Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luận văn thạc sĩ xây dựng đảng và chính quyền nhà nước chất lượng đội ngũ thẩm phán của tòa án nhân dân cấp huyện ở thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.5 KB, 107 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỞ ĐẦU...1</b>

<b>NỘI DUNG...1</b>

<i><b>CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG</b></i> <b>ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP</b>

<i><b>CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN</b></i> <b>CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở THÀNH PHỐHÀ NỘI...37</b>

<b>2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ Thẩm phán của Tòa ánnhân dân cấp huyện ở Thành phố Hà Nội ...37</b>

<b>2.2. Khảo sát chất lượng đội ngũ Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện ở</b> Thành phố Hà Nội...44

2.3. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của chất lượng đội ngũ Thẩm phán cấp <b>huyện ở Thành phố Hà Nội...69</b>

<i><b>CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT</b></i> <b>LƯỢNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN CỦA TÒA ÁN NHÂNDÂN CẤP HUYỆN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI...82</b>

<b>3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán của Tòa ánnhân dân cấp huyện ở thành phố Hà Nội...79</b>

<b>3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán của Tòa án nhândân cấp huyện ở thành phố Hà Nội...79</b>

<b>KẾT LUẬN...94</b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...97</b>

<b>TÓM TẮT LUẬN VĂN...105</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài</b>

Sinh thời, Chủ tịch Hà Nội đánh giá cao về có vai trị to lớn và ý nghĩa quyết định của cán bộ và công tác cán bộ đối với sự thành bại của cách mạng: “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “ Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, cải cách nền công vụ, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh trong các ngành nghề trong đó có hệ thống Tịa án nói riêng.

Ngay sau khi Cánh mạng Tháng Tám thành cơng, Tịa án là một trong những cơ quan Nhà nước được hình thành sớm nhất xuất phát từ nhu cầu chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng, củng cố và xây dựng chính quyền nhân dân.

Trước khi Hiến pháp năm 1946 được thông qua, Chủ tịch Hà Nội đã ký Sắc lệnh số 33C-SL ngày 13/9/1945 thành lập hệ thống Tòa án ở nước ta. Với chức năng nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quá trình phát triển của hệ thống Tịa án đã gắn liền với q trình hồn thiện và củng cố nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, hiện nay là Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoạt động xét xử của Tòa án - trung tâm của hoạt động tư pháp, nơi thể hiện nền công lý, sự đối xử công bằng trong tất cả các mối quan hệ - là một trong những hoạt động biểu hiện tập trung, cụ thể nhất của thực thi quyền lực tư pháp đã được Hiến pháp năm 2013 quy định.

Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tăng cường nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trị, vị

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

trí của Tịa án trong hệ thống bộ máy nhà nước ngày càng được khẳng định qua việc thực hiện tốt nhiệm vụ khi thẩm quyền được thay đổi, mở rộng để đáp ứng điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như song song việc Hà Nội mở rộng địa giới hành chính thì hệ thống các Tòa án cấp quận, huyện trực thuộc Thành phố Hà Nội cũng được mở rộng, hiện nay là 30 Tịa án cấp huyện, thị xã. Đi kèm với đó đòi hỏi, chất lượng đội ngũ thẩm phán (ĐNTP) ngày một phải được nâng cao để đáp ứng các điều kiện của tình hình mới và điều kiện hội nhập quốc tế, đây cũng là lực lượng nòng cốt để nâng cao uy tín ngành Tịa án.

Chất lượng hoạt động của thẩm phán các cấp nói chung và của thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện của thành phố Hà Nội nói riêng đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, ĐNTP vẫn cịn khơng ít hạn chế. Đáng quan tâm là: cơ cấu chưa hợp lý, chất lượng chưa cao, còn thiếu những Thẩm phán giỏi, nhiệt huyết và có tinh thần công hiến, xây dựng đội ngũ chưa cao…. Việc nâng cao chất lượng ĐNTP ở tòa án nhân dân cấp huyện vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm: nhận thức về xây dựng và nâng cao chất lượng Thẩm phán hiện nay của nhiều Thẩm phán, đảng viên và một số cấp ủy viên, lãnh đạo đơn vị còn chưa đầy đủ, sâu sắc; công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho các Thẩm phán còn chưa được quan tâm thỏa đáng; việc tạo điều kiện thuận lợi về phương tiện, điều kiện làm việc để Thẩm phán yên tâm giải quyết các vụ án khó, nguy hiểm, phức tạp cịn nhiều bất cập; cơng tác quản lý đánh giá Thẩm phán còn chưa được đổi mới mạnh mẽ; sự lãnh đạo, chỉ đạo về sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn chưa còn chưa chặt chẽ; việc thu hút và trọng dụng nhân tài về làm việc trong các Tòa án còn chưa mạnh mẽ…

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Nghiên cứu một cách tồn diện, tìm giải pháp khả thi phát huy ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế nêu trên, nâng cao chất lượng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội thực sự là vấn đề rất cần thiết và cấp bách hiện nay. Từ những sự phân tích trên đây học viên quyết

<b>định chọn đề tài: "Chất lượng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện ởThành phố Hà Nội hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ ngành xây dựng</b>

Đảng và Chính quyền nhà nước.

<i><b> 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài</b></i>

Nâng cao chất lượng ĐNTP được nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy Đảng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã được đăng tải trên các tạp chí khoa học, sách; thể hiện trong tổng quan đề tài khoa học, luận văn, luận án.

Xây dựng ĐNTP là yêu cầu của cái cách tư pháp. Vì vậy vấn đề trên đã được đề cập và đăng tải trên các tạp chí như : Tạp chí TAND, Thơng tin khoa học pháp lý, Tạp chí luật học, Bộ tư pháp có đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng quy chế Thẩm phán" TAND tối cao có đề tài: "Những yêu cầu và giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ TAND; Đề tài "Đổi mới công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán TAND địa phương". Tiến sỹ Phan Văn Lợi đã chủ biên về chế định Thẩm phán một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tiến sỹ Phan Hữu Thư có bài đạo đức nghề luật đăng trên tạp chí luật học vv... Tuy nhiên, trong các tài liệu đó cũng chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất về thẩm phán chứ chưa nghiên cứu một cách tồn diện có hệ thống và đồng bộ về các giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn cùng với việc phải nâng cao đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán.

Để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc xây dựng ý thực pháp luật của Thẩm phán phải biết tuân thủ pháp luật, có phẩm chất đạo đức và đủ năng lực chuyên

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

môn nghiệp vụ cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới là rất cần thiết. Đây là lĩnh vực được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua ở nước ra đã có một số cơng trình nghiên cứu quan trọng liên quan đến lĩnh vực này như: Sổ tay Thẩm phán; Các phẩm chất cơ bản của Thẩm phán của tác giả Đặng thị Thanh Nga (Tạp chí Luật học số 5/2002); Kỹ năng giao tiếp của Thẩm phán khi giải quyết vụ án dân sự; ThS. Bùi Thị Kinh Chi (Tạp chí Luật học số 2/2005); Một số suy nghĩ về những việc Thẩm phán không được làm quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002, Nguyễn Thị Hồng Tươi (Tạp chí Tồ án nhân dân số 1/2003); Một số vấn đề về mơ hình nhân cách Thẩm phán, ThS. Bùi Thị Kim chi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/2005); Những phẩm chất, nhân cách của Thẩm phán trong giai đoạn hiện nay, ThS.Đặng Thanh Nga (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Hà Nội, 2003); Suy nghĩ về những điều Thẩm phán phải làm, Thẩm phán được làm, chính sách chế độ đối với Thẩm phán, Nguyễn Hồng Tươi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 5/2002).

Nhìn chung, các bài viết trên của các tác giả được thể hiện ở nhiều cấp độ nghiên cứu khác nhau, góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng chủ yêu dưới dạng các bài nghiên cứu trên các tạo chí chưa có đề cập một cách có hệ thống và cụ thể về “Chất lượng Thẩm phán tại các Toà án nhân dân thuộc các huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội”.

<i><b>2.1. Các đề tài khoa học</b></i>

- “Một số giải pháp nâng cao vị thế của ĐNTP trong tố tụng hình sự

<i>đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” Trần Thu Hạnh (Khoa luật, Đại học Quốcgia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam)</i>

- “Thực tiễn giải quyết quan hệ dân sự trong vụ án hình sự. Những

<i>v-ướng mắc và kiến nghị” Chủ nhiệm: Ths. Nguyễn Chí Cơng, Thẩm tra viênTịa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- “Thực trạng cơng tác thống kê của ngành Tịa án nhân dân - Một số

<i>giải pháp và kiến nghị” Chủ nhiệm: Ths. Nguyễn Thị Tú, Thẩm phán Tòa Dânsự Tòa án nhân dân tối cao Phó Chủ nhiệm: Ths. Lê Thế Phúc, Thẩm tra viênViện Khoa học Xét xử Tòa án nhân dân tối cao.</i>

- “Đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng

<i>của ngành Tòa án nhân dân trong giai đoạn mới” Chủ nhiệm: Cn. Bùi NgọcHịa, Phó Chánh án Tịa án nhân dân tối cao Phó Chủ nhiệm: Cn Hồng VănHồng, Phó Chánh Văn phòng- Văn phòng Tòa án nhân dân tối cao.</i>

-“ Thực trạng cơng tác thống kê của ngành Tịa án nhân dân - Một số

<i>giải pháp và kiến nghị” Chủ nhiệm: Ths. Nguyễn Thị Tú, Thẩm phán Tòa Dânsự Tịa án nhân dân tối cao Phó Chủ nhiệm: Ths. Lê Thế Phúc, Thẩm tra viênViện Khoa học Xét xử Tòa án nhân dân tối cao.</i>

<i>- “Triển khai án lệ vào cơng tác xét xử của Tịa án Việt Nam” Chủnhiệm: Ths. Trương Hịa Bình, Chánh án Tịa án nhân dân tối cao Phó Chủnhiệm: TS. Từ Văn Nhũ, Phó Chánh án Tịa án nhân dân tối cao.</i>

- “Nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán

<i>bộ lãnh đạo, quản lý ngành Tòa án nhân dân” Chủ nhiệm: Ths. Nguyễn TườngLinh, Trưởng phòng Phòng Tổng hợp Vụ Tổ chức - Cán bộ Tòa án nhân dântối cao.</i>

<i><b>2.2. Sách</b></i>

<i>- PGS, TS Trần Xuân Sầm chủ biên (1998), Xác định cơ cấu và tiêu</i>

chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

<i>Các nhà khoa học đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xácđịnh tiêu chuẩn cán bộ với ĐNCB lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị;xác định tiêu chuẩn cán bộ trong những năm tới và phương hướng, giải phápxây dựng ĐNCB theo tiêu chuẩn xác định.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>- PGS, TS Tô Huy Rứa, PGS, TS Nguyễn Cúc, PGS, TS Trần Khắc Việt(2003), Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền</i>

núi nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội.

<i>- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hà Nội (2010), Đảng Cộngsản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb Chính trị - Hành chính, HàNội. </i>

<i>- Sổ tay thẩm phán Việt Nam do Tiến sỹ Đặng Quang Phương, Phó Chánh án Thường trực Tồ án nhân dân tối cao Việt Nam.</i>

<i> Giải Đáp Một Số Vấn Đề Về Nghiệp Vụ Năm 2018 2019 -TH.S.Quốc Dương</i>

<i><b>2.3. Các bài viết đăng trên báo, tạp chí</b></i>

<i>- Ths Nguyễn Thế Anh (2016)” Vai trị bảo vệ cơng lý của Tịa án trongHiến pháp 2013”. Tạp chí nhà nước.</i>

<i>- PGS, TS. Nguyễn Hịa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tịấn nhân dân tối cao (2017) “Xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán vững vàng</i>

về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử,

<i>bảo vệ công lý”. Cổng thơng tin điện tử Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội.</i>

- GS. TSKH Đào Trí Úc “Xác định tịa án có vị trí trung tâm, xét xử là

<i>hoạt động trọng tâm. Cổng thông tin điện tử Trường đại học kiểm sát Hà Nội.</i>

- Lê Minh (2018) “Chú trọng công tác bồi dưỡng năng lực ĐNTP”.

<i>Báo điện tử Vĩnh Phúc.</i>

- Mai Thao (2018) “Đội ngũ cán bộ, cơng chức Tịa án đã có sự chuyển

<i>mình vượt bậc về chất lượng”. Báo công lý</i>

<i>- (2018) “Đổi mới, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án”. Báo điện tử Nhân dân</i>

- Thái Vũ(2018) “Giải quyết khó khăn, vướng mắc trong cơng tác cán

<i>bộ Tịa án”, Tạp chí Tịa án nhân dân</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- Trần Thu Hạnh (2009) “Một số giải pháp nâng cao vị thế của ĐNTP

<i>trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”. Tạp chí Khoa họcĐHQGHN.</i>

Mối quan hệ giữa quy hoạch, đánh giá với luân chuyển cán bộ, sự tác động qua lại giữa các yếu tố trên trong quy trình thực hiện công tác cán bộ đã được tác giả phân tích sâu sắc, có giá trị tham khảo tốt đối với luận văn. Cơng trình khoa học này đã tập trung khẳng định quan điểm của Đảng về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; thực trạng và nội dung, giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ trong tình hình mới.

- Nguyễn Văn Động (2013), "Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán

<i>bộ trong tình hình mới", Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 14/8/2013.</i>

<i>- Hồ Văn Màng (2013), "Để làm tốt công tác quy hoạch cán bộ", Tạpchí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 28/9/2013.</i>

Ngồi ra cịn một số các tạp chí khác trên các tạp chí như Tạp chí TAND, thơng tin khoa học pháp lý, Tạp chí luật học... Tuy nhiên, trong các tài liệu đó cũng chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất về thẩm phán chứ chưa nghiên cứu một cách tồn diện có hệ thống đồng bộ về các giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn cùng với việc phải nâng cao đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán.

<i><b>2.4. Các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ</b></i>

<i>- Luận án của Nguyễn Văn Khoa, năm 2017 “Đảng Cộng sản Việt Namlãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011”.</i>

<i>- Nguyễn Huyền Ly, năm 2012 “Vai trò của Toà án trong nhà nướcpháp quyền Việt Nam” – Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội.</i>

<i>- Hoàng Thị Thoa, năm 2014 “Vai trò của Thẩm phán Tòa án nhândân cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án Hình sự” - Luận văn Thạc sỹ,</i>

trường Đại học Quốc Gia Hà Nội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>- Bùi Quang Thắng, năm 2018 “Vai trò của Tòa án nhân dân cấphuyện trong giải quyết các vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” –</i>

Luận văn Thạc sỹ, Viện hàn Lâm khoa học Việt Nam.

- Luận án của Dương Văn Chính, Phó Chánh án TAND thành phố Hải

<i>Phịng năm 2020 “Nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất các giải phápnâng cao chất lượng xét xử của TAND cấp tỉnh, đáp ứng yêu cầu cải cách tưpháp”.</i>

<i>- Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vị trí, vai trò của Thẩm phán Tòa ánnhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự - Hà Tuấn Anh;Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự - Hồng Thị Thoa;Địa Vị Pháp Lý Của Thẩm Phán – Trần Thị Thu Thuỷ; Nhiệm vụ, quyền hạnvà trách nhiệm của thẩm phán trong tố tụng dân sự - Nguyễn Thị Hằng…</i>

Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu tồn diện về xây dựng ĐNTP của Tịa án nhân dân cấp huyện ở Hà Nội hiện nay.

<b>3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn</b>

<i><b>3.1. Mục tiêu </b></i>

Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng chất lượng ĐNTP của các Tòa án nhân dân cấp huyện của thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ĐNTP cấp huyện của thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

<i><b>3.2. Nhiệm vụ</b></i>

Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chất lượng ĐNTP của các Tòa án nhân dân cấp huyện của thành phố Hà Nội: vị trí, vai trị của Tồ án, vai trò của người thẩm phán trong hoạt động xét xử của Toà án; tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của Thẩm phán…

- Làm rõ thực trạng chất lượng ĐNTP của các Tòa án nhân dân cấp huyện của thành phố Hà Nội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

- Đề xuất được các giải pháp có cơ sở lý luận, thực tiễn và có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng ĐNTP cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu</b></i>

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội.

<i><b>4.2. Phạm vi nghiên cứu</b></i>

- Luận văn khảo sát thực trạng đội ngũ của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến nay.

- Phương hướng và giải pháp được đề xuất trong luận văn có giá trị đến năm 2025.

- Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật, các giải pháp trong thực tiễn nhằm đánh giá thực trạng chuyên môn, đạo đức, nghề nghiệp của Thẩm phán cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

<b>5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu</b>

<i><b>5.1. Cơ sở lý luận</b></i>

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, TTHCM, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Thẩm phán và công tác Thẩm phán.

Trên cơ sở giải quyết sâu sắc những vấn đề lý luận cơ bản của đề tài mà luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng, năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và từ đó đã có những đề xuất, kiến nghị có giá trị tham khảo trong quá trình xây dựng ĐNTP, nhất là trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tiến hành cải cách tư pháp hiện nay.

<i><b>5.2. Cơ sở thực tiễn</b></i>

Thực tiễn hoạt động nâng cao chất lượng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội; các báo cáo tổng kết của các cơ quan, đơn

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

vị về công tác xây dựng, đào tạo ĐNTP; những số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát của tác giả.

<i><b>5.3. Phương pháp nghiên cứu</b></i>

- Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩ Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng. Đặc biệt các vấn đề về cải cách tư pháp, xây dựng ĐNTP cấp huyện trong địa bàn Thành phố Hà Nội.

<i>- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện</i>

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như lôgic - lịch sử, so sánh - đối chiếu, phân tích - tổng hợp, nghiên cứu tài liệu, tổng kết thực tiễn.

<b>6. Những cái mới và đóng góp khoa học của đề tài luận văn </b>

- Góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội; những kinh nghiệm về nâng cao chất lượng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến nay; những giải pháp có tính khả thi tiếp tục nâng cao chất lượng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội đến năm 2025.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy, lãnh đạo của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội và các cấp ủy có liên quan trong nâng cao chất lượng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu về cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong các học viện, nhà trường trong ngành Tòa án.

- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động công tác của Toà án, tác giả đã chỉ ra được một số hạn chế của ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

- Đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội.

- Trên cơ sở đó đã có một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật trong phươn hướng xây dựng ĐNTP của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội:

+ Tuyển chọn Thẩm phán bằng hình thức thi tuyển hoặc sát hạch. + Quy định thời gian dự bị của Thẩm phán.

+ Kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán.

+ Tăng cường các chính sách đãi ngộ và bảo vệ Thẩm phán. + Công khai bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

<b>7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài</b>

<b>- Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa to lớn đối với thực tiễn tư</b>

pháp nói chung và thực tiễn công tác xét xử các loại vụ án tại Tịa án nhân dân cấp huyện. Đóng góp những đề xuất trực tiếp phục vụ công tác xét xử; công tác tổ chức xét xử và trong công tác đào tạo, bổi dưỡng Thẩm phán.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài tham khảo nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong ngành Tòa án.

<b>8. Cấu trúc của luận văn</b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>CHƯƠNG 1</b>

<b>CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨTHẨM PHÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở THÀNH</b>

Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án. Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh án Toà án Nhân dân tối cao. Thẩm phán Toà án nhân dân ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh bao gồm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ượng, Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện bao gồm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Thẩm phán Toà án quân sự các cấp bao gồm Thẩm phán Toà án quân sự trung ương đồng thời là Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu bao gồm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực. Thẩm phán là người thực hiện quyền xét xử chính tại một phiên tịa (Thẩm phán cấp huyện), có thể là chủ tọa một mình hoặc là một thành phần trong hội đồng xét xử gồm nhiều thẩm phán. Chỉ có Thẩm phán mới có quyền nhân danh Nhà nước tuyên án khi xét xử một vụ án cụ thể.

Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Thẩm phán làm nhiệm vụ theo sự phân công của chánh án. Khi xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào và phải chịu trách nhiệm về cơng việc của mình.

Theo quy định tại Điều 66 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, các ngạch Thẩm phán bao gồm: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Thẩm phán cao cấp; Thẩm phán trung cấp; Thẩm phán sơ cấp.

Thực tế Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ có Thẩm phán sơ cấp và một số ít thẩm phán trung cấp ( số lượng thẩm phán Trung cấp tại cấp huyện thì ít, đa số là các lãnh đạo của các Tòa án nhân dân cấp huyện đã trúng tuyển kì thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp) và một số được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biệt phái trở về giải quyết án tại cấp huyện.

Căn cứ theo Luật tổ thức Tòa án quy định:

<i><b>“Điều 67. Tiêu chuẩn Thẩm phán</b></i>

<i>1. Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêmkhiết và trung thực.</i>

<i>2. Có trình độ cử nhân luật trở lên.3. Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử.</i>

<i>4. Có thời gian làm cơng tác thực tiễn pháp luật.</i>

<i>5. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.</i>

<i><b>Điều 68. Điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp</b></i>

<i>1. Người có đủ tiêu chuẩn tại Điều 67 của Luật này và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp; nếu là sỹ quan qn đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc Tịa án qn sự:</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>a) Có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên;</i>

<i>b) Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộcthẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng;</i>

<i>c) Đã trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp</i>

<i>2. Người có đủ tiêu chuẩn tại Điều 67 của Luật này và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp; nếu là sỹ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự.</i>

<i>a) Đã là Thẩm phán sơ cấp từ đủ 05 năm trở lên;</i>

<i>b) Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộcthẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng;</i>

<i>c) Đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp.</i>

<i>3. Trường hợp do nhu cầu cán bộ của Tòa án nhân dân, người chưa là Thẩm phán sơ cấp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp; nếu là sỹ quan qn đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự:</i>

<i>a) Có đủ tiêu chuẩn quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 67 của Luật này;</i>

<i>b) Đã có thời gian làm cơng tác pháp luật từ 13 năm trở lên;</i>

<i>c) Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộcthẩm quyền của Tòa án theo quy định của luật tố tụng;</i>

<i>d) Đã trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn vào ngạch Thẩm phán trung cấp” 1.1.1.2. Khái niệm chất lượng đội ngũ Thẩm phán cấp huyện </i>

Chất lượng là một khái niệm quen thuộc được dùng phổ biến trong đời sống. Theo Đại từ điển Tiếng Việt (1998) định nghĩa: “Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật, phân biệt nó với các sự vật khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Trong lĩnh vực kinh tế, khái niệm chất lượng thường được dùng trong việc kiểm tra, đánh giá sản phẩm, hàng hóa. Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ISO (International Organization for stadardization) đưa ra định nghĩa: chất lượng là khả năng tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan.

Mặc dù có những khái niệm khác nhau về chất lượng, ở các góc độ tiếp cận, hoặc lĩnh vực khác nhau, nhưng các quan điểm trên đều có điểm chung: chất lượng của sự vật là tổng hợp các thuộc tính bản chất, những giá trị đặc trưng của sự vật, qui định sự tồn tại và mức độ đáp ứng của sự vật so với yêu cầu của con người, của xã hội.

<i>Từ những chỉ dẫn trên có thể quan niệm: chất lượng ĐNTP của Tòa ánnhân dân cấp huyện là tổng hợp những giá trị, những thuộc tính đặc trưngcủa các yếu tố số lượng, cơ cấu, phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực,phương pháp tác phong công tác, được biểu hiện ở kết quả thực hiện chứctrách, nhiệm vụ của mỗi Thẩm phán cấp huyện và cả các Tòa án cấp huyệntrên địa bàn tỉnh, thành phố. </i>

<i>1.1.1.3. Chất lượng đội ngũ Thẩm phán cấp huyện phải đi đôi với đạođức nghề nghiệp Thẩm phán</i>

Quan niệm về đạo đức: Đạo đức, theo từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản văn hố thơng tin năm 2001, là: Đạo lý và đức hạnh, lẽ tốt nên theo. Theo từ điển tiếng việt - Viện ngôn ngữ học - NXB Đà Nẵng năm 2005 thì: Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có

Mỗi một xã hội có quan niệm của mình về đạo đức. Đạo đức vừa mang tính xã hội vừa mang tính giai cấp sâu sắc, bên cạnh đó đạo đức cịn bị chi phối bởi tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc. Trong xã hội, con người ln có

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

nhu cầu hướng tới các giá trị đạo đức, hướng tới cái thiện, nhân đạo, lẽ cơng bằng. Để có được những phẩm chất đạo đức tốt, người thẩm phán phải có một q trình tu dưỡng, rèn luyện vất vả. Trong đời sống xã hội, mọi hành vi của con người phải được đánh giá từ phương diện đạo đức và như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Người cách mạng phải có đạo đức như cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo..."Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, trong việc đánh giá, xây dựng đội ngũ cán bộ Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi "Đạo đức" là cái "Gốc", là nền tảng của người cán bộ cách mạng, nếu khơng có đạo đức thì dù tài mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Đối với cán bộ ngành Tư pháp người căn dặn: "Các chú hiện nay làm công tác Tư pháp, công tác xử án. Vậy muốn làm tốt cơng tác ấy thì làm thế nào? Trước hết phải đề cao lòng yêu nước, thương đồng bào, phải căm ghét bọn thực dân xâm lược và bè lũ tay sai của chúng... Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người, ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức, phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ"Bản thân pháp luật không thể tạo ra được các giá trị đạo đức. Tuy nhiên chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, cùng góp phần loại bỏ những thói hư tật xấu, xây dựng lên những chuẩn mực đạo đức mới tiến bộ, tạo lên sự ổn định xã hội. Xu hướng hiện nay là pháp luật ngày càng ghi nhận nhiều hơn nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức truyền thống và đạo đức tiến bộ. Khi đạo đức đã xuống cấp thì pháp luật có hay đến mấy cũng trở thành vô nghĩa. Con người trong xã hội nói chung và đối với đội ngũ cán bộ cơng chức hiện nay, nếu không nhận biết về các chuẩn mực đạo đức thì cũng dễ dàng vi phạm pháp luật và ngược lại sự vi phạm pháp luật, pháp luật không nghiêm là tiền đề để làm rối loạn kỷ cương đạo đức xã hội. Vì vậy, quy phạm đạo đức có vai trị làm định hướng cho nhà làm luật trong việc xác định tội phạm hoá hay

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

phi tội phạm hoá các hành vi. Chính vì vậy mà khi phát biểu ý kiến bế mạc Hội nghị cơng tác tư pháp tồn quốc tháng 4/2004 Chủ tịch nước Trần Đức Lương trưởng ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã nói: Đội ngũ cán bộ tư pháp có phẩm chất đạo đức trong sáng làm việc vì dân, có bản lĩnh và năng lực là một điều kiện vô cùng quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ cải cách Tư pháp. Do vậy chúng ta phải thật chú trọng đến việc bồi dưỡng, giáo dục, quản lý đội ngũ cán bộ. Bên cạnh những tấm gương dũng cảm, tận tuỵ vì cơng việc thì trong đội ngũ cán bộ Tư pháp cũng còn một số người sa sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm, không chịu học tập nâng cao trình độ cịn vi phạm pháp luật đã gây ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan Tư pháp

<i><b>Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán: </b></i>

Đạo đức nghề nghiệp là một trong các nội dung được bàn luận nhiều hiện nay, làm nghề gì thì cũng phải cần có đạo đức của nghề đó. Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức được hình thành trên cơ sở hoạt động nghề nghiệp của cá nhân, của một nhóm người, một tổ chức người nhất định, nó mang đầy đủ các yếu tố của đạo đức xã hội, không được trái với đạo đức xã hội. Đạo đức nghề nghiệp liên quan đến hoạt động nghề nghiệp mà nghề nghiệp đó có sự tác động, sự ảnh hưởng nhất định đến sinh mạng chính trị, đến tính mạng, sức khoẻ, đến tài sản của cá nhân, tổ chức. Đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán là một loại hình đạo đức được hình thành và phát triển gắn liền với hoạt động xét xử. Vì việc xét xử của thẩm phán là xét xử đối với hành vi cụ thể của cá nhân, của tổ chức. Chính vì thế, nếu như người thẩm phán chỉ cần vì lý do gì đó khơng xem xét sự việc một cách khách quan, thận trọng, không xuất phát từ lương tâm của mình thì có thể sẽ gây ra hậu quả không tốt, làm thiệt hại đến lợi ích vật chất hoặc tinh thần của cá nhân, tổ chức. Đạo đức nghề nghiệp thẩm phán được hình thành và phát triển thơng qua quá trình tự

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

tu dưỡng, tự rèn luyện trong suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong hoạt động xét xử của thẩm phán, yếu tố đạo đức không chỉ đơn thuần là phẩm chất đạo đức của bản thân người Thẩm phán mà còn là việc vận dụng các phạm trù đạo đức vào trong việc giải quyết vụ án trên cơ sở pháp luật, thực tế chứng minh, trong lịch sử, pháp luật chưa bao giờ lấn át được đạo đức. Trong trường hợp thiếu quy định của pháp luật cụ thể hoặc có mẫu thuẫn giữa pháp luật với đạo đức truyền thống thì phải lấy đạo đức để áp dụng.

Điều này phải được thể hiện cụ thể trong hoạt động xét xử của Thẩm phán từ cách giao tiếp, thẩm vấn, điều hành phiên toà, đăcj biệt là trong các quyết định phán quyết của Thẩm phán, người thẩm phán phải biết phối hợp các ưu thế của pháp luật và đạo đức đến mức thành một nghệ thuật xét xử. Trong điều kiện hiện nay như ý kiến phát biểu của Chủ tích nước Trần Đức Lương tại Hội nghị cơng tác tư pháp tồn quốc tháng 2/2002: Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân thì thái độ phục vụ nhân dân là một tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ đảng viên, đặc biệt là cán bộ Tư pháp. Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán khơng phải bỗng dưng mà có, mà được tạo nên bởi các yếu tố:

Lương tâm là yếu tố tạo lên đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán. Lương tâm: Theo từ điển tiếng việt - Viện ngôn ngữ học năm 2005 là: Yếu tố nội tâm tạo cho mỗi người khả năng tự đánh giá hành vi của mình về mặt đạo đức, và do đó tự điều chỉnh hành vi của mình

Người thẩm phán có tinh thần trách nhiệm là thực hiện công việc theo đúng lương tâm của mình, lương tâm và trách nhiệm có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn bó với nhau. Càng độc lập bao nhiêu thì Thẩm phán càng phải có lương tâm, càng phải có trách nhiệm bấy nhiêu. Càng có tinh thần trách nhiệm cao, có lương tâm đạo đức nghề nghiệp thì trong hoạt động xét xử càng tránh được sự vi phạm, tránh được oan, sai bấy nhiêu, một người có lương tâm

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

sẽ có sự phán quyết khách quan, sự nhìn nhận đúng đắn trước hành vi của một con người. Lao động của thẩm phán là hoạt động sáng tạo, là thứ lao động nghề nghiệp liên quan đến việc áp dụng pháp luật. Nhưng các văn bản pháp luật đó dù có đầy đủ và chính xác bao nhiêu thì cũng khơng thể nào quy định được hết các tình huống xẩy ta trong xã hội, và lúc đó người thẩm phán phải thể hiện tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, cộng với khả năng phân tích sáng tạo và biện chứng khơng cứng nhắc, siêu hình.

Các quy định của pháp luật được ban hành ra không phải để dành riêng cho từng trường hợp cụ thể mà người Thẩm phán lúc đó tiến hành giải quyết công việc buộc phải áp dụng các điều khoản đó cho từng trường hợp cụ thể, khơng phải vụ việc nào cũng như vụ việc nào, mỗi vụ có hành vi khác nhau, tính chất phức tạp khác nhau, mối quan hệ khác nhau. Vì thế người thẩm phán phải phân tích các sự kiện, đánh giá các sự vật sự việc một cách khách quan rồi tiến hành áp dụng luật một cách chính xác để xác định được chính xác những hành vi và các mối tương quan một cách chính xác có đạo đức.

<b>1.2. Cơ sở thực tiễn về chất lượng đội ngũ thẩm phán cấp huyện ởThành phố Hà Nội </b>

<i><b>1.2.1. Tòa án nhân dân cấp huyện ở Thành phố Hà Nội</b></i>

Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất cả nước từ khi tỉnh Hà Tây sáp nhập vào, đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với hơn 8 triệu người (năm 2019), tuy nhiên, nếu tính những người cư trú khơng đăng ký thì dân số thực tế của thành phố này năm 2019 là gần 10 triệu người. Mật độ dân số của Hà Nội là 2.398 người/km², mật độ giao thông là 105,2 xe/km² mặt đường. Hiện nay, Hà Nội là một đô thị loại đặc biệt của Việt Nam. Năm 2019, Hà Nội là đơn vị hành chính Việt Nam xếp

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

thứ 2 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 8 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 41 về tốc độ tăng trưởng GRDP. GRDP đạt 971.700 tỉ Đồng (tương ứng với 41,85 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 120,6 triệu đồng (tương ứng với 5200 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,62%.

Hà Nội mở rộng chia ra làm 02 khu vực: Khu vực đô thị và khu vực nông thôn, đồng thời nhiều bất cập như Ùn tắc giao thông, ô nhiễm mơi trường, phân hóa thành phần, tỉ lệ tội phạm hình sự gia tang, các tranh chấp về dân sự/ kinh doanh thương mại trở nên phức tạp... nên cần phải chú trọng về chất lượng Thẩm phán cho phù hợp.

Tương ứng với việc Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-QH của Quốc hội khố XII, Tịa án nhân dân tỉnh Hà Tây được hợp nhất vào Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ ngày 01/8/2008 nâng tổng số Tòa án cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội là 30 Tòa án.

Với địa bàn công tác rộng, các loại vụ án đều tăng đáng kể, phức tạp và đa dạng nhưng ĐNTP của các Tòa án cấp huyện trực thuộc Thành phố Hà Nội luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Đối với các vụ án khó, tồn đọng các lãnh đạo Tịa Hà Nội ln sẵn sàng lắng nghe các Thẩm phán cấp huyện báo cáo để cùng nhau giải quyết các khó khan, vướng mắc. Để đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong từng giai đoạn, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân ngày càng được kiện toàn theo hướng, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Do đó, Tịa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội cũng từng bước đổi mới, hoàn thiện về tổ chức và hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để tập trung nâng cao chất lượng xét xử và các mặt cơng tác

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

khác, góp phần vào việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động kinh tế, xã hội phát triển, ổn định chính trị; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

<small>Danh sách Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay:</small> 1 Tòa án nhân dân quận Hồn Kiếm

2 Tịa án nhân dân quận Ba Đình 3 Tịa án nhân dân quận Hai Bà Trưng 4 Tòa án nhân dân quận Đống Đa 5 Tòa án nhân dân quận Tây Hồ 6 Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy 7 Tòa án nhân dân quận Hồng Mai 8 Tịa án nhân dân quận Thanh Xuân 9 Tòa án nhân dân quận Long Biên 10 Tịa án nhân dân quận Hà Đơng 11 Tịa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm 12 Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm 13 Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm 14 Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì 15 Tịa án nhân dân huyện Đơng Anh 16 Tịa án nhân dân huyện Sóc Sơn 17 Tịa án nhân dân thị xã Sơn Tây 18 Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa 19 Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên 20 Tòa án nhân dân huyện Ba Vì 21 Tịa án nhân dân huyện Hồi Đức 22 Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai 23 Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ 24 Tòa án nhân dân huyện Thường Tín 25 Tịa án nhân dân huyện Quốc Oai 26 Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức 27 Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng 28 Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất 29 Tòa án nhân dân huyện Mê Linh 30 Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i><b>1.2.2. Đội ngũ Thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp huyện ở thànhphố Hà Nội </b></i>

<i>1.2.2.1. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân cấp huyện</i>

- Gồm 1 Chánh án là người đứng đầu và có 1 đến 2 Phó chánh án có nhiệm kì quản lý là 5 năm - Chánh án là người kiểm tra việc tuyên án của Thẩm phán có đúng quy định của pháp luật hay không. Khi Chánh án, Phó Chánh án trực tiếp xét xử một vụ án cụ thể thì lúc đó Chánh án, Phó Chánh án được gọi là thẩm phán của phiên tòa (với điều kiện Chánh án, Phó Chánh án cịn nhiệm kì Thẩm phán)

- Thẩm phán sơ cấp (Tùy thuộc vào số lượng án của các Tịa án cấp huyện mà có thể xin biên chế Thẩm phán nhiều hay ít)

- 01 Chánh văn phòng và cũng là thẩm phán

- Thư ký (một thư kí có thể làm việc cho 1 hoặc 2 thẩm phán)

<i>1.2.2.2. Chức trách, nhiệm vụ Thẩm phấn cấp huyện</i>

Thẩm phán cấp huyện làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tồ án cấp huyện theo sự phân cơng của Chánh án Tồ án nơi mình cơng tác hoặc Tồ án nơi mình được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn (Điều 11 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tồ án nhân dân).

ĐNTP của Tịa án nhân dân cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội xét xử các loại án chứ không phân ra giải quyết theo các Tòa chuyên trách như Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân Tối cao.

- Các Thẩm phán Trung cấp có vị trí lãnh đạo của Tòa án cấp huyện sẽ được Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giải giải quyết các vụ án Hành chính trên địa bàn mình.

- Các Thẩm phán Sơ cấp và các Thẩm phán Trung cấp biệt phái sẽ được giải quyết và xét xử các vụ án theo thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Thẩm phán cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu dân sự cũng như các tranh chấp dân sự, cụ thể như sau:

<i><b><small>Giải quyết các tranh chấp:</small></b></i>

<small></small> Tranh chấp về hơn nhân và gia đình

Thẩm phán cấp huyện thường giải quyết các vụ án ly hôn, tranh chấp về quyền nuôi con khi ly hôn, chia tài sản khi ly hôn và sau khi ly hôn; các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ,… Ngoài ra, các tranh chấp về cấp dưỡng; tranh chấp về nuôi con hoặc chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện.

<small></small> Tranh chấp về dân sự, đất đai

Thẩm phán cấp huyện giải quyết các tranh chấp về hợp đồng, thừa kế, bồi thường thiệt hại, các tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp xoay quanh hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn quyền sử dụng đất,…

<small></small> Tranh chấp về kinh doanh, thương mại

Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội.

<small></small> Tranh chấp về lao động

Thẩm phán cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; hoặc bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng,…

<i><b>Giải quyết các yêu cầu:</b></i>

<small></small> Các yêu cầu về hôn nhân gia đình

Thẩm phán cấp huyện tiến hành giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật; u cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu hạn chế quyền thăm nom con sau ly hôn; yêu cầu xác định cha, mẹ, con,…

<small></small> Các yêu cầu về dân sự, đất đai

Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; u cầu thơng báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích,…đều được giải quyết tại TAND cấp huyện.

<small></small> Các yêu cầu về kinh doanh thương mại

Thẩm phán cấp huyện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Ngồi ra cịn có các u cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

<small></small> Các yêu cầu về lao động

Thẩm phán cấp huyện giải quyết các yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu, các yêu cầu khác về lao động trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Tóm lại: Tịa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp dưới đây nhưng khơng có yếu tố nước ngồi ( đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tịa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi).

+ Giải quyết, xét sử sơ thẩm những vụ việc về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hơn nhân gia đình thuộc thẩm quyền của Tịa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật Tố tung Dân sự năm 2015.

+ Giải quyết, xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, bao gồm các loại tội phạm có mức hình phạt cao nhất theo quy định của Bộ luật Hình sự là 15 năm tù trừ những tội phạm được quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

+ Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy định của pháp luật (Điều 12 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân).

+ Thẩm phán được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét xử (Điều 9 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân).

+ Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan, tổ chức và cơng dân có trách nhiệm tạo điều kiện để Thẩm phán, Hội thẩm làm nhiệm vụ.

+ Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ (khoản 2 Điều 10 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tồ án nhân dân).

<i><b>Thẩm phán khơng được làm những việc sau đây:</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

- Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm: Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật;

- Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án; - Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu khơng vì nhiệm vụ được giao hoặc khơng được sự đồng ý của người có thẩm quyền;

- Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngồi nơi quy định (Điều 15 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân).

- Thẩm phán phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định (Điều 16 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tồ án nhân dân).

c phát triển hơn.

<i>1.2.2.3. Vị trí, vai trò của đội ngũ thẩm phán cấp huyện ở Thành phốHà Nội</i>

- Vài trò của Thẩm phán trên thế giới: Thẩm phán trong hệ thống Thông luật khi tham gia xét xử chỉ có trách nhiệm ngồi, nghe và xác định những vấn đề mà hai bên đưa ra. Nói cách khác, thẩm phán giữ vị trí trung lập, không tham gia vào việc tranh tụng, chỉ hỏi nhân chứng khi có tình tiết bị bỏ qua hoặc chưa được làm rõ. Trách nhiệm của thẩm phán là đảm bảo hai bên cư xử đúng mực theo quy định pháp luật, loại bỏ tình tiết khơng liên quan, và ngăn ngừa sự lặp lại khơng cần thiết. Do đó, trong mơ hình tố tụng tranh tụng, việc trình bày chứng cứ và gọi nhân chứng sẽ do hai bên hồn tồn

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

quyết định. Thẩm phán khơng có quyền yêu cầu hoặc đề xuất bằng chứng nào được đưa ra trước tòa.

Ưu điểm: Thẩm phán khơng đưa ra bình luận cho tới khi đã nghe hết bằng chứng hai bên đưa ra. Điều này sẽ khiến thẩm phán trung lập hơn, vì họ chỉ đưa ra phán quyết khi chứng cứ được trình bày đầy đủ.

Nhược điểm: Khâu tìm tịi bằng chứng sẽ hoàn toàn dựa vào nguồn lực của hai bên tranh tụng, và điều này dễ dẫn tới sự bất cơng. Ngồi ra, các bên sẽ chỉ đưa ra bằng chứng có lợi cho mình và bỏ đi bằng chứng khách quan khác.

- Tại Việt Nam là một trong các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa - bắt nguồn từ Dân luật và sau đó được điều chỉnh cho phù hợp với tư tưởng của học thuyết Mác – Lê-nin. Vai trò của thẩm phán Việt Nam nói chung và của cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng tương đối giống với người đồng cấp ở hệ thống Dân luật, tức là họ cũng phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật thành văn khi giải quyết vụ án. Nhưng một đặc điểm khác của thẩm phán Việt Nam là dù quyết định của tòa cấp dưới là độc lập với các phán quyết của tòa cấp cao, nhưng khi gặp vấn đề pháp lý khó giải quyết, tòa án cấp dưới thường gửi đơn xin ý kiến của tòa cấp cao hơn. Đây chỉ là sự khác biệt về văn hóa pháp lý của các nước, khơng làm ảnh hưởng tới sự khách quan của tịa án.

Vai trị của Thẩm phán trong cơng tác xét xử. "Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án". Là chức danh cán bộ tạo nên thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ, cơng chức của Tồ án nhân dân, có vai trị chủ yếu trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân, đảm nhiệm nghiêm nghiệp vụ công việc và chấp hành

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

đúng các nội quy công việc, đưa ra những quyết định đúng đắn và có đạo đức làm việc đúng người đúng tội. Thẩm phán Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử một vụ kiện hay xét xử một vụ vi phạm pháp luật bị Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn đề nghị truy tố trước pháp luật.Luôn tuân thủ chủ chương làm việc và hết mình vì cơng việc để thăng tiến giúp cho cơ quan làm việc đạt được mục tiêu đã đề ra. Sau nhiều năm kể từ ngành toà án ra đời đã có nhiều chủ chương chính sách tuyển dụng Thẩm phán các chỉ tiêu ngày càng nghiêm ngặt và khắt khe để có được Thẩm phán nghiêm chính và có năng lực cơng việc giúp cho ngành tồ án nói riêng và đất nước ta nói chung được ngày một phát triển, cơng bằng, liêm chính. Thẩm phán khơng chỉ có vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn có vai trị quyết định trong tồn bộ hoạt động tố tụng tư pháp theo quy định của pháp luật. Nói một cách khác, Thẩm phán là người có vai trị chính trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Toà án. Cũng như vậy, Thẩm phán cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội có vai trị chính trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện.

+ Thứ nhất: Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước để phán quyết, do đó các phán quyết của Thẩm phán tòa án nhân dân các cấp được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Chỉ có Thẩm phán mới có tư cách nhân danh Nhà nước thực hiện công việc xét xử để phán xét một người có tội hay khơng có tội, tun một bản án để định rõ tội trạng và hình phạt tương ứng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và giải quyết các tranh chấp khi có u cầu tại Tồ án. Một ngun tắc được thừa nhận chung của nền văn minh pháp lý nhân loại và được quy định trong pháp luật Việt Nam là: "Không ai được coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án của Tồ án có hiệu lực pháp luật" Khác với hoạt động lập pháp và hành pháp, hoạt động xét xử không những nhân danh Nhà nước mà còn nhân

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

danh cơng lý. Vì nhiều khi Thẩm phán cịn phải xét xử cả quyết định và hành vi của cơ quan Nhà nước. Vì vậy, chủ thể của hoạt động Tư pháp không chỉ căn cứ vào pháp luật mà cịn căn vào cơng lý, nhất là đối với các vụ án hình sự. Khi đó, Tồ án chỉ nhân danh Nhà nước thì khơng đúng với bản chất của hoạt động Tư pháp, sẽ có sự thiên lệch, cho lên Thẩm phán phải nhân danh công lý, trong nhiều trường hợp nhân danh Nhà nước cũng là nhân danh công lý.

Trong xã hội ta, việc kết tội một công dân là việc làm hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng, sức khoẻ, tự do, nhân phẩm, danh dự, tài sản cũng như các quyền và lợi ích của họ "Bản án đối với người phạm tội là một sự kiện quan trọng đối với bản thân họ, đối với gia đình họ, đối với xã hội". Và chính vì thế mà chỉ có Tịa án mà trung tâm là Thẩm phán có đủ điều kiện, được pháp luật giao quyền xác định một người có tội hay khơng có tội và áp dụng loại và mức hình phạt nào cho phù hợp pháp luật, đảm bảo thực hiện mục đích trừng trị kết hợp với cải tạo và giáo dục, kết hợp giữa phòng ngừa riêng và phịng ngừa chung của hình phạt. Trong điều kiện hiện nay chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ Quốc tế, tiến hành cải cách Tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Thẩm quyền của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện ngày càng được mở rộng, bên cạnh việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, Thẩm phán cấp huyện còn được xét xử các vụ án tranh chấp kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hành chính ( đối với Thẩm phán lãnh đạo của Tòa án nhân dân cấp huyện), lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật sẽ ngày càng nhiều lên. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay thì "Tồ án là cơ quan cơng lý, là Toà án của

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

nhân dân, là bộ phận cấu thành quan trọng, không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền XHCN"Và như Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ: Toà án có vai trị trung tâm của hệ thống Tư pháp và xét xử là trọng tâm của hoạt động Tư pháp. Mọi hoạt động tố tụng mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành, thậm chí các hoạt động của các cơ quan bổ trợ Tư pháp như: cơ quan Giám định, Công chứng, Tổ chức luật sư đều chỉ có ý nghĩa trợ giúp cho hoạt động xét xử của Toà án, của các Thẩm phán.

+ Thứ hai: Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, xuất phát từ vùng đặc thù kinh tế, chính trị Thủ đơ của cả nước, bằng hoạt động xét xử của mình, Thẩm phán cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, Tư pháp. Với tư cách là một trong ba nhánh quyền lực. Hoạt động của Thẩm phán cấp huyện không chỉ là một hoạt động áp dụng pháp luật đơn thuần để giải quyết những vi phạm pháp luật cụ thể, mà bằng hoạt động của mình, Thẩm phán đã tác động tích cực trở lại đối với hoạt động lập pháp và hành pháp, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quản lý hành chính, các hành vi hành chính. Thẩm phán Lãnh đạo Tịa án nhân dân cấp huyện được giao giải quyết vụ án hành chính cịn có thể kiểm sốt tính hợp pháp của hành vi hành chính trên địa bàn quận, huyện. Sự Tài phán của thể chế Tư pháp đối với hành vi của lập pháp và hành pháp có ý nghĩa kiểm sốt tính hợp pháp, hợp hiến hành vi của chính quyền, một yêu cầu chủ yếu của Nhà nước pháp quyền như Ăng ghen đã chỉ rõ: "Điều kiện đầu tiên của tự do, đó là tất cả các quan chức Nhà nước đều phải chịu trách nhiệm về hành vi chức vụ của mình đối với bất kỳ cơng dân nào trước Tồ án". Chính vì thế, việc xét xử được tiến hành

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

theo những thủ tục rất chặt chẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự... Còn việc xử lý của các cơ quan hành chính Nhà nước được tiến hành theo các thủ tục đơn giản hơn, nhanh gọn hơn. Thủ tục xét xử đó là những quy định pháp lý Dân chủ, cơng khai và có hiệu lực thực thi cao hơn các thủ tục xử lý hành chính. Vì thế khi tham gia xét xử, các Thẩm phán không chỉ địi hỏi chính xác về nội dung và cịn phải đảm bảo đầy đủ, đúng đắn về thủ tục. Bằng việc xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật chẳng những có tác dụng trừng trị kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo họ mà đồng thời cịn góp phần phịng ngừa ngăn chặn tội phạm.

Trong điều kiện Hà Nội mở rộng hiện nay, chất lượng đội ngũ Thẩm phán cấp huyện càng cần phải được nâng cao, phát triển đồng đều trên cả 30 Tòa án quận, huyện trong địa bàn để tạo ra được trật tự pháp luật, làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, thực hiện có hiệu quả chính sách quản lý xã hội kết hợp biện pháp giáo dục phòng ngừa là cơ bản và trấn áp trừng trị kẻ phạm tội. Đây chính là phương châm hoạt động thường xuyên, tích cực để đẩy lùi tội phạm và tạo điều kiện tốt cho cơng tác phịng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, và việc xét xử góp phần đắc lực cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng chính là sự đòi hỏi của người dân, đòi hỏi của xã hội đối với các Thẩm phán cấp huyện. Thẩm phán phải thật sự là chỗ dựa tin cậy của người dân "yêu cầu chung của đất nước đặt ra đối với các cơ quan Tư pháp nói chung, với ngành TAND nói riêng là phải phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, xây dựng nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân"

+ Thứ ba: Hoạt động xét xử của Thẩm phán cuối cùng được thể hiện bằng việc ra một bản án, quyết định, đó chính là sự thể hiện tập trung ở những giá trị xã hội; giá trị dân chủ, nhân bản và giá trị giáo dục tư tưởng. Bằng hoạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

động của mình "Tồ án phối hợp với cơ quan Nhà nước, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân trong việc phát huy tác dụng giáo dục của phiên toà và tạo điều kiện cho việc thi hành bản án, quyết định của Tồ án"

Bản án, quyết định của Thẩm phán khơng chỉ nhằm mục đích trừng trị đơn thuần về thể xác hoặc tinh thần mà chủ yếu giúp cho người phạm tội thấy được lỗi lầm, mở đuờng cho họ ăn năn hối cải, trở thành người cơng dân có ích cho xã hội. Giáo dục pháp luật qua hoạt động xét xử của Thẩm phá đã góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, giúp cho người dân hiểu luật mà còn thấy được cần phải có luật rong cuộc sống hàng ngày. Giáo dục pháp luật qua việc xét xử tại phiên tồ có ý nghĩa và vai trị rất to lớn, vì hoạt động xét xử là một dạng của hoạt động bảo vệ pháp luật, chủ yếu là vạch rõ hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Ngoài phương pháp thuyết phục, hoạt động xét xử tại các phiên toà là quá trình tác động trực tiếp lên ý thức và hành vi không những của cá nhân người vi phạm pháp luật và tội phạm và cịn của đơng đảo người đến tham dự phiên toà, nhằm tạo lên ý thức tuân thủ pháp luật của người dân. Giáo dục pháp luật qua hoạt động xét xử có sức mạnh và hiệu quả rất cao vì nó khơng phải chỉ là sự tun truyền bằng lời nói hay bằng văn bản bình thường, mà nó được thực hiện trực tiếp thơng qua các phiên tồ xét xử các vụ án, nhất là thông qua các phiên tồ lưu động, bằng cả q trình tố tụng, bằng sự phán quyết công minh và bằng chính bản thân các bản án, quyết định đúng pháp luật. Và "Bằng kết quả xét xử, Toà án là nơi thể hiện sâu sắc nhất của bản chất Nhà nước ta, của nền công lý nước ta, Toà án của chế độ ta là Toà án của nhân dân, do dân và vì nhân dân phục vụ"

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

+ Thứ tư: Thông qua hoạt động xét xử, Thẩm phán có vai trị bảo đảm thực hiện các quyền Dân chủ, các quyền con người. Các giá trị chung của quyền con người: danh dự, nhân phẩm, các quyền về kinh tế, chính trị - xã hội được Tồ án bảo vệ thông qua công tác xét xử như: quyền yêu cầu Tồ án bảo vệ; ngun tắc suy đốn vô tội, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bất khả xâm phạm cá nhân, quyền bất khả xâm phạm đời tư, điều đó thể hiện sự dân chủ của một xã hội, sự tôn trọng con người của xã hội. Đặc biệt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. Điều đó cũng được thể hiện thông qua sự độc lập xét xử xủ Tồ án.

<i><b>- Thẩm phán là người có vị trí trung tâm trong hoạt động tư pháp </b></i>

Để đưa ra được các quyết định khởi, truy tố và xét xử vụ án, cơ quan và người tiến hành tố tụng phải đưa vào các chứng cứ và các quy định của pháp luật về các hoạt động tố tụng này. Về nguyên tắc, các chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập có trong hồ sơ vụ án, và các chứng cứ do các bên đương sự hay người đại diện hợp pháp, luật sư bào chữa của họ trong vụ án đưa ra đều khơng có giá trị; Nếu các chứng cứ đó khơng được Hội đồng xét xử thẩm tra đánh giá tại phiên tồ.

Trong mối liên hệ đó, nếu việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật của thẩm phán không đúng đắn và đầy đủ, hoặc vì lý do nào đó chỉ hồn tồn dựa vào chứng cứ và những tài liệu có trong hồ sơ do cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập mà khơng có sự đối chiếu, kiểm tra kết luận một cách khách quan, tồn diện về tính đúng đắn và hợp pháp của các chứng tại phiên tồ, thì việc phán quyết của Tồ án sẽ khơng đảm bảo được yêu cầu khách quan là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

<i><b>- Thẩm phán là người có vai trị quyết định trong hoạt động xét xử </b></i>

Trong hoạt động xét xử của TAND, Thẩm phán là nhân tố cơ bản, là nhân vật trung tâm. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm toàn bộ về những

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

phán quyết của mình kể cả việc phải chịu hậu quả pháp lý khi để xẩy ra sai sót. Chỉ có Thẩm phán mới có quyền nhân danh Nhà nước phán xử, để tuyên một bản án, để tun một người có tội hay khơng có tội. Hoạt động xét xử của Thẩm phán liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt hoạt động xét xử của Thẩm phán một mặt tác động tích cực đến đương sự này, mặt khác lại tác động tiêu cực đến đương sự khác. Vì vậy việc xét xử của Thẩm phán mang lại lợi ích cho nhiều người nhưng cũng khơng ít trường hợp đương sự khơng vừa lịng với quyết định của Tồ án. Các vụ án có được xét xử kịp thời, đúng pháp luật, trừng trị nghiêm khắc kẻ phạm tội, bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước và các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hay khơng? Việc xét xử của Tồ án có góp phần vào việc răn đe phòng ngừa các vi phạm pháp luật, và có tác dụng trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân hay không phụ thuộc rất nhiều vào Thẩm phán cấp huyện Tồ án. Đảm bảo sự cơng bằng trong hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý, do vậy công bằng trong hoạt động xét xử là yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động nghề nghiệp của người Thâm phán. Như trong thư gửi Hội nghị cán bộ tư pháp toàn quốc năm 1948, Chủ tich Hồ Chí Minh đã nói: "Phụng cơng, thủ pháp, chí cơng, vơ tư". Công bằng trong xét xử là công bằng đối với tất cả mọi người, bất kể người đó là ai, giữ cương vị gì, chức vụ gì đều phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng tội trạng và hậu quả của hành vi phạm tội. Công bằng ở đây là không được thiên lệch, không được nhân nhượng về bên nào, tất cả các đượng sự, bị cáo không phân biệt thành phần xuất thân, địa vị xã hội, thành phần kinh tế đều phải được bình đẳng như nhau trước pháp luật, các hành vi, quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Thẩm phán nhìn nhận đánh giá một cách khách quan giữa hành vi phạm tội và trách nhiệm trước pháp luật của tội phạm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Xác định tội danh đúng là tiền đề quan trọng để cho việc lượng hình đảm bảo khách quan, đảm bảo chính xác, đảm bảo sự cơng bằng. Quyết định hình phạt cơng bằng có nghĩa là hình phạt được tuyên đối với bị cáo phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của bị cáo thực hiện. Sự tương xứng ấy cũng thể hiện khắc phục những mặc cảm, những định kiến, những khuynh hướng cực đoan dễ nẩy sinh trong tâm lý người xét xử, cơng bằng cịn địi hỏi các quyền của đương sự, của bị cáo, người bị hại phải được bảo vệ bằng pháp luật. Một địi hỏi nữa của cơng bằng là người không phạm tội phải được minh oan và được khôi phục mọi quyền lợi đầy đủ và kịp thời theo Nghị quyết 388 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

ĐNTP cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội là lưc lượng nòng cốt để giải quyết các vụ án tại cấp Sơ thẩm, có vị trí, vai trị quyết định trong việc triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tại cấp cơ sở.

Có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước nói chung, chính quyền cấp cơ sở nói riêng, góp phần tuyên truyền, giải thích pháp luật rộng rãi bởi vì họ là những người trực tiếp gắn bó với địa phương, am hiểu tâm tư, nguyện vọng của địa phương, đồng thời đưa ra những đóng góp pháp luật để hệ thống pháp luật hoàn thiện hơn nữa.

Thẩm phán cấp huyện còn là người trực tiếp hòa giải những mâu thuẫn, xung đột, những tranh chấp khởi kiện trong nhân dân, hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân…Việc xét xử đúng người đúng tội, đúng bản chất của sự việc tạo nên một nền pháp quyền công bằng, bình đẳng, giúp người dân có niềm tin vào hệ thống pháp luật của nước nhà.

<i><b>- Thẩm phán là người có vị trí trung tâm trong hoạt động tư pháp </b></i>

Để đưa ra được các quyết định khởi, truy tố và xét xử vụ án, cơ quan và người tiến hành tố tụng phải đưa vào các chứng cứ và các quy định của pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

luật về các hoạt động tố tụng này. Về nguyên tắc, các chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập có trong hồ sơ vụ án, và các chứng cứ do các bên đương sự hay người đại diện hợp pháp, luật sư bào chữa của họ trong vụ án đưa ra đều khơng có giá trị; Nếu các chứng cứ đó khơng được Hội đồng xét xử thẩm tra đánh giá tại phiên tồ.

Trong mối liên hệ đó, nếu việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật của thẩm phán không đúng đắn và đầy đủ, hoặc vì lý do nào đó chỉ hồn tồn dựa vào chứng cứ và những tài liệu có trong hồ sơ do cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập mà khơng có sự đối chiếu, kiểm tra kết luận một cách khách quan, tồn diện về tính đúng đắn và hợp pháp của các chứng tại phiên toà, thì việc phán quyết của Tồ án sẽ khơng đảm bảo được yêu cầu khách quan là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

<i><b>- Thẩm phán là người có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử </b></i>

Trong hoạt động xét xử của TAND, Thẩm phán là nhân tố cơ bản, là nhân vật trung tâm. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm toàn bộ về những phán quyết của mình kể cả việc phải chịu hậu quả pháp lý khi để xẩy ra sai sót. Chỉ có Thẩm phán mới có quyền nhân danh Nhà nước phán xử, để tuyên một bản án, để tuyên một người có tội hay khơng có tội. Hoạt động xét xử của Thẩm phán liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt hoạt động xét xử của Thẩm phán một mặt tác động tích cực đến đương sự này, mặt khác lại tác động tiêu cực đến đương sự khác. Vì vậy việc xét xử của Thẩm phán mang lại lợi ích cho nhiều người nhưng cũng không ít trường hợp đương sự không vừa lịng với quyết định của Tồ án. Các vụ án có được xét xử kịp thời, đúng pháp luật, trừng trị nghiêm khắc kẻ phạm tội, bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước và các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân hay khơng? Việc xét xử của Tồ án có góp phần vào việc răn đe phịng ngừa các vi phạm pháp luật, và có tác dụng trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân hay không phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ Thẩm phán Tồ án. Đảm bảo sự cơng bằng trong hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý, do vậy công bằng trong hoạt động xét xử là yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động nghề nghiệp của người Thâm phán. Như trong thư gửi Hội nghị cán bộ tư pháp toàn quốc năm 1948, Chủ tich Hồ Chí Minh đã nói: "Phụng cơng, thủ pháp, chí cơng, vơ tư". Cơng bằng trong xét xử là công bằng đối với tất cả mọi người, bất kể người đó là ai, giữ cương vị gì, chức vụ gì đều phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng tội trạng và hậu quả của hành vi phạm tội. Công bằng ở đây là không được thiên lệch, không được nhân nhượng về bên nào, tất cả các đượng sự, bị cáo không phân biệt thành phần xuất thân, địa vị xã hội, thành phần kinh tế đều phải được bình đẳng như nhau trước pháp luật, các hành vi, quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Thẩm phán nhìn nhận đánh giá một cách khách quan giữa hành vi phạm tội và trách nhiệm trước pháp luật của tội phạm. Xác định tội danh đúng là tiền đề quan trọng để cho việc lượng hình đảm bảo khách quan, đảm bảo chính xác, đảm bảo sự cơng bằng. Quyết định hình phạt cơng bằng có nghĩa là hình phạt được tuyên đối với bị cáo phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của bị cáo thực hiện. Sự tương xứng ấy cũng thể hiện khắc phục những mặc cảm, những định kiến, những khuynh hướng cực đoan dễ nẩy sinh trong tâm lý người xét xử, công bằng còn đòi hỏi các quyền của đương sự, của bị cáo, người bị hại phải được bảo vệ bằng pháp luật. Một địi hỏi nữa của cơng bằng là người không phạm tội phải được minh oan và được khôi phục mọi quyền lợi đầy đủ và kịp thời theo Nghị quyết 388 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

<b>CHƯƠNG 2 </b>

<b>THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ THẨM PHÁN CỦA TỊẤN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<b>2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ Thẩm pháncủa Tòa án nhân dân cấp huyện ở Thành phố Hà Nội</b>

<i><b>2.1.1. Sứ mệnh bảo vệ công lý của đội ngũ Thẩm phán</b></i>

Hiến pháp 2013 quy định: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, sau đó mới là nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tổ chức cá nhân. Tòa án phải là nơi mà mọi con người, mọi cơng dân tìm đến lẽ phải, tìm đến sự thật, đến sự cơng bằng. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm, người dân tìm đến Tịa án như là tìm đến cơng lý. Vì vậy, có thể nói, Tịa án là biểu tượng của cơng lý và có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý. Niềm tin của nhân dân vào Tịa án chính là niềm tin vào cơng lý.

Đặt trong bối cảnh đó thì điểm nghề nghiệp của Thẩm phán được đánh giá là rất quan trọng trong thực hiện sứ mệnh bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý của Tịa án. Bởi vì Thẩm phán là nhân vật trung tâm trong hệ thống Tòa án, đảm nhận nhiệm vụ xét xử các vụ án, giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ hiến định.

Khác với công chức khác trong bộ máy nhà nước, nghề Thẩm phán có những đặc điểm riêng biệt. Thẩm phán luôn luôn tiếp xúc trực tiếp với con người; kết quả công việc của Thẩm phán ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh chính trị cũng như tự nhiên của mỗi con người, ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng. Nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được hiến định cũng chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Thẩm phán.

Thẩm phán là người áp dụng pháp luật. Trên cơ sở xác định sự kiện pháp lý, sự thật khách quan của vụ án, Thẩm phán áp dụng quy định của pháp luật để phán quyết về vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý và phán quyết đó

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

làm phát sinh hậu quả đối với con người, đối với xã hội. Mọi hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán đều được thực hiện đúng với trình tự, thủ tục do pháp luật quy định; chịu sự tác động trực tiếp của pháp luật. Sự thật, pháp luật, công bằng, công lý luôn là những yếu tố song hành cùng Thẩm phán trong công việc cũng như cuộc sống thường nhật.

Đặc biệt, Thẩm phán là người được giao thực hiện quyền lực nhà nước, phán quyết liên quan đến sinh mệnh chính trị, tự nhiên của con người, đến lợi ích xã hội, cộng đồng… cho nên hoạt động của Thẩm phán luôn chịu sự kiểm soát của pháp luật; sự giám sát của cơ quan lập pháp, hành pháp; sự giám sát của dư luận xã hội và của nhân dân theo quy định của pháp luật. Ngoài sự giám sát từ bên ngồi, Thẩm phán cịn phải chịu sự giám sát trong nội bộ Tòa án.

Vậy nên, cùng với pháp luật, các quy chế hành nghề, quy phạm đạo đức của Thẩm phán là những công cụ cho việc giám sát, kiểm sốt bên trong hệ thống Tịa án. Đó cũng là những tiêu chí mà Thẩm phán căn cứ vào để sống và làm việc; các cơ quan có thẩm quyền và cơng chúng thực hiện việc kiểm sốt, giám sát.

Trong những năm qua, mặc dù chúng ta chưa có Bộ Quy tắc đạo đức Thẩm phán, nhưng về cơ bản, Thẩm phán cấp huyện của Việt Nam đã thực hiện các hoạt động nghề nghiệp và ứng xử phù hợp, góp phần xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp trong xã hội thuộc thẩm quyền, bảo vệ cơng lý, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Tuy nhiên, do chưa có một văn bản chính thức mang tính ràng buộc về các quy chuẩn đạo đức, các quy tắc ứng xử nghề nghiệp, dẫn đến tình trạng chưa có nhận thức thống nhất về các chuẩn mực về sự liêm chính, sự vơ tư, khách quan mà Thẩm phán cần có; chưa có nhận thức đầy đủ về quy tắc ứng

</div>

×