật về BHXH trên địa bàn huyện Thanh Ba:

- Dữ liệu thứ cấp

+ Báo cáo tình hình thu năm 2018, 2019, 2020 (mẫu B02a) của BHXH huyện Thanh Ba

+ Bảo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ cơng tác năm 2018, 2019, 2020;phương hướng nhiệm vụ năm tiếp theo của BHXH huyện Thanh Ba.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

+ Các tài liệu hội nghị, báo cáo của BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh Phú Thọ và các ban ngành liên quan.

- Dữ liệu sơ cấp

Đối tượng điều tra, phỏng vấn là người thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH và người thụ hưởng chính sách này trên địa bàn huyện. Nội dung điều tra là sự đánh giá của người thực hiện và người tham gia về tình hình thực hiện luật BHXH và kỳ vọng của họ về chính sách này.

<i><b>5.3. Xử lý và phân tích dữ liệu</b></i>

Sau khi thu thập số liệu, tác giả xử dụng công cụ Excel để tiến hành xử lý và phân tích dữ liệu. Dữ liệu thu thập là báo cáo năm của cơ quan BHXH huyện đã quyết tốn tài chính nên có thể khẳng định về độ sạch và mức độ tin cậy cao của dữ liệu thu thập.

Đối với thông tin định lượng, tác giả sử dụng các phương pháp toán học để xác định các tỷ trọng của từng lĩnh vực trong tổng mức độ ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật BHXH, xác định biến động tăng, giảm qua từng năm để đánh giá xu hướng.

Do đề tài nghiên cứu lĩnh vực về chính sách luật nên sử dụng chủ yếu phương pháp thống kê kinh tế, phân tích kinh tế để phân loại, so sánh, phân tích mức độ, động thái của thông tin, các chỉ tiêu đưa ra đánh giá như: số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân, tỷ số...

Căn cứ dữ liệu đã xử lý tác giả sử dụng các phương pháp như: phương pháp thống kê mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp phân tổ thống kê, phương pháp đánh giá để đưa ra các nhận định, đánh giá về bản chất việc thực hiện pháp luật trên địa bàn huyện, từ đó đưa ra cái nhìn tổng quan về chính sách pháp luật BHXH cũng như việc thực hiện chính sách đó.

<b>6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn</b>

<i><b>6.1. Về phương diện lý luận</b></i>

Góp phần hệ thống hóa và cập nhật những cơ sở lý luận về BHXH và thực hiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

pháp luật BHXH. Những nghiên cứu này có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu chuyên sâu, giảng dạy về pháp luật BHXH trong giai đoạn hiện nay.

<i><b>6.2.Về phương diện thực tiễn</b></i>

Những phân tích đánh giá và giải pháp đề xuất là những tham khảo hữu ích, có giá trị gợi mở trong thực hiện pháp luật BHXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

<b>7. Cấu trúc dự kiến của luận văn</b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cấu trúc với 3 chương nội dung chính sau:

<b>Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢOHIỂM XÃ HỘI</b>

<b>Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰCHIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI HUYỆN THANH BA, TỈNHPHÚ THỌ</b>

<b>Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂMXÃ HỘI TẠI HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ.</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂMXÃ HỘI</b>

<b>2.1Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội</b>

<i><b>2.1.1 Khái niệm về bảo hiểm xã hội</b></i>

<i>2.1.1.1 Khái niệm</i>

Mầm móng BHXH đã xuất phát từ rất lâu, nhất là khi nền kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển, việc thuê mướn nhân công trở lên phổ biến. Thời kỳ đầu, các ông chủ, người sử dụng lao động chỉ cam kết trả tiền lương, tiền công, thù lao cho người lao động chứ không chịu bất kỳ trách nhiệm gì liên quan đến các rủi ro trong cuộc sống cũng như trong lao động đối với người lao động. Hiện tượng bóc lột sức lao động và đối xử mất công bằng diễn ra thường xuyên như: kéo dài thời gian làm việc, cường độ lao động tăng cao nhưng tiền công trả cho người lao động, người thợ lại rất thấp; Hiện tượng ốm đau, tai nạn lao động xảy ra phổ biến. Với mức tiền công nhận được như vậy người lao động không đủ đảm bảo trang trải cho cuộc sống của họ cũng như gia đình họ, đặc biệt khi gặp phải các rủi ro trong cuộc sống. Thêm vào đó, nhà nước cũng như giới chủ, người sử dụng lao động không hề quan tâm hay giúp đỡ họ. Đứng trước tình cảnh đó, giai cấp cơng nhân đã liên hợp lại với nhau để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau; lập ra các quỹ cứu trợ người ốm, người bị tai nạn; lập các tổ chức tương tế và vận động mọi người tham gia; đấu tranh tự phát với giới chủ, người sử dụng lao động để: đòi tăng lương giảm giờ làm; thành lập các tổ chức cơng đồn và sau này là đấu tranh có tổ chức. Mâu thuẫn giữa giới chủ và thợ ngày càng trầm trọng và sâu sắc. Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp điều hòa mâu thuẫn và thành lập một quỹ chung bắt buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng khi tham gia vào quá trình lao động. Ngồi nguồn đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động Quỹ cịn có sự tham gia đóng góp bổ sung từ ngân sách Nhà nứơc (đây được coi là cơ chế 3 bên). Nguồn quỹ này nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi không may gặp phải những rủi ro, biến cố bất lợi trong cuộc sống. Chính nhờ nguồn quỹ và các chính sách an sinh xã hội này mà cuộc sống của người lao động ngày càng được đảm bảo ổn định, giới chủ,

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

người sử dụng lao động cũng có lợi và được bảo vệ, tránh được những xáo trộn trong sản xuất kinh doanh. Mục đích thành lập và sử dụng quỹ này mang tính chất nhân văn cao cả, tạo sự đồn kết, gắn bó, san sẻ trong cộng đồng vì mục đích chung của tồn xã hội. Vì vậy, nguồn quỹ an sinh xã hội được tạo lập và ngày càng phát triển một cách nhanh chóng trên tồn thế giới. Đó chính là nguồn gốc sự ra đời của bảo hiểm xã hội.

Ở nước ta, BHXH được tạo lập ngay từ những ngày đầu thành lập nước và luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Sau cuộc chiến tranh chống đế quốc, thực dân gần một thế kỷ giành độc lập giải phóng dân tộc, khi bắt tay vào cơng cuộc xây dựng lại đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến vấn đề BHXH và khẳng định BHXH là một trong những chính sách cơ bản đối với NLĐ. Năm 1941, chính sách BHXH đã được Bác đề cập một cách khá toàn diện, với việc ký các Sắc lệnh: số 54 (03/11/1945) quy định điều kiện về hưu cho công chức các ngạch; số 58 (10/11/1945) về việc nghỉ gia hạn không lương cho công chức tất cả các ngạch; số 74(17/12/1945) quy định chế độ hưu cho các nhân viên, công chức mắc bệnh lao, bệnh phong phải nghỉ việc dài ngày. Quan điểm về BHXH cũng đã được Đảng và Nhà nước xây dựng đưa vào Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Tại Điều

<i>32 Hiến pháp 1959 quy định: "Người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu,</i>

<i>bệnh tật hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội,cứu tế và y tế để đảm bảo cho mọi người được hưởng quyền đó".</i>

Từ năm 1995, cơ chế quản lý BHXH được đổi mới tồn diện bằng việc Chính phủ ra Nghị định số 12/CP ban hành Điều lệ BHXH và đến năm 2006 Luật BHXH số 71/2006/QH11 đã được Quốc hội thơng qua tại kỳ họp thứ 9 khóa 11 ngày 29/06/2006, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Sau nhiều lần điều chỉnh, sửa đổi Luật BHXH cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngày 20 tháng 11 năm 2014, tại kỳ họp thứ 8 khóa 13, Quốc hội đã thơng qua Luật BHXH số 58/2014/QH13, có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm 2016. Đây là Luật BHXH chính thức hiện nay đang được Nhà nước áp dụng và thực hiện các chế độ chính sách liên quan người lao động.

Ở các khía cạnh khác nhau, khái niệm về BHXH được tiếp cận dưới những góc độ khác nhau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Dưới góc độ Pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ quyền lợi người lao động, sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động (hưu) hoặc chết theo quy định của pháp luật.

Dưới góc độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách an sinh xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã hội”, góp phần đảm bảo an tồn xã hội, ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát triển bền vững của một quốc gia.

Dưới góc độ quản lý: BHXH là công cụ quản lý của Nhà nước để điều chỉnh mối quan hệ kinh tế giữa NLĐ, người sử dụng lao động (NSDLĐ) và Nhà nước; thực hiện quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các thành viên, thành phần trong xã hội.

Dưới góc độ tài chính: BHXH được định nghĩa là quá trình thành lập và sử dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng những NLĐ, có sự bảo trợ, hỗ trợ của Nhà nước, để san sẻ rủi ro, đảm bảo thu nhập cho họ và gia đình trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật.[1]

Như đã nêu ở trên, BHXH là một khía cạnh của xã hội có lịch sử lâu đời, qua q trình phát triển đã có rất nhiều sự thay đổi về chất với nhiều mơ hình phong phú, được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở những giác độ khác nhau với những quan điểm khác nhau, khái niệm về BHXH cũng như cách triển khai thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến BHXH sẽ khác nhau. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng

<i>quát và chung nhất, khái niệm về BHXH được hiểu là: BHXH là sự tổ chức bảo đảm</i>

<i>bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảmthu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp,tuổi già, tử tuất, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đónggóp của các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật nhằmđảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phầnđảm bảo an tồn xã hội.[2]</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i>Ở Việt Nam, khái niệm BHXH cũng được khái quát một cách đầy đủ và rõ nét</i>

trong Luật BHXH số 58/2014/QH13 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua

<i>ngày 20 tháng 11 năm 2014 như sau: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc</i>

<i>bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập doốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết,trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.[3]</i>

<i>2.1.1.2 Phân loại</i>

Luật BHXH số 58/2014/QH13 quy định có 03 loại hình BHXH: Bảo hiểm xã hội bắt buộc, Bảo hiểm xã hội tự nguyện và Bảo hiểm thất nghiệp:

- Bảo hiểm xã hội bắt buộc: Là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn hình thức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.

- Bảo hiểm thất nghiệp: Là loại hình áp dụng bắt buộc đối với người lao động là công dân việt nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

<i>2.1.1.3 Bản chất của bảo hiểm xã hội.</i>

BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém khơng thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Thực chất BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi ro xã hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thơng qua q trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết… Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu nhập của quá trình làm việc và q trình khơng làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người sinh đẻ (nữ giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp…

Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thoả mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội nên BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đơng bù cho số ít”.

Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH khơng tách rời mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.

Như vậy BHXH khơng phải là loại hình bảo hiểm cá nhân hay cá nhân tự bảo hiểm mà nó là sự bảo hiểm đặt trong những mối quan hệ nhất định trong cộng đồng,

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

BHXH không thể tách khỏi một chế độ chính trị nhất định và phải dựa trên nền kinh tế cụ thể. Nó thể hiện những bản chất cơ bản sau:

<i><b>Bản chất kinh tế của BHXH: Sự tồn tại của rủi ro đối với thu nhập của NLĐ là</b></i>

khó lường trước. Để bù đắp những khoản thu nhập bị mất đi khi sự cố xảy ra nếu khơng tham gia BHXH thì cách cơ bản nhất là phải tích luỹ cá nhân. Tuy nhiên, cách dự trữ cá nhân có nhiều hạn chế, bởi vì nếu địi hỏi phải dự trữ lớn ngay một lúc thì sẽ rất khó khăn, hơn nữa nhiều lao động khơng có khả năng. Cịn nếu tích luỹ dần thì khi rủi ro xảy ra sớm, mức độ thiệt hại lớn thì khơng đủ nguồn tài chính để bù đắp, trang trải phần thu nhập bị mất. Nhưng nếu thông qua BHXH, người lao động chỉ cần đóng góp hàng tháng một tỷ lệ nhỏ phần trăm so với tiền lương của mình cùng với sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước để tạo ra một quỹ BHXH, quỹ này là tập hợp của số đông người lao động tham gia BHXH để bù đắp cho số ít người tham gia bị rủi ro.

Như vậy BHXH khơng phải là dịch vụ sản xuất mà nó là dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những khoản thu nhập bị mất của NLĐ khi gặp sự cố rủi ro trong cuộc sống.

<i><b>Bản chất xã hội của BHXH: BHXH là lĩnh vực thể hiện rõ nét nhất tính chất</b></i>

xã hội hố: Nhờ có BHXH khi NLĐ bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết làm cho thu nhập của họ bị mất hẳn hoặc giảm sút, họ sẽ được bù đắp lại một phần hoặc tất cả từ quỹ BHXH, mà quỹ này là do số đơng NLĐ đóng góp, cùng trách nhiệm của người SDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước. Khi rủi ro xảy ra bằng hình thức lấy số đơng bù số ít người bị rủi ro sẽ giúp khắc phục những khó khăn trong đời sống cá nhân của từng lao động.

Vậy có thể thấy rằng bản chất của BHXH là sự san sẻ rủi ro giữa tập thể NLĐ. Qua đó cũng thể hiện rõ trách nhiệm xã hội giữa người SDLĐ với NLĐ, giữa những NLĐ với nhau và sự quan tâm của Nhà nước, chính quyền hướng tới mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia.

<i><b>Bản chất pháp lý của BHXH: Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH được</b></i>

quy định, điều chỉnh thông qua bộ luật BHXH, các văn bản BHXH dưới luật hoặc phần quy định về BHXH ở bộ luật khác, do đó nó rằng buộc chặt chẽ trách nhiệm và

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

quyền lợi của các bên có liên quan và ở đây trách nhiệm lớn nhất của NLĐ và người SDLĐ là đóng phí BHXH cho cơ quan BHXH, quyền lợi lớn nhất của NLĐ là được chi trả BHXH khi có sự cố hoặc rủi ro xảy ra theo quy định của pháp luật.

Vậy, thực chất BHXH là bản cam kết giữa cơ quan BHXH, NSDLĐ và NLĐ về trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên thông qua các quy định của pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về BHXH. Ở nước ta, ngồi các chính sách cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, chính sách xố đói, giảm nghèo… BHXH được coi là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong chính sách an sinh xã hội của Nhà nước.

<i>2.1.1.4 Chức năng của bảo hiểm xã hội.</i>

BHXH được xem như là hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội nói chung do vậy BHXH có chức năng:

- Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động được bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động hoặc mất việc làm trong những điều kiện xác định. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì sở dĩ sức lao động của con người bị giới hạn bởi sức khoẻ và tuổi tác. Khi hội tụ đủ những điều kiện cần thiết họ sẽ được trợ cấp BHXH với mức hưởng, thời điểm và thời hạn hưởng theo quy định. Chức năng này quyết định việc xây dựng nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của ngành BHXH.

- Phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm góp phần thực hiện cơng bằng xã hội: Các bên tham gia BHXH phải đóng góp vào quỹ BHXH để hình thành quỹ tài chính tập trung. Trên cơ sở sử dụng quỹ BHXH tiến hành phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Việc phân phối thu nhập dựa trên quy luật lấy số đông bù số ít, lấy thời gian đi làm trong độ tuổi lao động bù đắp cho thời gian nghỉ việc khi hết độ tuổi lao động, giữa những người thu nhập cao và thấp, giữa người khoẻ mạnh và người ốm yêu... Như vậy BHXH đã thực hiện được chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang và chiều dọc. Tuy nhiên, việc phân phối lại thu nhập này phải được Nhà nước tính tốn, xác định cho hợp lý để đảm bảo công

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

bằng, an sinh xã hội. Do vậy, BHXH mang tính chất xã hội hóa cao hơn hẳn các loại hình BHXH khác đồng thời cũng thể hiện tính cơng bằng xã hội cao.

- Kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Với tâm lý khi còn khoẻ mạnh người lao động làm việc để được hưởng tiền lương, tiền công với sức lao động họ bỏ ra. Lúc bị ốm đau, bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động hoặc khi tuổi già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Nên BHXH chính là chỗ dựa đáng tin cậy để người lao động yên tâm gắn bó tận tình với cơng việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ tích cực tham gia lao động sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Với chức năng này BHXH được ví như một chiếc địn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân, cũng như năng suất lao động của xã hội.

- Tạo mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Trong lao động sản xuất, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động luôn tồn tại các mâu thuẫn nội tại về tiền lương, tiền công, thời gian làm việc, chế độ nghỉ ngơi... Chính vì vậy BHXH thực hiện chức năng điều hồ lợi ích giữa ba bên: NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Nhờ có BHXH mà các bên tham gia đều cảm thấy mình có lợi và được bảo vệ nên họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Từ đó làm giảm mâu thuẫn xã hội góp phần ổn định sản xuất, chính trị và phát triển kinh tế đất nước.

- BHXH còn thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc tham gia thực hiện các chính sách BHXH của NLĐ, NSDLĐ theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, góp phần ổn định xã hội.

<i>2.1.1.5 Vai trò của bảo hiểm xã hội</i>

BHXH ra đời và phát triển đã ngày càng khẳng định được vai trò của mình trên nhiều phương diện khác nhau trong thực tế cuộc sống cũng như trong phát triển kinh tế. Có thể khái qt vai trị của BHXH như sau:

Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia BHXH, những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường.

Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế xã hội. Để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản xuất… Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế xã hội.

Ba là, BHXH làm tăng mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, điều đó làm cho:

▪ Người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, trong lao động sản xuất. ▪ Người sử dụng lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH cũng thấy rõ trách nhiệm của mình đối với người lao động. Ngược lại khi cuộc sống của người lao động được đảm bảo, NLĐ sẽ yên tâm công tác, năng suất lao động sẽ cao hơn và giúp cho người sử dụng lao động phát triển doanh nghiệp một cách bền vững, tránh được những xáo trộn trọng sản xuất.

▪ Nhà nước vừa tham gia đóng góp, vừa điều hành hoạt động của quỹ BHXH, đảm bảo sự cơng bằng, bình đẳng, cho mọi đối tượng thụ hưởng…

Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước- người sử dụng lao động- người lao động, góp phần ổn định nền kinh tế xã hội.

Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Qũy BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Như vậy, xét trên cả phương diện, chi trả các chế độ BHXH cũng như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ BHXH đều góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, phân phối trong BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt gánh khoảng cách giữa những người giàu và người nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội.

Năm là, BHXH là trụ cột của hệ thống ASXH, góp phần điều tiết các chính sách, các chương trình ASXH của mỗi quốc gia. Khi BHXH phát triển, số đối tượng tham gia và hưởng BHXH được mở rộng sẽ góp phần nâng cao đời sống của người lao động nói riêng và dân cư nói chung, từ đó sẽ góp phần làm giảm số đối tượng được hưởng các chính sách ASXH khác như ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội và làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.

<b>Sáu là, ở Việt Nam, BHXH trực tiếp thể hiện vai trò, mục tiêu, lý tưởng, bản</b>

chất tốt đẹp của nền chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu, xây dựng một đất nước Việt nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

<i>2.1.1.6 Nguyên tắc của bảo hiểm xã hội</i>

Bảo hiểm xã hội hình thành và hoạt động với mục đích là an sinh xã hội khơng vì mục tiêu lợi nhuận nên BHXH hoạt động dựa theo những nguyên tắc cơ bản sau:

<i>a. Mọi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng trợ cấp BHXH:</i>

Đây là nguyên tắc góp phần tạo nên sự bình đẳng giữa những người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội và được Nhà nước bảo trợ. Vì vậy BHXH dần dần trở thành quyền cơ bản của người lao động, xét trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Ở Việt Nam, quyền tham gia và hưởng BHXH của người lao động đã được ghi nhận trong Hiến pháp (Điều 56) và Bộ luật lao động (Điều 7). Mọi người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế, các ngành nghề, địa bàn khác nhau, theo các hình thức khác nhau đều được tham gia và hưởng các chính sách BHXH. Phạm vi đối tượng tham gia BHXH khơng ngừng được mở rộng với các hình thức tham gia ngày càng phong phú, đa dạng đã thu hút hàng triệu người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, khuyến khích họ tự giác tham gia thực hiện quyền và

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

nghĩa vụ BHXH, tạo sự an tâm, tin tưởng trong cuộc sống và trong lao động, sản xuất, kinh doanh.

<i>b. Mức hưởng trợ cấp BHXH phải tương quan với mức đóng góp</i>

Bản chất của BHXH chính là hình thức phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm nên khi xác định mức hưởng trợ cấp BHXH cần phải có sự tính tốn một cách cơng bằng, hợp lý. Mức đóng khi tham gia BHXH sẽ là cơ sở quyết định trong việc xác định mức hưởng BHXH. Nếu người lao động đóng BHXH ở mức cao thì họ được hưởng ở mức cao, nếu người lao động đóng BHXH ở mức thấp thì sẽ hưởng ở mức thấp hơn. Tuy nhiên, do quỹ BHXH được thiết lập có sự can thiệp và bảo trợ của Nhà nước nên mức đóng BHXH bị khống chế ở mức trần nhất định. Điều này nhằm đảm bảo công bằng và không gây ảnh hưởng lớn tới hoạt động của Ngân sách nhà nước. Ngoài ra, mức hưởng BHXH còn phải dựa trên thời gian đóng bảo hiểm, đặc biệt là đối với các chế độ bảo hiểm dài hạn. Nhưng không phải người lao động đóng bảo hiểm bao nhiêu thì họ sẽ được hưởng bấy nhiêu mà BHXH còn thực hiện chức năng chia sẻ rủi ro trong cộng đồng nên trong tương quan với tiền lương, hệ thống BHXH thường phải thiết kế sao cho mức thu nhập được bảo hiểm trả không vượt quá, thậm chí phải thấp hơn mức lương khi người lao động đang làm việc. Mặt khác, sự chênh lệch đáng kể về thu nhập và mức hưởng BHXH sẽ khuyến khích người lao động tích cực lao động sản xuất, khơng ỷ lại hay lạm dụng chế độ bảo hiểm để

<i>nghỉ việc.</i>

Mức trợ cấp bảo hiểm cho người lao động phải được tính tốn, xác định một cách hợp lý trên cơ sở tương quan với rất nhiều yếu tố, trong đó mức đóng, thời gian đóng BHXH và sự chia sẻ là những yếu tố chủ chốt. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ là tiền đề đảm bảo cho tính hấp dẫn và phát triển bền vững của BHXH.

<i>c. Ngun tắc số đơng bù số ít:</i>

Trong cuộc sống, cũng như trong lao động, những sự cố rủi ro mất khả năng hay cơ hội lao động đối với người lao động là điều khó tránh khỏi, hơn nữa trên thực tế rủi ro xảy ra cho mọi người lại khơng giống nhau, cùng thời điểm có người phải đối mặt với nhiều rủi ro nhưng có người khơng phải đối mặt với rủi ro nào. Đây chính là

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

cơ sở để BHXH áp dụng nguyên tắc Lấy số đơng bù số ít khi tổ chức hoạt động. Nhờ có nguyên tắc này mà những người lao động khơng may gặp rủi ro có thể nhận được những khoản bồi hồn để khắc phục khó khăn lớn hơn rất nhiều so với những khoản phí mà họ đã đóng góp. Cũng nhờ có nguyên tắc này mà tính xã hội của BHXH được thể hiện rõ nét nhất, đó là xã hội, cộng đồng cùng chung tay đóng góp chia sẻ khó khăn, rủi ro cùng nhau.

Theo nguyên tắc này, BHXH muốn thực sự thành cơng, địi hỏi phải thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động tham gia. Càng đông người tham gia BHXH, mở rộng nhiều nội dung BHXH, thì gánh nặng đóng góp phí đối với từng người càng có cơ hội để giảm xuống. Ngược lại, khi người lao động gặp rủi ro, phần bồi hồn từ đó mà có điều kiện để tăng lên.

Có nhiều nguyên tắc để tổ chức hoạt động BHXH. Nhưng với hai nguyên tắc cơ bản nhất là bồi hồn và lấy số đơng bù số ít đã tạo ra sự khác biệt và sức sống mãnh liệt của BHXH để người lao động hoàn toàn yên tâm, nhờ cậy.

<i>d. Nhà nước thống nhất quản lý BHXH:</i>

Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở việc Nhà nước trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội thông qua việc ban hành pháp luật quy định các chế độ bảo hiểm xã hội, và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó.

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn, nó ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do vậy, Nhà nước luôn dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn mà quy định chính sách quốc gia về bảo hiểm xã hội cho phù hợp với thực tiễn của đất nước. Bên cạnh việc quy định chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương, Nhà nước khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.

Việc Nhà nước thống nhất tổ chức và quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội không phải là loại bỏ sự tham gia của quần chúng lao động. với tư cách là người đại diện cho tập thể những người lao động, cơng đồn trung ương được quyền tham gia với chính phủ trong các vấn đề : xây dựng điều lệ, thành lập hệ thống tổ chức bảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

hiểm xã hội, ban hành quy chế về tổ chức, hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội. Các công đoàn địa phương và cơ sở tham gia cùng với các cấp chính quyền và người sử dụng lao động trong việc thực hiện và giám sát việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội.

<i>e. Kết hợp hài hồ các lợi ích, các mục tiêu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hộicủa đất nước:</i>

BHXH là loại hình đặc biệt khác với các loại hình bảo hiểm thương mại, BHXH được xây dựng ngồi mục đích đảm bảo cuộc sống cũng như thu nhập cho người lao động cịn phải tính đến cả lợi ích chung, lợi ích cho người sử dụng lao động, phải kết hợp được với các mục tiêu phát triển chung của cả đất nước và phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của từng quốc gia.

Nếu kết hợp được hài hồ các lợi ích, mục tiêu đó sẽ giúp cho BHXH có điều kiện để tổ chức và phát triển thành công.

<i><b>2.1.2 Khái niệm chế độ bảo hiểm xã hội</b></i>

Các chế độ, chính sách BHXH, cũng như quyền và nghĩa vụ đối với người lao động đều được cụ thể hoá, chi tiết hoá thành các chế định, quy định, luật định nhưng phải đảm bảo tính chất nhất quán và khách quan, có như vậy mới thoả mãn mối quan hệ giữa ba bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã nêu công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH gồm chín chế độ sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

▪ Trợ cấp sinh đẻ (7) ▪ Trợ cấp khi tàn phế (8)

▪ Trợ cấp tiền tuất (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) (9)

Tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội, mỗi quốc gia có thể xây dựng cho mình một hệ thống chế độ BHXH riêng, tuy nhiên phải đảm bảo thực hiện được ít nhất 03 trong 09 chế độ nêu trên. Trong đó bắt buộc phải có một trong năm chế độ sau: (3); (4); (5); (8) và (9).

<i><b>2.1.3 Đặc điểm hệ thống của chế độ bảo hiểm xã hội</b></i>

Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn triển khai BHXH ở các nước trên thế giới cho thấy, hệ thống chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:

Hệ thống các chế độ BHXH được xây dựng và hoàn thiện theo các văn bản pháp luật của mỗi nước. Mặc dù các công ước quốc tế đã quy định những nội dung cơ bản cho từng chế độ song để đi vào thực tế cuộc sống thì nội dung mỗi chế độ cần phải được cụ thể hoá chi tiết cả về mục đích, đối tượng, điều kiện, mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH.

Hệ thống chế độ BHXH đảm bảo phân tán rủi ro, san sẻ tài chính giữa người lao động với người lao động, giữa người lao động với ngời sử dụng lao động và giữa những người sử dụng lao động với nhau. Đặc điểm này biểu hiện khá rõ giữa những người khoẻ mạnh với những người lao động bị ốm đau; giữa nam và nữ; giữa những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm dễ xảy ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp với những ngành nghề hoặc công việc bình thường; giữa những người lao động có cơng ăn việc làm và thu nhập cao với những người lao động không may bị thất nghiệp.

<b>1.2. Nội dung pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội</b>

<i><b>1.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội:</b></i>

Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội là công dân Việt Nam bao gồm: Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một cơng việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

dưới 12 tháng, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa đơn vị với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;

Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng (thực hiện từ 01/01/2018);

Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và viên chức;

Công nhân quốc phịng, cơng nhân cơng an, người làm cơng tác khác trong tổ chức cơ yếu (trường hợp BHXH Bộ Quốc phịng, BHXH Cơng an nhân dân bàn giao cho BHXH các tỉnh);

Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;

Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia BHXH bắt buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất (thực hiện từ 01/01/2016);

Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

Người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài quy định tại Khoản 4 Điều 123 Luật BHXH.

Người lao động là cơng dân nước ngồi vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp (thực hiện từ 01/01/2018).

Người sử dụng lao động tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm:

Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội -nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ.[5]

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Quản lý đối tượng tham gia BHXH là quản lý các đơn vị sử dụng lao động (người sử dụng lao động) thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo địa bàn chính quyền địa phương và thực hiện quản lý trên các phương diện sau:

- Quản lý danh sách lao động của từng đơn vị đủ điều kiện tham gia BHXH, danh sách được lập theo biểu mẫu của cơ quan BHXH và hàng năm phải theo dõi báo cáo tình hình tăng, giảm lao động của đơn vị.

- Quản lý mức lương, mức tiền cơng làm căn cứ đóng BHXH của người lao động theo HĐLĐ, mức lương này ln có sự thay đổi theo thời gian.

Quản lý mức thu của đơn vị sử dụng lao động đối với người lao động có đúng quy định khơng, tình hình nộp tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động hàng tháng, quý, năm có đủ và đúng hạn khơng.

<i><b>1.2.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH</b></i>

Có 5 nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội chính bao gồm: nguồn do người sử dụng lao động đóng; nguồn do người lao động đóng; nguồn do tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ; hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác:

<i><b>2.1.3.1 Nguồn do người sử dụng lao động đóng</b></i>

Người sử dụng lao động là lực lượng đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội chiếm tỷ trọng tương đối lớn và được thực hiện theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội. Mức đóng góp được tính dựa trên tỉ lệ % quỹ lương của doanh nghiệp, đơn vị chi cho người lao động.

Người sử dụng lao động tham gia đóng BHXH sẽ bớt đi gánh nặng khi không may người lao động của mình gặp rủi ro, tai nạn, ốm đau đồng thời góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội

1.2.2.1. Người lao động đóng

Thơng qua việc đóng góp một phần thu nhập vào quỹ bảo hiểm xã hội người lao động sẽ giúp giảm đi gánh nặng khi rủi ro xảy ra và đảm bảo khi về già có một nguồn thu nhập ổn định giúp trang trải cuộc sống.

Người lao động có đóng mới có hưởng, các chính sách lương hưu hoặc trợ cấp mai táng, thai sản… được hoạt động dựa trên nguồn quỹ BHXH.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<i><b>2.1.3.2Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ</b></i>

Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ là một trong những mục quan trọng giúp gia tăng quỹ bảo hiểm xã hội.

Đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu:

- Bảo đảm an tồn tuyệt đối cho nguồn quỹ, có khả năng thanh khoản cao. - Phải có lãi.

- Đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên việc chi trả các chế độ BHXH phát sinh.

<i><b>2.1.3.3Hỗ trợ của Nhà nước</b></i>

Khi quỹ bị thâm hụt do nhiều nguyên nhân, dẫn đến việc không đảm bảo cho việc thực hiện an sinh xã hội, khi này Nhà nước sẽ thực hiện hỗ trợ thêm vào quỹ BHXH để có thể tiếp tục thực hiện các chính sách an sinh.

<i><b>2.1.3.4Các nguồn thu hợp pháp khác</b></i>

<b>Các nguồn thu khác của quỹ bảo hiểm xã hội như:</b>

- Đóng góp ủng hộ của các cá nhân, tổ chức từ thiện trong và ngoài nước. - Khoản tiền thu nộp phạt từ các đơn vị chậm đóng BHXH.

- Khoản tiền phạt từ các đơn vị, cá nhân làm sai luật BHXH.

Theo quy định hiện nay người lao động sẽ đóng 5% lương tháng cho BHXH, 1% lương tháng cho bảo hiểm y tế. Người sử dụng lao động đóng 15% quỹ lương tháng cho BHXH và 2% quỹ lương tháng cho bảo hiểm y tế.

<i><b>1.2.3.</b></i> <b>Các chế độ Bảo hiểm xã hội</b>

Ở Việt Nam, Theo Luật BHXH hiện hành, nước ta thực hiện cả loại hình BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện. Trong đó:

- BHXH bắt buộc thực hiện với 5 chế độ sau đây:

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

- BHXH tự nguyện gồm 2 chế độ: ▪ Chế độ hưu trí

▪ Chế độ tử tuất

<i><b>a. Chế độ trợ cấp ốm đau</b></i>

Chế độ này đã giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi ốm đau. Việc thiết kế chế độ này như hiện hành đã tránh được những hiện tượng như lạm dụng và bình qn hóa khi xét trợ cấp. Đảm bảo cơng bằng giữa đóng và hưởng BHXH, đồng thời có tính đến yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia BHXH. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn còn một số vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu xem xét như: danh mục các bệnh dài hạn quy định đã lâu, cần phải bổ sung một số bệnh mới...

<i><b>b. Chế độ trợ cấp thai sản</b></i>

Thiết kế chế độ này như hiện nay đã giúp lao động nữ có được khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Hơn nữa, việc quy định thời gian nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiện và mơi trường lao động nhằm đảm bảo sức khỏe cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau. Qua thực tiễn, chế độ này còn một số điểm cần phải khắc phục như: cịn đan xen giữa chính sách BHXH với chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình...

<i><b>c. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp </b></i>

Thực tiễn triển khai chế độ này ở nước ta trong những năm vừa qua đã góp phần khơng nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Đồng thời chế độ này còn quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy ra tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Mức trợ cấp của chế độ này dựa trên cơ sở tỷ lệ suy giảm khả năng lao động là hợp lý. Tuy vậy, cần phải xác định rõ hơn tai nạn lao động xảy ra trên đường đi từ nhà đến nơi làm việc và ngược lại, danh mục bệnh nghề nghiệp cần phải được bổ sung vì có một số loại bệnh mới phát sinh nhưng chưa được xếp vào bệnh nghề nghiệp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<i><b>d. Chế độ hưu trí</b></i>

Đây là chế độ nhằm cung cấp một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập không được nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu. Nội dung chế độ này đã khắc phục những hạn chế trước đây như: việc quy đổi thời gian cơng tác; bóc tách được phần lớn các chế độ ưu đãi xã hội ra khỏi chế độ hưu trí... Vì thế đã đảm bảo được sự cơng bằng, bình đẳng giữa người đóng và hưởng BHXH; giữa các nhóm lao động khác nhau. Tuy vậy, chế độ này vẫn còn nhiều điểm nổi cộm cần khắc phục như: tuổi đời về hưu giữa các ngành, các nhóm lao động; những người hưởng trợ cấp một lần đưa vào chế độ là chưa hợp lý, vì những người này vừa chưa đủ tuổi, và khơng đủ tích lũy cần thiết để hưởng trợ cấp. Đây chỉ là sự trả lại một phần số tiền cho người lao động khi họ khơng cịn quan hệ lao động nữa, do quỹ BHXH đảm nhận.

<i><b>e. Chế độ tử tuất</b></i>

Một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất đó là chế độ tử tuất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết; khi xây dựng chế độ này, đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia bảo hiểm và yếu tố xã hội giữa người sống và người chết. Đặc biệt là tính đến yếu tố kế thừa đối với thân nhân của người chết. Song việc quy định đối tượng được hưởng bao gồm cả bố mẹ bên vợ, bên chồng là chưa hợp lý. Vì bố mẹ bên vợ, bên chồng cịn có thân nhân của cả 2 bên chịu trách nhiệm, điều này cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để thống nhất quy định.

<i><b>1.3. Vai trò của Pháp luật về chế độ Bảo hiểm xã hội</b></i>

Thứ nhất, Việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội nhằm ổn định cuộc sống người lao động, trợ giúp người lao động khi gặp rủi ro: ốm đau và các rủi ro tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và thất nghiệp… sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm có việc làm.

Thứ hai, Với thực hiện tốt chính sách Bảo hiểm xã hội nhất là chế độ hưu trí Bảo hiểm xã hội góp phần ổn định cuộc sống của người lao động khi hết tuổi lao động hoặc khơng cịn khả năng lao động. Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, người lao động tham gia đóng BHXH từ 20 năm trở lên khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp hằng tháng. Với nguồn lương hưu và

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

trợ cấp BHXH, người cao tuổi có thu nhập ổn định, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay, cả nước đã có khoảng 2,5 triệu người hết tuổi lao động đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng với số tiền chi trả từ quỹ BHXH hàng nghìn tỉ đồng mỗi tháng.

Thứ ba, Việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội góp phần ổn định và nâng cao chất lượng lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau và thúc đẩy sản xuất phát triển.

Thứ tư, Việc tham gia Bảo hiểm xã hội là một công cụ đắc lực của Nhà nước và góp phần vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội bền vững của xã hội. Trên thị trường lao động, “tiền lương là giá cả sức lao động” được hình thành tự phát căn cứ vào quan hệ cung cầu, vào chất lượng lao động cũng như các điều kiện khung mà trong đó. Nhà nước chỉ đóng vai trị quản lý thơng qua những quy định về mức lương tối thiểu và những điều kiện lao động cần thiết.

<i><b>1.4. Cơ sở hình thành chế độ Bảo hiểm xã hội.1.4.1.</b></i> Cơ sở sinh học

Cơ sở sinh học tồn tại ngay trong bản thân những người lao động tham gia BHXH. Đây được coi là cơ sở khách quan nhất, vì nó liên quan đến độ tuổi, giới tính, sự suy giảm sức khoẻ tự nhiên và những nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống của mỗi con người. Độ tuổi của mỗi con người ln có giới hạn.

<i><b>1.4.2.</b></i> Điều kiện và môi trường lao động

Điều kiện lao động và môi trường lao động giữa các ngành nghề, công việc và các vùng, miền khác nhau đơi khi có sự khác nhau rất lớn. Chẳng hạn, cùng làm việc trong ngành khai khống, nhưng những người làm các cơng việc gián tiếp như: thống kê, kế toán, cung ứng vật tư sẽ ít chịu sự tác động của độ bụi của tiếng ồn và xác suất xảy ra TNLĐ, bệnh nghề nghiệp cũng thấp hơn so với những người công nhân trực tiếp làm việc dưới hầm.

<i><b>1.4.3.</b></i> Cơ sở kinh tế - xã hội

Khi ban hành chính sách BHXH và đặc biệt là khi thiết lập hệ thống các chế độ BHXH, cơ sở kinh tế - xã hội có tác động rất lớn và đơi khi đóng vai trị quyết định.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Cơ sở kinh tế - xã hội biểu hiện ở trình độ dân trí và nhận thức xã hội của người lao động cũng như người sử dụng lao động, ở tiềm lực và sức mạnh kinh tế của đất nước cũng như người sử dụng lao động, ở khả năng tổ chức và quản lý xã hội của mỗi quốc gia. v.v.

<i><b>1.4.4. Luật pháp và thể chế chính trị</b></i>

Hệ thống các chế độ BHXH phải được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật về BHXH. Các văn bản này phải nằm trong mối quan hệ với các bộ luật khác có liên quan của từng nước cụ thể như: Luật lao động, Luật sỹ quan quân đội; Luật công chức; Luật doanh nghiệp. v.v… Vì vậy, tính thống nhất, tính đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, mà trong đó các văn bản pháp luật về BHXH chỉ là một bộ phận phải được đảm bảo.

<i><b>1.5. Nguyên tắc pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội</b></i>

Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.

Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng do người lao động lựa chọn.

Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian đóng bảo hiểm xã hội đã được tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì khơng tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.

Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch tốn độc lập theo các quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.

Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.

<b>Kết luận chương 1</b>

Toàn bộ nội dung nghiên cứu của Chương 1 cho chúng ta cái nhìn khái quát về tổng quan lý luận liên quan đến lĩnh vực BHXH và Pháp luật về BHXH. Qua các nghiên cứu, ta có thể thấy BHXH là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, mang nét đặc

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

trưng riêng khác với các loại hình bảo hiểm thương mại. BHXH được xây dựng và hoạt động không phải vì mục đích lợi nhuận mà mục tiêu chính là đảm bảo an sinh xã hội, giữ gìn ổn định, bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của người dân.

Đối với lĩnh vực BHXH, pháp luật về BHXH là tiền đề quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của lĩnh vực BHXH. Các chế độ BHXH là các loại hình BHXH do người lao động và người sử dụng lao động tham gia, dựa trên sự tự do ý chí của họ và người tham gia có quyền lựa chọn mức phí, cách thức đóng phí phù hợp trên cơ sở tn thủ các quy định của pháp luật và được hưởng một số chế độ bảo hiểm nhất định. Chế độ BHXH có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với người lao động nói riêng và xã hội nói chung, góp phần phát triển bền vững các chế độ an sinh xã hội.

Hiện nay BHXH được triển khai thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới, tuỳ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi nước thực thi chế độ, chính sách BHXH khác nhau. Tuy nhiên xu hướng chung hiện nay các chế độ, chính sách BHXH ngày càng được thực hiện tốt hơn, đầy đủ hơn, cuộc sống của người dân, người lao động ngày càng được đảm bảo hơn. Các chính sách, quyết định của Nhà nước sẽ có tác động trực tiếp, ảnh hưởng lớn tới các hoạt động quản lý thu BHXH, vậy nên nhà lãnh đạo, người quản lý phải chọn lựa, xác định và đưa ra các chính sách, chế độ, quy chế quản lý tài chính BHXH một cách hợp lý và lấy đó làm căn cứ để ra các quyết định cụ thể liên quan đến công tác thu BHXH, đảm bảo thực hiện các mục tiêu Nhà nước đặt ra.

Như vậy, chúng ta có thể thấy sự phát triển của nghành BHXH gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nó giống như một chiếc gương phản chiếu cho sự phát triển bền vững của mỗi Quốc gia.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<b>CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆNCHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚTHỌ</b>

<b>2.2Giới thiệu chung về cơ quan bảo hiểm huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ</b>

<i><b>2.2.1 Đặc điểm kinh tế xã hội huyện Thanh Ba</b></i>

Thanh Ba là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Phú Thọ, có diện tích tự nhiên là 19.503 ha, dân số tồn huyện là 114.343 người, mật độ dân số bình quân 592 người/1 km2, trong đó có 58.232 người trong độ tuổi lao động. Cơ cấu lao động nông nghiệp chiếm 75,69%, lao động công nghiệp 16,26%, lao động dịch vụ 8,05%. Tồn huyện có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 26 xã và 1 thị trấn. Tuy là một huyện miền núi nhưng lại có đặc trưng của cả 3 vùng: đồng bằng, trung du và miền núi. Điều kiện đất đai, tài nguyên cho phép huyện có khả năng phát triển nơng nghiệp đa dạng, phong phú. Xuất phát từ tiềm năng đất đai và tài nguyên, Thanh Ba lại là huyện có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thuộc các ngành chế biến chè, xi măng, rượu bia với lịch sử phát triển khá lâu đời. Tuy vậy, trong thời gian qua q trình phát triển cịn bộc lộ nhiều yếu tố tự phát, không phát huy triệt để được lợi thế, đặc trưng của từng vùng, làm cho kinh tế phát triển chưa mạnh, Thanh Ba vẫn là huyện được đánh giá là phát triển không hết tiềm năng.

<i><b>2.2.2 Khái quát chung về BHXH huyện Thanh Ba</b></i>

<i>2.2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển </i>

Thời gian trước NĐ 19/CP, BHXH trên địa bàn huyện do Phòng lao động Thương binh – Xã hội và Liên đoàn Lao động quản lý. Hai cơ quan này đều thuộc ngành dọc được phân cấp từ Trung ương đến địa phương.

Trong thời kỳ này do sự sắp xếp lại tổ chức và địa giới nên huyện Thanh Ba được nhập vào và tách ra nhiều lần, do đó cơ quan quản lý về BHXH cũng được tách ra và nhập theo phân chia địa giới hành chính.

Tháng 1 năm 1981 huyện Sơng lô được chia tách làm 2 huyện Đoan Hùng và Thanh Hòa. Thời kỳ này cơ quan quản lý BHXH là 59 xã, 7 nhà máy, 3 nông trường và 1 Viện nghiên cứu chè.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Tháng 10 năm 1995, BHXH huyện Thanh Hịa chính thức đi vào hoạt động. Đến ngày 01 tháng 6 năm 1996 huyện Thanh Hòa tách ra làm 2 huyện Thanh Ba và Hạ Hòa. Huyện Thanh Ba được thành lập bao gồm 26 xã thị trấn, 24 đơn vị hành chính sự nghiệp, 7 doanh nghiệp và 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. BHXH huyện Thanh Ba được thành lập theo Quyết định số 1623 BHXH/QĐ-TCCV ngày 18 tháng 9 năm 1997 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam trên cơ sở tách từ Bảo hiểm xã hội huyện Thanh Hịa, có trụ sở tại Khu 9, Thị trấn Thanh Ba, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

Bảo hiểm xã hội huyện Thanh Ba là một đơn vị thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ, có tư cách pháp nhân đầy đủ, có trụ sở, tài khoản và con dấu riêng. Chịu sự quản lư trực tiếp và toàn diện của Bảo hiểm xă hội tỉnh Phú Thọ, chịu sự quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân huyện Thanh Ba.

Trong quá trình hình thành và phát triển, Bảo hiểm xã hội huyện Thanh Ba luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho, luôn là lá cờ đầu của Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ và được Nhà nước, BHXH Việt Nam, UBND tỉnh tặng nhiều phần thưởng cao quý. Đặc biệt, BHXH huyện Thanh Ba đang phấn đấu để được chính phủ tặng Huân Chương lao động hạng 3.

<i>2.2.2.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy</i>

Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BHXH huyện Thanh Ba được quy định theo quyết định số 1414/QĐ-BHXH ngày 04/10/2016 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội địa phương như sau:

<i>2.1.2.2.1 Vị trí, chức năng của BHXH huyện Thanh Ba</i>

Bảo hiểm xã hội huyện là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh đặt tại huyện, có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế trên địa bàn huyện theo quy định.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Bảo hiểm xã hội huyện chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh và chịu sự quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn của Ủy ban nhân dân huyện.

Bảo hiểm xã hội huyện có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng.

<i>2.1.2.2.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội huyện</i>

- Xây dựng trình Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh kế hoạch phát triển Bảo hiểm xã hội huyện dài hạn, ngắn hạn và chương trình cơng tác hàng năm; tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình sau khi được phê duyệt.

- Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.

- Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh, cụ thể:

a. Cấp sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế cho những người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế;

b. Khai thác, đăng ký, quản lý các đối tượng tham gia và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Thu các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với các tổ chức và cá nhân tham gia, từ chối việc đóng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế không đúng quy định. Kiểm tra việc ký hợp đồng, việc đóng, trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động;

c. Ký hợp đồng với các tổ chức làm đại lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và đại lý chi các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định;

d. Giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tổ chức bộ phận tiếp nhận, trả kết quả giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo cơ chế “một cửa” tại Bảo hiểm xã hội huyện;

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

đ. Chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế; từ chối chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế khơng đúng quy định;

e. Tiếp nhận khoản kinh phí từ Ngân sách Nhà nước chuyển sang để đóng, hỗ trợ đóng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế;

g. Quản lý, sử dụng, hạch tốn kế tốn các nguồn kinh phí và tài sản của Bảo hiểm xã hội huyện theo phân cấp;

h. Ký, tổ chức thực hiện hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế với các cơ sở khám, chữa bệnh có đủ điều kiện, tiêu chuẩn chun mơn, kỹ thuật theo phân cấp.

- Kiểm tra, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại về việc thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với các tổ chức, cá nhân tham gia và các cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo quy định.

- Thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách hành chính theo chỉ đạo, hướng dẫn của Bảo hiểm xã hội tỉnh. Tổ chức triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của Bảo hiểm xã hội huyện. - Tổ chức thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế theo quy định.

- Quản lý, lưu trữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định.

- Hướng dẫn nghiệp vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho các tổ chức, cá nhân tham gia.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn, với các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế theo quy định.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

- Đề xuất, kiến nghị, phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.

- Có quyền khởi kiện vụ án dân sự để u cầu tịa án bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế trên địa bàn.

- Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được hưởng các chế độ, thủ tục thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế khi người lao động, người sử dụng lao động hoặc tổ chức cơng đồn u cầu; Cung cấp đầy đủ và kịp thời tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Định kỳ 6 tháng, phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở địa phương cập nhật thông tin về tình hình sử dụng lao động, trên địa bàn. Phối hợp cơ quan thuế cập nhật mã số thuế của tổ chức, cá nhân; định kỳ hàng năm, cập nhật thông tin do cơ quan thuế cung cấp về chi phí tiền lương để tính thuế của doanh nghiệp hoặc tổ chức.

- Quản lý viên chức, lao động hợp đồng của Bảo hiểm xã hội huyện.

- Tham gia nghiên cứu khoa học, thực hiện chế độ thông tin, thống kê, báo cáo, thi đua

- khen thưởng theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội tỉnh.

- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh giao..”[7]

<i>2.1.2.2.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH huyện Thanh Ba</i>

Là cơ quan BHXH huyện, BHXH huyện Thanh Ba là đơn vị có tư cách pháp nhân, khơng có tổ chức phịng ban mà nó được chia thành 3 tổ nghiệp vụ. Được biên chế chính thức 15 cán bộ trong đó có 9 nam và 6 nữ, có 15 cán bộ là Đảng viên. Về trình độ chun mơn có 13 đồng chí có trình độ đại học, 02 đồng chí có trình độ trung cấp (là các đồng chí nữ cao tuổi đã gắn bó với ngành BHXH từ những ngày mới thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

lập), về trình độ lý luận chính trị có 01 đồng chí cao cấp lý luận chính trị, 7 đồng chí trung cấp lý luận chính trị. Tổ chức Đảng, các đoàn thể: là chi bộ cơ sở, trực thuộc Huyện uỷ Thanh Ba; Cơng đồn cơ sở trực thuộc Liên đoàn lao động huyện Thanh Ba; Đoàn thanh niên sinh hoạt trực thuộc chi đoàn cơ quan UBND huyện Thanh Ba.

Cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội huyện Thanh Ba được hệ thống hóa qua sơ đồ 2.1 sau

Hình 2. 1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của BHXH huyện Thanh Ba

<i>Nguồn: BHXH huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ</i>

Bảo hiểm xã hội huyện do Giám đốc quản lý và điều hành; giúp Giám đốc có các Phó Giám đốc. Giám đốc, Phó Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện do Giám đốc Bảo

</div>

×