Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ XÂY DỰNG ĐẢNG - CHẤT LƯỢNG QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT CHO ĐẢNG VIÊN ở ĐẢNG bộ HUYỆN BA vì, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.2 KB, 117 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban chấp hành

BCH

Báo cáo viên

BCV

Bộ chính trị

BCT

Chính trị Quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Nhà xuất bản

Nxb

Phó giáo sư



PGS

Phó giáo sư. Tiến sĩ

PGS. TS


MỤC LỤC
Trang
më ®Çu

3

Chương

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ

1:

THỰC TIỄN CHẤT LƯỢNG QUÁN TRIỆT
NGHỊ QUYẾT CHO ĐẢNG VIÊN Ở ĐẢNG BỘ

1.1.

HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Nghị quyết lãnh đạo và những vấn đề cơ bản về chất

11


lượng quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ
1.2.

huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
Thực trạng chất lượng và một số kinh nghiệm nâng

11

cao chất lượng quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở
Chương

Đảng bộ huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN

2:

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUÁN TRIỆT

34

NGHỊ QUYẾT CHO ĐẢNG VIÊN Ở ĐẢNG
BỘ HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.

HIỆN NAY
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng

53

quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện

2.2.

Ba Vì hiện nay
Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng quán

53

triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì
hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

65
86
88
94


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi công tác quán triệt
nghị quyết là bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng, là một nhân tố
cấu thành quan trọng hàng đầu trong sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
Sinh mệnh của Đảng cũng như sự thành bại của cách mạng, có quan hệ trực
tiếp với hoạt động quán triệt nghị quyết của Đảng. Nghị quyết của Đảng là văn
kiện thể hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, mang ý nghĩa chính trị
rất quan trọng, vì nghị quyết xây dựng và xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ
của quốc gia trong mỗi thời kỳ cách mạng và trên từng lĩnh vực chính trị, kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, công tác xây dựng Đảng… Nghị quyết của

Đảng được xây dựng trên cơ sở yêu cầu phát triển của cách mạng trong mỗi hoàn
cảnh lịch sử cụ thể và trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định giá trị to lớn các nghị
quyết của Đảng.
Ba Vì là huyện nằm ở phía Tây của thành phố Hà Nội, diện tích tự nhiên là
425 km2, lớn nhất Thủ đô Hà Nội, với dân số gần 27 vạn người. Đảng bộ huyện
Ba Vì là một Đảng bộ lớn trực thuộc Thành ủy Hà Nội, với hơn 13.000 đảng viên,
có vai trò rất quan trọng trong xây dựng Đảng bộ thành phố Hà Nội trong sạch
vững mạnh. Để xây dựng Đảng bộ huyện Ba Vì trong sạch vững mạnh, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh của huyện lên một tầm cao mới,
một trong những vấn đề hết sức quan trọng là phải làm tốt công tác quán triệt nghị
quyết cho đảng viên trong Đảng bộ.
Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, cấp ủy và chính quyền các cấp ở
huyện Ba Vì đã thường xuyên quan tâm chăm lo đến công tác quán triệt nghị
quyết cho đảng viên.
Công tác tuyên truyền, quán triệt nghị quyết ở Đảng bộ huyện Ba Vì đã đạt
được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết
điểm. Nội dung tuyên truyền, quán triệt chưa theo kịp với tình hình mới; hình thức
3


tuyên truyền, quán triệt còn thiếu sức thuyết phục, chất lượng tuyên truyền, quán
triệt còn thấp. Việc tuyên truyền, phổ biến các nghị quyết chưa được tổ chức tốt
và chưa tìm được cách làm hay. Số lượng lớp học được tổ chức cũng như số lượt
đảng viên tham gia học tập nghị quyết tuy lớn, nhưng sự chuyển biến về nhận
thức, tư tưởng còn chậm. Trong quá trình thực hiện, một số đảng viên và cấp ủy
chưa quan tâm đầy đủ đến nghị quyết của Đảng, không căn cứ vào nghị quyết
để hành động và kiểm tra công việc của mình; còn làm những việc không đúng
với nghị quyết. Công tác chỉ đạo, điều hành của cấp ủy các xã, thị trấn, các
đảng bộ trực thuộc chưa có sự đổi mới, vẫn làm theo nếp cũ, còn nhiều bất cập,

thiếu kiểm tra, đôn đốc, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả
chưa cao. Một số cơ sở chưa gắn việc quán triệt nghị quyết với việc tổ chức
thực hiện nghị quyết, chưa chuyển hóa nhận thức thành hành động, làm cho
nghị quyết chậm đi vào cuộc sống. Trong quá trình tổ chức học tập, triển khai
nghị quyết của Đảng, còn một số chi bộ, đảng bộ cơ sở chưa phát huy được
trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy…
Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế, yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng Đảng … đòi hỏi mỗi đảng viên
phải thực sự tiên phong trong việc nắm vững, vận dụng sáng tạo và thực hiện
nghiêm túc mọi quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên
các lĩnh vực. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quán triệt nghị quyết cho đảng
viên vừa là vấn đề cơ bản và cấp thiết, vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Với
những lý do đó, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Chất lượng quán triệt nghị
quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay” làm
đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quán triệt nghị quyết cho đảng viên là một vấn đề lớn, có ý nghĩa rất
quan trọng. Vì vậy, những năm qua đã có nhiều đề tài, bài viết đề cập đến việc

4


nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết cho đảng viên và nhân
dân, trong đó phải kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
PGS. TS Đàm Đức Vượng (2005), Xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị
quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng - thực trạng và giải pháp, Đề tài độc lập
cấp Nhà nước mã số ĐTĐL - 2005/16. Theo các tác giả, kể từ Nghị quyết Hội
nghị Trung ương đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930) đến
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá X (tháng 7-2006), đã có 197 nghị quyết

hội nghị BCH Trung ương. Trong Báo cáo tổng hợp, các tác giả đã nghiên cứu hệ
thống ba mảng vấn đề lớn: (1) Về quá trình xây dựng nghị quyết của BCH Trung
ương Đảng; (2) Về quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết Trung ương, trong đó có
vấn đề thể chế hoá nghị quyết thành luật và các văn bản pháp quy khác; (3) Về
những giải pháp chủ yếu bảo đảm nâng cao chất lượng xây dựng và hiệu quả tổ
chức thực hiện nghị quyết của Trung ương trong giai đoạn mới của cách mạng
nước ta. Đề tài đã đưa ra nhiều kiến nghị trong đó đáng lưu ý là ba quy trình: Quy
trình soạn thảo và thông qua nghị quyết tại hội nghị BCH Trung ương Đảng, gồm
10 bước; Quy trình thể chế hoá các nghị quyết BCH Trung ương Đảng thành luật,
pháp lệnh, gồm 10 bước; Quy trình tổ chức thực hiện các nghị quyết BCH Trung
ương Đảng, cũng gồm 10 bước.
TS. Hoàng Quốc Bảo (2006), Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng
Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội. Thông qua nội dung cuốn sách, tác giả muốn
đóng góp thêm ý kiến của mình vào việc tìm hiểu nguồn gốc và nêu lên những đặc
trưng cơ bản của phương pháp tuyên truyển Hồ Chí Minh; nghiên cứu thực trạng
phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng
của Đảng. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao, đổi mới
phương pháp tuyên truyền của đội ngũ cán bộ tư tưởng theo phương pháp tuyên
truyền Hồ Chí Minh.
PGS. TS Ngô Văn Thạo (Chủ biên), (2008), Phương pháp giảng dạy lý luận
chính trị (Chương trình bồi dưỡng chuyên đề dành cho giảng viên giảng dạy các
chương trình lý luận chính trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện), Nxb
5


Lao động Xã hội, Hà Nội. Trong cuốn sách các tác giả đã khái quát chung về lý
luận chính trị và giáo dục lý luận chính trị; một số vấn đề tâm lý và giáo dục học
trong giảng dạy học lý luận chính trị, phẩm chất nghề nghiệp, nghệ thuật diễn
giảng, kiểm tra, đánh giá trong dạy học lý luận chính trị.
PGS. TS Phạm Huy Kỳ (2010), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo

dục lý luận chính trị, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn
sách trình bày một số vấn đề lý luận và phương pháp của công tác nghiên cứu, giáo
dục lý luận chính trị và công tác nghiên cứu, biên soạn giáo trình lịch sử đảng bộ
địa phương. Riêng phần lý luận và phương pháp giáo giáo dục lý luận chính trị,
cuốn sách chủ yếu tập trung trình bày lý luận và phương pháp dạy học lý luận chính
trị - nội dung hoạt động chủ yếu trong hệ thống giáo dục lý luận chính trị của Đảng
ta hiện nay.
Trương Minh Tuấn (2012), Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở Tây
Nguyên trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh. Trong luận án, tác giả đã làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận về tư tưởng và công tác tư tưởng ở Tây Nguyên hiện nay. Luận án
đã đánh giá thực trạng tư tưởng của cán bộ, đảng viên và đồng bào các dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên, từ đó rút ra một số kết luận. Những biểu hiện tích
cực: phần lớn cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự điều hành, quản lý của Chính phủ và các cấp chính quyền. Những
giá trị, bản sắc văn hóa đồng bào các dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Nguyên
đã góp phần quan trọng tạo nên ý thức đoàn kết dân tộc, sự gắn bó trung
thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, từng bước ổn định tư tưởng của
đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Tác giả trình bày và phân tích các nguyên
tắc, quan điểm qua đó đề xuất những giải pháp đổi mới công tác tư tưởng của
Đảng ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), Chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ
Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ
6


chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội. Luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về chất
lượng công tác tư tưởng của Đảng, đưa ra những đánh giá về thực trạng chất lượng
công tác tư tưởng của Đảng bộ Thành phố Hải Dương từ năm 2005 đến năm 2012.

Từ đó luận văn đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ thành phố Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
ThS. Trương Minh Tuấn (2010), “Không ngừng đổi mới phương pháp
công tác, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng ở Tây
Nguyên hiện nay”, Tạp chí Báo cáo viên, số (10). Bài báo nói lên thực trạng
kinh tế - xã hội và tình hình tư tưởng, chỉ ra những đặc thù của công tác tư
tưởng ở địa bàn Tây Nguyên. Do vậy việc đổi mới phương pháp công tác tư
tưởng ở Tây Nguyên phải tập trung vào: Đa dạng hóa, hiện đại hóa hình thức,
phương pháp công tác tư tưởng; tăng cường hình thức đối thoại dân chủ trong
công tác tư tưởng. Đổi mới công tác tư tưởng ở Tây Nguyên phải thường
xuyên tổng kết thực tiễn, rút ra những nhận định, đánh giá về kết quả, qua đó
giúp cho cấp ủy đảng nâng cao nhận thức, phát triển những vấn đề lý luận nói
chung và về công tác tư tưởng nói riêng.
TS. Lương Ngọc Vĩnh (2013) “Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác tư
tưởng ở cơ sở”, Tạp chí Tuyên giáo, số (8). Bài báo khẳng định nâng cao chất
lượng công tác tư tưởng ở cơ sở đảng là một đòi hỏi bức thiết trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đưa ra 5 nhóm tiêu chí đánh giá
chất lượng công tác tư tưởng ở cơ sở: Nhận thức và trách nhiệm của của cấp
ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp về công tác tư tưởng; chủ trương, biện
pháp, chương trình, kế hoạch tiến hành công tác tư tưởng; phẩm chất chính
trị, đạo đức, trình độ, năng lực chỉ đạo, tổ chức các hoạt động tư tưởng của
cấp uỷ và cơ quan tuyên giáo; sự chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy công
tác tư tưởng ở cơ sở; khả năng của cơ quan tham mưu và cấp uỷ trong giải

7


quyết những vấn đề tư tưởng nảy sinh, dự báo đúng tình hình và đấu tranh có
hiệu quả trên mặt trận tư tưởng.
PGS. TS Phạm Văn Linh (2014), “Công tác tư tưởng lý luận của

Đảng trong công cuộc đổi mới - thành tựu, hạn chế và bài học kinh
nghiệm”, Tạp chí Tuyên giáo, số (9). Bài báo đã nêu bật vai trò của công
tác tư tưởng gắn với những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…, đồng
thời chỉ ra một số hạn chế, yếu kém của công tác tư tưởng lý luận trong
thời gian qua, rút ra 5 bài học kinh nghiệm cho việc đổi mới công tác tư
tưởng lý luận trong thời gian tới.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên từ nhiều góc độ khác nhau đã đi
sâu nghiên cứu, luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất các
giải pháp thực hiện theo mục đích, nội dung và phạm vi nghiên cứu của mình. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về “Chất
lượng quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn chất lượng quán triệt
nghị quyết của Đảng, đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng quán
triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về chất lượng quán triệt nghị quyết
cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao chất lượng quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ
huyện Ba Vì.
- Đề xuất yêu cầu và những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng quán
triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì hiện nay.

8



4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng quán triệt nghị quyết lãnh
đạo của Đảng (bao gồm nghị quyết Đại hội toàn quốc, nghị quyết của BCH
Trung ương, BCT, của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, của Đảng bộ huyện Ba Vì)
cho đối tượng là đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì hiện nay và chủ yếu nghiên
cứu hình thức học tập, quán triệt nghị quyết.
Tiến hành điều tra, khảo sát tại một số đảng bộ xã, thị trấn và một số chi
bộ, đảng bộ trực thuộc Huyện ủy huyện Ba Vì.
Những tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát, đánh giá chủ yếu từ Đại hội
Đảng bộ huyện Ba Vì lần thứ XXI (2010) đến nay. Những yêu cầu và giải pháp
ứng dụng có giá trị đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng về công tác tư tưởng. Đồng thời kế
thừa, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các chuyên gia đầu
ngành, các công trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Hoạt động quán triệt nghị quyết, chất lượng quán triệt nghị quyết cho
đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì từ Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI
(2010) đến nay; các báo cáo tổng kết, các số liệu điều tra khảo sát thực tế tại
một số đảng bộ xã, thị trấn và một số chi bộ, đảng bộ trực thuộc Huyện ủy
huyện Ba Vì.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học

chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng các phương pháp: lôgic - lịch
9


sử, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, quan sát, điều tra xã hội học, tổng
kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về
công tác tư tưởng trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.
Cung cấp thêm những luận cứ khoa học, giúp cho các cấp lãnh đạo, nhất
là ở Đảng bộ huyện Ba Vì lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nâng cao chất
lượng quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ mình. Đồng thời, luận
văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy liên
quan vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 2 chương (4 tiết).

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHẤT LƯỢNG QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT CHO ĐẢNG
VIÊN Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Nghị quyết lãnh đạo và những vấn đề cơ bản về chất lượng quán
triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
1.1.1. Nghị quyết lãnh đạo và quán triệt nghị quyết
lãnh đạo cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì
* Khái lược một số nét về Đảng bộ huyện Ba Vì

Một số nét về huyện Ba Vì
Ba Vì là huyện nằm phía Tây của thành phố Hà Nội, phía Đông giáp thị xã
Sơn Tây, phía đông nam giáp huyện Thạch Thất, phía Nam giáp với huyện Lương
Sơn và Kỳ Sơn của tỉnh Hòa Bình, phía Bắc giáp với tỉnh Phú Thọ. Ba Vì là một
huyện bán sơn địa, diện tích tự nhiên 425 km2, lớn nhất Thủ đô Hà Nội. Trên địa
bàn có một phần lớn của dãy núi Ba Vì chạy qua phía Nam huyện.
Ba Vì có số dân số gần 27 vạn người, gồm 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao
cùng chung sống. Huyện có 31 xã, thị trấn (30 xã, 01 thị trấn), trong đó có 07 xã
miền núi, các xã miền núi đều có đồng bào dân tộc; 01 xã giữa bãi nổi sông Hồng;
xã xa trung tâm huyện nhất là xã miền núi Khánh Thượng (cách 40 km).
Ba Vì có nhiều thế mạnh để phát triển các loại hình du lịch nhờ lợi thế tự
nhiên. Ngoài ra ở đây còn có một bề dày văn hoá mang đậm nét Việt cổ. Quanh
núi Ba Vì, hồ Suối Hai đã hình thành các khu du lịch nổi tiếng được du khách
biết đến như: Vườn Quốc gia Ba Vì, Khoang Xanh - Suối Tiên, Ao Vua, Thác
Đa, Thiên Sơn - Thác Ngà, Đầm Long - Bằng Tạ, đồi cò Ngọc Nhị, Tản Đà
Resort, nước khoáng nóng Thuần Mỹ… Có thể nói, vùng đất thiêng sông núi đã
mang lại cho Ba Vì tiềm năng to lớn. Trong tương lai, du lịch sẽ trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần xây
dựng hình ảnh huyện Ba Vì và thủ đô Hà Nội văn minh hiện đại, đậm đà nét
truyền thống dân tộc.

11


Mặc dù thuộc địa phận của thành phố Hà Nội, nhưng huyện Ba Vì là địa
bàn còn nhiều khó khăn, xa trung tâm thành phố, có nhiều thành phần dân cư, dân
tộc cùng sinh sống. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quán triệt
Nghị quyết của Đảng cho đảng viên; đặc biệt ở những xã miền núi điều kiện kinh
tế còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quán triệt nghị quyết
Đảng còn chưa đáp ứng được yêu cầu.

Trong năm năm qua, kinh tế của huyện có bước phát triển đáng kể. Tốc độ
tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 14,4%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích
cực, thu nhập bình quân đầu người năm 2014 đạt 35 triệu đồng, đạt mục tiêu đề ra.
Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Văn hoá - xã hội của Huyện có tiến
bộ trên nhiều mặt, đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện và
nâng lên một bước. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng
trên địa bàn huyện được giữ vững và ngày càng được củng cố.
Những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ba Vì ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng quán triệt nghị quyết Đảng cho đảng viên. Địa bàn
huyện rộng, chia cắt với nhiều địa hình, sự phát triển không đồng đều giữa các xã
dẫn đến không ít khó khăn trong triển khai quán triệt nghị quyết Đảng cho đảng
viên, đặc biệt đối với những xã xa trung tâm, điều kiện đi lại còn khó khăn, cơ sở
vật chất phục vụ cho công tác quán triệt nghị quyết còn thiếu thốn. Tuy nhiên, đời
sống vật chất và tinh thần ngày một nâng cao đã củng cố thêm niềm tin của cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính
quyền huyện Ba Vì; đồng thời thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội chính là nguồn
tư liệu sống động trong mỗi buổi truyền đạt nghị quyết của Đảng, làm cho công
tác quán triệt nghị quyết gần gũi hơn với thực tiễn cuộc sống, thực sự là sự gắn kết
giữa lý luận và thực tiễn.
Một số nét về Đảng bộ huyện Ba Vì
Đảng bộ huyện Ba Vì được thành lập ngày 26/7/1968 với sự hợp nhất của 3
Đảng bộ: Quảng Oai, Bất Bạt, Tùng Thiện. Từ đây Đảng bộ huyện Ba Vì với sức
mạnh tổng hợp đã góp phần xây dựng hậu phương lớn ngày càng vững mạnh, chi
viện hơn nữa sức người, sức của cho tiền tuyến Miền Nam, góp phần đánh thắng
giặc Mĩ xâm lược và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Với những thành tích đặc biệt
12


xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Đảng bộ, nhân dân huyện
Ba Vì đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Năm

2013, nhân kỷ niệm 45 năm thành lập huyện, huyện Ba Vì đã được Nhà nước trao
tặng Huân chương độc lập hạng ba. Phát huy truyền thống anh hùng, ngày nay
Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì đã ra sức thực hiện công cuộc đổi mới, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của Đảng bộ huyện Ba Vì gồm: BCH Đảng bộ
huyện Ba Vì (gọi tắt là Huyện ủy Ba Vì), Ban thường vụ Huyện ủy và tập thể
Thường trực Huyện ủy. Giúp việc cho Huyện ủy có các cơ quan chức năng: Văn
phòng Huyện ủy, Ban tuyên giáo, Ban tổ chức, Ban dân vận và Ủy ban kiểm tra
Huyện ủy (xem phụ lục 1).
Trực thuộc Huyện ủy Ba Vì có các tổ chức cơ sở đảng, các tổ chức cơ sở
đảng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống chính
trị huyện, lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị; phát triển kinh tế - xã hội; củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở. Tính đến tháng 12 năm 2014 toàn huyện có 85
tổ chức cơ cở đảng (trong đó 31 đảng bộ xã, thị trấn; 14 đảng bộ và 40 chi bộ khối
cơ quan, doanh nghiệp); với 523 chi bộ.
Trong 85 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Huyện ủy: Năm 2014, có 84/85 cơ
sở được đánh giá xếp loại (01 cơ sở mới thành lập nên không đánh giá xếp loại).
Số tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh là 38 đơn vị, chiếm tỷ lệ 45,23%;
tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ là 38 đơn vị, chiếm tỷ lệ 45,23%; tổ
chức cơ sở đảng hoàn thành nhiệm vụ là 8 đơn vị, chiếm tỷ lệ 9,54%. Kết quả
đánh giá phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ huyện từ
năm 2010 được thể hiện qua phụ lục 2.
Đối với 523 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở: Năm 2014, có 518/523
chi bộ được đánh giá xếp loại (05 chi bộ mới thành lập không đánh giá
xếp loại). Số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh là 360 chi bộ, chiếm tỷ lệ
69,5%; chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 137 chi bộ, chiếm tỷ lệ 26,4%;
chi bộ hoàn thành nhiệm vụ là 21 chi bộ, chiếm tỷ lệ 4,1%. Kết quả đánh

13



giá phân loại chất lượng các chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở được thể
hiện qua phụ lục 3.
Về đội ngũ đảng viên, tính đến tháng 12 năm 2014, Đảng bộ huyện
Ba Vì có 13.155 đảng viên đang sinh hoạt 523 chi bộ. Năm 2014, có
10.827 đảng viên dự phân tích chất lượng, 195 đảng viên chưa đánh giá.
Số đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là 1.245 đảng viên, chiếm tỷ
lệ 11,49%; số đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ là 8.229 đảng viên,
chiếm tỷ lệ 76%; số đảng viên hoàn thành nhiệm vụ là 1.267 đảng viên,
chiếm tỷ lệ 11,7%; số đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ là 86 đảng
viên, chiếm tỷ lệ 0,8%. Kết quả đánh giá phân loại chất lượng đảng viên
được thể hiện qua phụ lục 4.
Đảng bộ huyện Ba Vì đặc biệt quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo đưa
nghị quyết của Đảng ở các cấp vào cuộc sống. Các chi, đảng bộ trực thuộc
cũng luôn chủ động trong công tác này. Tuy nhiên, Ba Vì là một huyện
miền núi, nhiều dân tộc, kinh tế còn nhiều khó khăn, xa trung tâm Thành
phố; nhận thức của một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Vì vậy việc thực
hiện các nghị quyết của Đảng trên tất cả các lĩnh vực còn những khó khăn
nhất định. Mặt khác quán triệt nghị quyết Đảng trong điều kiện địa bàn có
sự phân hóa lớn về thành phần dân cư, đa dạng về dân tộc đòi hỏi đội ngũ
BCV, đội ngũ truyền đạt nghị quyết ngoài những yêu cầu về trình độ,
phẩm chất, sự hiểu biết về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải
có sự am hiểu về văn hóa, phong tục của địa phương, cũng như ngôn ngữ,
đặc điểm tâm lý, nhu cầu của các đối tượng ở địa bàn dân tộc. Một số cấp
ủy đảng chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác
tuyên truyền, quán triệt nghị quyết. cán bộ, đảng viên chưa chủ động tham
gia tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
rộng rãi trong nhân dân. Đây cũng là một rào cản trong thực hiện nghị
quyết của Đảng.


14


* Nghị quyết của Đảng
“Nghị quyết” là thuật ngữ được sử dụng rất nhiều trong các văn bản, văn kiện,
tài liệu của Đảng và rất nhiều nước khác nhau trên thế giới cũng sử dụng thuật ngữ
này.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học Việt Nam, Nhà xuất
bản Đà Nẵng, xuất bản năm 2004, Nghị quyết là: “Quyết định đã được chính thức
thông qua ở hội nghị, sau khi vấn đề đã được tập thể thảo luận. Hội nghị thông
qua nghị quyết, chấp hành nghị quyết” [69, tr.678].
Khái niệm nghị quyết của Đảng
Nghị quyết của Đảng là một văn bản đặc biệt, rất quan trọng, nó liên quan
đến lợi ích trực tiếp của các giai cấp và các lực lượng xã hội.
Theo Quyết định số 31-QĐ/TW ngày 01/10/1997 của BCT, khóa VIII, Ban
hành Quy định về thể loại, thẩm quyền ban hành về thể thức văn bản của Đảng,
thì “Nghị quyết là văn bản ghi lại các quyết định được thông qua ở Đại hội, hội
nghị cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp, hội nghị đảng viên về đường lối, chủ
trương, chính sách, kế hoạch hoặc các vấn đề cụ thể” [12, tr.12].
Nghị quyết của Đảng có thể được phân ra làm hai loại: nghị quyết tổng
quan và nghị quyết chuyên đề.
Nghị quyết tổng quan là loại nghị quyết thông qua một cách tổng thể các
vấn đề chung: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH;
nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng như: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(1986), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII (1996), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X (2006), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011).
Nghị quyết chuyên đề là nghị quyết về một vấn đề cụ thể về chiến lược, chủ
trương, chính sách lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đối nội, đối ngoại, an ninh,

quốc phòng, xây dựng Đảng... nhằm cụ thể hóa Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng và nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng như: nghị quyết về

15


công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; về tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng;...
Cơ sở để quyết định những vấn đề cần ra nghị quyết xuất phát từ tình hình
thực tiễn và yêu cầu cấp bách nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng. Những vấn đề này
thường được xác định trong chương trình làm việc toàn khóa của các cơ quan lãnh
đạo của Đảng. Mỗi nghị quyết của Đảng là sự cụ thể hóa làm sâu sắc hơn đường
lối của Đảng, đảm bảo cho sự phát triển của cách mạng đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nghị quyết là cơ sở để Nhà nước thể chế hóa đường lối, quan điểm của
Đảng, thực hiện quyền hạn, trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với xã hội.
Như vậy, nghị quyết của Đảng là sản phẩm của trí tuệ tập thể, do các cơ
quan có thẩm quyền của Đảng ban hành theo quy định. Đó là những quyết định
chính trị, thể hiện chủ trương, quan điểm, đường lối, mục tiêu, giải pháp để thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội qua các
thời kỳ của cách mạng.
Trong thực tế, những vấn đề quan trọng mà Đảng quyết định được biểu
hiện bằng cách ghi rõ cụm từ “nghị quyết” và ghi tiêu đề của nghị quyết. Nhưng
cũng có lúc văn kiện BCH Trung ương, BCT, Ban Bí thư lại có dạng ghi “Chỉ
thị” hoặc “Kết luận” đi liền với tiêu đề chỉ thị, kết luận đó, có giá trị như nghị
quyết, thậm chí có nội dung tối quan trọng, được thực thi có hiệu lực mạnh hơn
nghị quyết.
Chỉ thị là văn bản dùng để chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức, cơ quan đảng cấp
dưới thực hiện các chủ trương, chính sách hoặc một số nhiệm vụ cụ thể.
Kết luận là văn bản ghi lại ý kiến chính thức của cấp ủy, tổ chức, cơ
quan đảng về những vấn đề nhất định hoặc về chủ trương, biện pháp xử lý

công việc cụ thể.
* Quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì
Quan niệm quán triệt nghị quyết cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì

16


Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2013: “Quán triệt là thông suốt, hiểu thấu đáo và
tuân thủ đầy đủ trong hoạt động” [73, tr.1289].
Quán triệt Nghị quyết của Đảng cho đảng viên là một nhiệm vụ rất quan
trọng của tất cả các Đảng cầm quyền. Đối với nước ta, quán triệt nghị quyết của
Đảng được Đảng ta thực hiện từ khi Đảng ra đời.
Qua quá trình thực tiễn, quán triệt nghị quyết của Đảng đã đóng vai trò to
lớn trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Song, từ trước đến nay, quán triệt nghị
quyết của Đảng thường được hiểu và quan niệm một cách chung chung như:
“Nghiên cứu, học tập nghị quyết và tổ chức thực hiện”, hay “Nghiên cứu, quán
triệt nghị quyết và đưa nghị quyết vào cuộc sống”, chưa có một khái niệm cụ thể
về quán triệt nghị quyết của Đảng. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi quan
niệm về quán triệt nghị quyết của Đảng như sau:
Quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội là hoạt động truyền bá của các cấp ủy, cơ quan chức năng về
nghị quyết của Đảng cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì, nhằm làm cho mọi
đảng viên có nhận thức đúng và thống nhất với những quan điểm của Đảng,
trên cơ sở đó góp phần hình thành, củng cố, phát triển thế giới quan, phương
pháp luận, bản lĩnh chính trị và tính tích cực, sáng tạo của họ, giúp cho đội ngũ
đảng viên thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trên
cương vị, chức trách được giao.
Quan niệm đó chỉ ra:
Mục đích của hoạt động quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên ở

Đảng bộ huyện Ba Vì: Mục đích cơ bản của quán triệt nghị quyết Đảng là giúp
cho đảng viên trong Đảng bộ nhận thức đúng, sâu sắc, thống nhất với nội dung
nghị quyết, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản,
phương pháp tư duy và phương pháp làm việc biện chứng, thực hiện nghiêm túc
nghị quyết của Đảng trên cương vị, chức trách được giao.
Chủ thể của hoạt động quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên ở
Đảng bộ huyện Ba Vì: Là Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trực tiếp là Huyện ủy
17


Ba Vì, các cấp ủy trong Đảng bộ huyện và các cơ quan chức năng như: Ban
tuyên giáo Trung ương, trực tiếp là Ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, Ban tuyên
giáo Huyện ủy Ba Vì, cán bộ tuyên giáo ở cơ sở, trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện, các BCV...
Đối tượng của hoạt động quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên ở
Đảng bộ huyện Ba Vì: Là toàn thể đảng viên trong Đảng bộ.
Nội dung của hoạt động quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên ở
Đảng bộ huyện Ba Vì: Nội dung của nghị quyết ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng quán triệt nghị quyết. Nghị quyết ra đời nhằm giải quyết những vấn đề
lý luận, thực tiễn trong cuộc sống nên nội dung quán triệt nghị quyết phải sâu
sắc, đúng trọng tâm, phù hợp với đặc điểm tình hình thực tiễn ở địa phương, đơn
vị, phù hợp với trình độ nhận thức của đối tượng, được thể hiện trong các nghị
quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, của BCH Trung ương, BCT, Ban
Bí thư; của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội, của Thành ủy, Ban
Thường vụ Thành ủy; của Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Ba Vì, của Huyện ủy,
Ban Thường vụ Huyện ủy; của Đại hội đại biểu hay Đại hội toàn thể đảng viên
của cơ sở, của các chi bộ. Trong đó bao gồm các vấn đề cơ bản sau:
Một là, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các định
hướng chiến lược trong từng thời kỳ, giai đoạn cụ thể;
Hai là, định hướng, chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo trong những lĩnh vực cụ

thể, chuyên đề cụ thể;
Ba là, thông tin tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và các yếu tố ảnh
hưởng đến việc triển khai, thực hiện nghị quyết;
Bốn là, các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng để hiện thực hóa nghị quyết,
đưa nghị quyết vào cuộc sống....
Hình thức, phương pháp của hoạt động quán triệt nghị quyết của Đảng:
Hình thức, phương pháp phải phong phú, đa dạng để thu hút sự chú ý của đối
tượng nhưng đồng thời phải cụ thể, không phức tạp hóa vấn đề để đối tượng dễ
nắm bắt và thực hiện.
Thông qua hoạt động giảng dạy của hệ thống trường lớp; tổ chức các lớp
bồi dưỡng chính trị...; tổ chức hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết; phổ biến,

18


quán triệt thông qua sinh hoạt của các tổ chức đảng và các tổ chức mà đảng viên
tham gia; ban hành sách, ấn phẩm thông tin chuyên đề, trang thông tin nội bộ…
để phổ biến nghị quyết; phổ biến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng:
truyền hình, hệ thống phát thanh cơ sở, báo, tạp chí…; tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu về nghị quyết qua đó quán triệt nghị quyết.
Phương tiện của hoạt động quán triệt nghị quyết của Đảng: Phương tiện
phải ngày càng hiện đại hóa để chuyển tải một cách nhanh nhất tinh thần của nghị
quyết đến đối tượng. Đặc biệt, sách, tài liệu liên quan đến nghị quyết phải cung
cấp đầy đủ.
Tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV, tuyên truyền viên, cộng tác viên dư
luận xã hội; hệ thống trường, lớp giáo dục lý luận chính trị; sinh hoạt của các tổ
chức đảng và các tổ chức mà đảng viên tham gia; các phương tiện thông tin đại
chúng; các thiết chế văn hóa, văn nghệ.
Đặc điểm của công tác quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên
huyện Ba Vì

Một là, quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba
Vì trong điều kiện Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Ba Vì có bề dày
truyền thống cách mạng trong kháng chiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đạt
được nhiều thành tích trong công cuộc đổi mới:
Huyện Ba Vì được hình thành từ 3 huyện Quảng Oai, Bất Bạt, Tùng Thiện,
thuộc vùng đất "địa linh nhân kiệt". Mảnh đất, con người với truyền thống quý
báu là nền tảng tinh thần to lớn, tạo điều kiện để nhân dân 3 huyện sớm đi theo
con đường cách mạng do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, vùng đồng bằng có "Vật
Lại oai hùng, Đồng Tâm anh dũng", đồng bào Mường - Dao ở miền núi hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo đảm an toàn khu đầu não kháng chiến của tỉnh Sơn
Tây. Năm 1954, hòa bình lập lại, Đảng bộ, nhân dân 3 huyện Quảng Oai, Bất Bạt,
Tùng Thiện chung sức khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, với nhiều phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp. Những
năm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, nhân dân 3 huyện
hăng hái thi đua thực hiện các phong trào "Tay cày, tay súng", "Tay búa, tay súng"
19


sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, tăng cường chi viện cho tiền tuyến vì miền Nam ruột
thịt góp phần cùng cả dân tộc giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
thống nhất đất nước.
Bước vào công cuộc đổi mới xây dựng và phát triển huyện Ba Vì, cán bộ
và nhân dân trong huyện ra sức thi đua đạt những thành tựu mới trong xây dựng
Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh; kinh tế - xã hội
phát triển bền vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân thường xuyên được củng cố, tăng cường, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Đảng bộ huyện đã thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"; quán
triệt và triển khai có hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh, xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh, diện mạo nông thôn, miền núi ngày
càng khởi sắc, đời sống nông dân được nâng cao.
Với bề dày truyền thống cách mạng trong kháng chiến, xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Ba Vì đã vinh
dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân ngày 20/8/1978; 19/31 xã, thị trấn và lực lượng công an huyện
được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 430
bà mẹ được phong tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam Anh hùng"; 29.400 huân, huy
chương các hạng được trao tặng...
Chính bề dày truyền thống cách mạng trong kháng chiến, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đạt được nhiều thành tích trong công cuộc đổi mới của Đảng bộ
và nhân dân các dân tộc huyện Ba Vì là tiền đề thuận lợi, là một đặc điểm cơ bản
trong công tác quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên trong toàn huyện.
Hai là, công tác quán triệt được tiến hành trên địa bàn một huyện miền núi
rất rộng (425 km2), lớn nhất Thủ đô Hà Nội, kinh tế còn nhiều khó khăn, xa trung
tâm thành phố, có nhiều dân tộc sinh sống:
Mặc dù thuộc địa phận của thành phố Hà Nội, nhưng những đặc điểm về tự
nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ba Vì ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng quán
triệt nghị quyết Đảng cho đảng viên. Địa bàn rộng, chia cắt với nhiều địa hình, sự
20


phát triển không đồng đều giữa các xã dẫn đến không ít khó khăn trong triển khai
quán triệt nghị quyết Đảng cho đảng viên, đặc biệt đối với những xã xa trung tâm,
điều kiện đi lại còn khó khăn, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quán triệt nghị
quyết còn thiếu thốn.
Ba là, Đảng bộ huyện Ba Vì có nhiều loại hình tổ chức cơ sở
đảng; đội ngũ đảng viên đông, bao gồm nhiều đối tượng, độ
tuổi, sự rèn luyện, trải nghiệm qua thực tiễn, trình độ chuyên
môn, trình độ lý luận chính trị ... không đều:

Đảng bộ huyện Ba Vì có nhiều loại hình tổ chức cơ sở đảng. Tính đến tháng
12 năm 2014 toàn huyện hiện có 85 tổ chức cơ cở đảng (trong đó 31 đảng bộ xã, thị
trấn; 14 đảng bộ và 40 chi bộ khối cơ quan, doanh nghiệp); với 523 chi bộ Đảng. Số
lượng đảng viên đông 13.155 đảng viên, bao gồm nhiều đối tượng khác nhau:
Hiện nay có 626 đảng viên được tặng Huy hiệu từ 30 tuổi Đảng trở lên;
Đảng viên đương chức và đang làm việc: 9.140 đồng chí; Đảng viên nghỉ hưu,
mất sức: 2.224 đồng chí; Đảng viên nông thôn: 4.314 đồng chí; Đảng viên miễn
sinh hoạt: 1.755 đồng chí; Đảng viên người dân tộc: 1.274 đồng chí.
Về trình độ chuyên môn của đảng viên: THPT có 6.569 đồng chí; Công
nhân kỹ thuật: 545 đồng chí; Trung cấp: 1.968 đồng chí; Cao đẳng: 1.370 đồng
chí; Đại học: 2.638 đồng chí; Thạc sĩ: 65 đồng chí.
Về trình độ lý luận chính trị: Trung cấp chính trị: 1.034 đồng chí; Cao cấp
chính trị: 109 đồng chí.
Về độ tuổi của đảng viên: Độ tuổi từ 18 - 30: có 2.248 đồng chí; Độ tuổi từ
31- 40: có 3.152 đồng chí; Độ tuổi từ 41- 50: có 2.290 đồng chí; Độ tuổi từ 5160: có 2.326 đồng chí; Độ tuổi 61 trở lên có: 3.139 đồng chí [10, tr.14,15].
Bốn là, đội ngũ BCV, tuyên truyền viên khá đông nhưng trình độ không
đều, chất lượng một số BCV còn hạn chế:
Những năm qua, Ban tuyên giáo Huyện ủy đã tham mưu cho Ban Thường
vụ Huyện ủy xây dựng được đội ngũ BCV đảm bảo về số lượng và chất lượng.
21


Hiện nay, BCV cấp huyện có 27 đồng chí được kiện toàn hàng năm, chủ yếu là
đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo cấp huyện, giảng viên Trung tâm Bồi
dưỡng chính trị huyện, các Ban Đảng và Bí thư Đảng ủy các xã, thị trấn trên địa
bàn huyện. Trong đó về trình độ học vấn có 23/27 đồng chí có trình độ chuyên
môn là Đại học, 12/27 đồng chí có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị,
15/27 đồng chí có trình độ Trung cấp lý luận chính trị, 04/27 đồng chí có trình độ
chuyên môn là Trung cấp. 01 đồng chí Trưởng Ban tuyên giáo, 02 đồng chí là Phó
Ban tuyên giáo, 02 đồng chí là chuyên viên Ban tuyên giáo, 06 đồng chí là trưởng,

phó các ban, ngành và 16 đồng chí là Bí thư Đảng ủy cơ sở.
Tổng số đội ngũ BCV, tuyên truyền viên cơ sở trên địa bàn huyện có 624
đồng chí (BCV là 31 đồng chí, tuyên truyền viên là 593 đồng chí). Về trình độ
chuyên môn: 115/624 đồng chí có trình độ Đại học (18,4%), 107/624 đồng chí có
trình độ Cao đẳng (17,1%), 142/624 (22,8%) đồng chí có trình độ Trung cấp; Về
lý luận chính trị: 16/624 (2,6%) đồng chí có trình độ Cao cấp lý luận, 186/624
(29,8%) đồng chí có trình độ Trung cấp lý luận, 59/624 (9,5%) đồng chí có trình
độ Sơ cấp lý luận [10, tr.16].
Với sự tổ chức hoạt động toàn diện trên địa bàn huyện, lực lượng đội ngũ
BCV, tuyên truyền viên đã thực sự phát huy vai trò của mình trong việc triển khai
các nghị quyết của Trung ương, của Thành phố, của Huyện ủy; góp phần nâng
cao chất lượng quán triệt nghị quyết trên địa bàn. Đặc biệt đội ngũ BCV, tuyên
truyền viên đông đảo sẽ đảm bảo cho công tác triển khai và phát động các phong
trào, các cuộc vận động, các chuyên đề học tập… cổ vũ, thúc đẩy các tầng lớp
nhân dân trong huyện tích cực, hăng hái tham gia giải quyết những nhiệm vụ
chính trị của Trung ương và địa phương. Tuy nhiên trình độ, kiến thức chuyên
môn, kỹ năng của đội ngũ BCV, tuyên truyền viên huyện Ba Vì còn nhiều hạn chế
nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng quán triệt nghị quyết của Đảng cho
đảng viên.
Vai trò công tác quán triệt nghị quyết

22


Một là, góp phần đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước vào cuộc sống:
Nghị quyết các cấp của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng cả nước cũng như từng địa
phương. Tùy theo phạm vi và tính chất, nghị quyết của Đảng xác định rõ mục
tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của mỗi thời kỳ cách mạng và trên từng

lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, công tác xây dựng Đảng
trên phạm vi cả nước hay ở từng địa phương. Đặc biệt, trong đời sống xã hội hiện
nay, nghị quyết Đảng ngày càng thể hiện rõ vai trò to lớn của mình trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước đi lên CNXH.
Nghị quyết các cấp của Đảng được xây dựng xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ
của cách mạng trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể, dựa trên những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực tiễn cách mạng Việt
Nam cũng như của từng địa phương. Gần tám thập kỷ qua, lịch sử cách mạng Việt
Nam đã khẳng định những giá trị to lớn của các nghị quyết Đảng - nhân tố hàng
đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mặc dù nghị quyết của
Đảng có vai trò rất quan trọng, song cũng không thể nào trở thành hiện thực, đi vào
cuộc sống nếu không được quán triệt trong toàn Đảng và quần chúng nhân dân.
Quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên ở Đảng bộ huyện Ba Vì giúp
cho đảng viên nhận thức sâu sắc, thống nhất cao, hiểu thấu đáo, có cơ sở khoa học
đối với các nghị quyết của Đảng. Trên cơ sở đó củng cố niềm tin cho đội ngũ
đảng viên và sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, nâng cao ý chí quyết tâm, đề cao tinh
thần trách nhiệm, phát huy vai trò tiên phong của người đảng viên đi đầu trong
thực hiện nghị quyết; tích cực tuyên truyền, vận động và tổ chức nhân dân thực
hiện tốt các phong trào hành động cách mạng ở địa phương, biến nghị quyết của
Đảng thành hiện thực trong cuộc sống, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho
nhân dân.
Thực tiễn cho chúng ta thấy rất rõ rằng, ở nơi nào, địa phương nào làm tốt
việc quán triệt nghị quyết của Đảng cho đảng viên, thì ở nơi đó, địa phương đó mọi

23


nghị quyết của Đảng đều được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, đời sống của
nhân dân ngày càng được cải thiện, các tệ nạn xã hội giảm dần .... Và ngược lại.

Hai là, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ra và rèn
luyện, là người tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta liên
tiếp giành được những thắng lợi vĩ đại từ ngày Đảng ra đời đến nay. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đã được lịch sử khẳng định là kết quả của quá
trình không ngừng xây dựng, củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh là thiết thực,
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, xây dựng Đảng càng có ý nghĩa quan
trọng và cấp thiết. Đảng ta đã xác định: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng và phát triển văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội. Chỉ có như vậy mới bảo đảm hoàn thành thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Góp phần khẳng định công tác “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”,
chúng ta không thể không nhắc đến vai trò của việc quán triệt nghị quyết Đảng
trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bởi vì, quán triệt
nghị quyết trong xây dựng Đảng là một quá trình thống nhất giữa các mặt xây
dựng chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó vừa có vị trí quan trọng không thể
thiếu, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của Đảng.
Đường lối chính trị đúng là nguồn sức mạnh to lớn của Đảng, là gốc rễ mọi
thắng lợi của cách mạng. Nghị quyết Đảng vạch ra đường lối chính trị đúng thì
mới có thể tăng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng, đoàn kết và tranh thủ được
sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, phát triển được lực lượng cách mạng lớn
mạnh, đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên.
Thông qua việc quán triệt nghị quyết của Đảng, đội ngũ đảng viên ngày
càng thấu hiểu hơn nghị quyết, kiên định hơn với vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với toàn xã hội, lập trường giai cấp ngày càng được củng cố. Trên cơ sở quán triệt
24



nghị quyết các cấp của Đảng, từ tình hình thực tiễn của địa phương, đơn vị, đảng
viên tích cực tham gia vào việc xây dựng nghị quyết của tổ chức đảng cấp mình.
Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
ở địa phương, đơn vị. Được tôi luyện trong quá trình thực hiện nghị quyết, đội ngũ
đảng viên ngày càng trưởng thành về lập trường, quan điểm, phẩm chất đạo đức,
lối sống và công tác. Số và chất lượng đảng viên ngày càng được nâng cao. Qua
đó, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở.
Ba là, nâng cao nhận thức chính trị - tư tưởng, bản lĩnh, phẩm chất,
đạo đức cách mạng cho đảng viên:
Nghị quyết Đảng được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tình hình thực tiễn của đất nước, địa
phương, cơ sở. Chính vì vậy, việc quán triệt nghị quyết Đảng giúp cho
đảng viên nhận thức sâu sắc về hệ thống lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, về quan điểm của Đảng để hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, củng cố lập trường, niềm tin vào Đảng, vào con đường
đi lên của đất nước.
Quán triệt nghị quyết của Đảng góp phần củng cố và nâng cao bản
lĩnh chính trị cho đảng viên, làm cho đội ngũ đảng viên có khả năng “miễn
dịch” trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và trong nước,
trước những luận điệu, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch thông qua “diễn biến hòa bình”; đề phòng và khắc phục “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”.
Hiện nay, tham nhũng và tệ nạn xã hội là những vấn đề đã và đang
gây ra nhiều tiêu cực trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tế cho
thấy, không ít đảng viên đã sa ngã, biến chất và không ít người phạm tội,
nhiều người phải lĩnh án chung thân, tử hình vì tham nhũng. Quán triệt
nghị quyết góp phần củng cố và nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cho
đảng viên, đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham

nhũng và các tệ nạn trong xã hội, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng và
cơ quan nhà nước.

25


×