Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Luận văn thạc sĩ Xây dựng đảng và chính quyền nhà nước Nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước ở tỉnh bắc giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.42 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NÂNG CAO TÍNH CHUYÊN NGHIỆP CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CÔNG CHỨC TRONG BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NÂNG CAO TÍNH CHUYÊN NGHIỆP CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CÔNG CHỨC TRONG BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY
Chuyên ngành : Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước
Mã số

: 60310203



LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.

HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................86
PHỤ LỤC.......................................................................................................92


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................86


1

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài

Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định Nhà nước Công hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng, tổ chức và vận hành theo thể chế Nhà
nước pháp quyền XHCN. Hiến pháp năm 2013 đã xác định Nhà nước ta là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà
nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
hiến pháp, pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực

hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Để đạt được điều đó, những
người làm ở các cơ quan Nhà nước chính là nhân tố để đảm bảo thực hiện
những chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời cũng chính là
yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn thách thức, vừa phải lãnh đạo xây dựng đất nước theo nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, hội nhập toàn diện, vừa phải đấu tranh chống
thù trong, giặc ngoài bảo vệ sự hưng thịnh của đất nước đòi hỏi phải có nguồn
nhân lực thích ứng. Để tháo gỡ được những khó khăn đó, đội ngũ cán bộ,
công chức ở các cơ quan hành chính Nhà nước là một trong những yếu tố
quan trọng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc - công việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong”. Cán
bộ công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước là những người được sử
dụng quyền lực Nhà nước để thực thi quyền hành pháp, hoàn thành các chức
năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính bằng chính phẩm chất, năng lực và
hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức
trong các cơ quan hành chính Nhà nước đã và đang góp phần đáng kể vào


2

công cuộc cải cách hành chính của Nhà nước ta với mục tiêu: Xây dựng nền
hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả. Trong tất cả các mục tiêu đó, tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ
công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước là một trong những mục tiêu
rất quan trọng. Điều này đã được khẳng định trong chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2011 -2020: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên
nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân” . Việc xây dựng tính chuyên nghiệp
cho cán bộ, công chức là một giải pháp quan trọng trong hoàn thiện bộ máy

Nhà nước, tạo bước chuyển mạnh mẽ về cải cách hành chính. Tính chuyên
nghiệp của cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước thể hiện
chủ yếu trong chuyên môn và các quy trình chuyên môn hóa thực hiện hành
chính Nhà nước. Vì vậy việc xây dựng, nâng cao tính chuyên nghiệp của đội
ngũ CBCCVC “vừa hồng, vừa chuyên” chính là chìa khóa để thực hiện thắng
lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bắc Giang là một tình trung du miền núi, trình độ kinh tế - xã hội còn
chưa thực sự phát triển, nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực là cán
bộ công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước của tỉnh còn nhiều hạn chế.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức còn thấp, không tương xứng với vai
trò, vị trí của họ cũng như chức trách của các chức danh do Nhà nước quy
định. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy hành chính tỉnh Bắc Giang nói riêng và của Đảng và Nhà nước
nói chung.
Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy hành chính trên địa bàn tỉnh,
tăng uy tín của Đảng và Nhà nước với nhân dân đáp ứng yêu cầu thực tiễn,
Đảng bộ, Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang đã đưa ra một định hướng xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức đảm bảo chất lượng, phát huy được chuyên


3

môn nghiệp vụ, có năng lực và phẩm chất đạo đức, có lập trường chính trị vững
vàng, hết lòng phục sự nhân dân, đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra.
Trên tình hình đó, việc nghiên cứu khoa học nhằm: “Nâng cao tính
chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước ở tỉnh Bắc Giang hiện nay” có ý nghĩa thiết thực đối với tiến trình
phát triển của tỉnh Bắc Giang trong gia đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công chức, chất lượng công chức là vấn đề được sự quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu, là đề tài được hội thảo tại nhiều hội nghị trong
nước và quốc tế đề cập.
Cụ thể đã có nhiều cuốn sách như:
- “Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm nước
ta” của PGS.Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- “Công chức, và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện
nay” của Tô Hữu Hạ, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 1998. Trong cuốn
sách này, tác giả đã tập trung phân tích, lý giải làm rõ khái niệm cán bộ,
công chức nhà nước; vai trò của cán bộ, công chức trong xây dựng nền hành
chính quốc gia, định hướng trong xây dựng đội ngũ công chức Nhà nước
Việt Nam.
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của CNHHĐH đất nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước” của PGS.TS Nguyễn Phú
Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
Tác phẩm này đã phân tích, xây dựng luận cứ khoa học và nội dung của
CNH- HĐH đất nước, yêu cầu của CNH-HĐH với việc nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức nói chung.


4

- “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của TS.Thang Văn
Phúc và TS.Nguyễn Minh Phương, 2004.
- “Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế
giới” của TS. Thang Văn Phúc làm chủ biên, Nxb chính trị Quốc Gia, 2004.
- “Về chế độ công vụ Việt Nam” do PGS.TS Nguyễn Trọng Điều chủ
biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2007. Đây là công trình nghiên cứu sâu về công
chức, công vụ và các cơ sở khoa học để hoàn thiện chế độ công vụ ở Việt

Nam hiện nay.
Vấn đề tính chuyên nghiệp cũng đã đươc nhiều nhà khoa học viết trên
các tạp chí, website như:
- “Xây dựng tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức” của
TS. Ngô Thành Can đăng trên w.w.w.hanhchinh.com.vn
- “Chuyên nghiệp hóa công chức” của sở nội vụ Đà Nẵng đăng trên
w.w.w.noivu.danang.gov.vn
- “Bàn về tính chuyên nghiệp hóa của kiểm toán viên Nhà nước” đăng
trên www.tapchikiemtoan.com
Vấn đề cán bộ, công chức, nguồn nhân lực cũng là đề tài nghiên cứu
của một số luận án, luận văn đáng chú:
- “Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” của
Đinh Lục, Luận văn thạc sĩ Triết học, 1993;
- “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Vũ Thị Phương
Mai, Luận văn Thạc sĩ, 2004;
- Luận văn Thạc sĩ “Phát triển nguồn nhân lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre” của Lê Thị Mai (2005).


5

- Luận văn Thạc sĩ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố (Qua kinh nghiệm của Hà Nội)” của
Cao Khoa Bảng (2008).
Ngoài ra, trong các hội thảo ở trong nước và quốc tế tại Việt Nam, các
tạp chí chuyên ngành có nhiều bài viết trao đổi về cán bộ, công chức, đã có
những đánh giá về chất lượng và số lượng công chức đưa ra nhiều giải pháp
nâng cao chất lượng công chức trong đó chủ yếu bàn luận tới các biện pháp
về tuyển dụng và đào tạo công chức, về chế độ chính sách tiền lương đối với

công chức. Cụ thể như:
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đều đề cập tới 2 nội dung chủ yếu
là: công vụ và chất lượng, trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ CB, CC,
VC đáp ứng cho sự phát triển của đất nước… nhưng chưa đi sâu vào làm sáng
tỏ tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy hành chính
Nhà nước. Bởi vậy, tác giả luận văn chọn đề tài “Nâng cao tính chuyên
nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước
ở tỉnh Bắc Giang hiện nay” để tập trung đi sâu vào việc khai thác một khía
cạnh của cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước, đó là tính
chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy hành chính Nhà
nước. Đây là một yếu tố đảm bảo cho sự phát triển đúng định hướng của
Đảng và Nhà nước trong xu hướng cải cách hành chính hiện nay nói chung và
của tỉnh Bắc Giang nói riêng. Luận văn sẽ là một phần cơ sở cho việc nghiên
cứu và sự phát triển tính chuyên nghiệp của cán bộ công chức trong bộ máy
hành chính Nhà nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích: Xây dựng lý luận về tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ
công chức trong bộ máy hành chính nhà nước và đưa ra những giải pháp cụ
thể để nâng cao tính chuyên nghiệp của cán bộ công chức trong bộ máy hành
chính Nhà nước ở tỉnh Bắc Giang.


6

Nhiệm vụ: Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về tính chuyên nghiệp của đội
ngũ cán bộ công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước. Trên cơ sở đó đưa
ra những tiêu chí tính chuyên nghiệp của cán bộ công chức trong bộ máy hành
chính Nhà nước, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
trong bộ máy hành chính Nhà nước của tỉnh Bắc Giang, tìm ra nguyên nhân
dẫn tới những hạn chế về tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức từ đó đề

xuất những quan điểm, phương hướng và một số giải pháp góp phần nâng cao
tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan
hành chính Nhà nước ở tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công
chức trong bộ máy hành chính Nhà nước ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Từ góc độ chính trị - xã hội đề tài nghiên cứu quá
trình nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức trong cơ
quan hành chính Nhà nước ở tỉnh Bắc Giang từ khi đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đến này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được luận giải dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta; những chương trình tổng thể cải cách hành chính quốc gia;
những chủ trương, chính sách của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân tỉnh Bắc Giang... về các vấn đề liên quan đến đề tài.
Ngoài ra, luận văn kế thừa và phát triển về mặt lý luận đã được khẳng
định trong những công trình nghiên cứu gần đây về vấn đề này.
Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật lịch sử,
duy vật biện chứng, lôgíc lịch sử.


7

+ Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp phân tích, thống kê,
điều tra xã hội học, tổng hợp, so sánh... để nghiên cứu tính chuyên nghiệp của
đội ngũ CB, CC trong bộ máy hành chính Nhà nước.
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đóng góp của luận văn: Luận văn góp phần làm rõ lý luận về tính

chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy hành chính Nhà
nước nói chung và của tỉnh Bắc Giang nói riêng.
Trên cơ sở lý luận, xây dựng những tiêu chí đánh giá tính chuyên
nghiệp của cán bộ công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước, từ đó đưa
ra những định hướng nâng cao tính chuyên nghiệp của cán bộ công chức
trong bộ máy hành chính Nhà nước nhằm mục tiêu đạt hiệu lực, hiệu quả
trong công việc đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH và phát triển bền vững của địa
phương trong thời gian tới.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn đáng tin
cậy để các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch
định chính sách phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh Bắc Giang nói chung và nâng cao chất lượng của đội
ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước của tỉnh nói riêng.
Ở những mức độ nhất định những kết quả nghiên cứu của luận văn có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
một số vấn đề của chủ nghĩa xã hội, như vấn đề nguồn nhân lực, vấn đề chất
lượng của độ ngũ cán bộ công chức, viên chức, v.v..
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương 9 tiết.


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO TÍNH CHUYÊN NGHIỆP
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC TRONG BỘ MÁY
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ


máy hành chính Nhà nước - quan niệm, vị trí, đặc điểm
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức, tính chuyên nghiệp của cán bộ
công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ
Khái niệm cán bộ được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa
và bao hàm một diện rất rộng các loại nhân sự thuộc khu vực nhà nước và các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội.
Ở nước ta, từ cán bộ được du nhập từ Trung Quốc và được dùng phổ
biến trong thời kháng chiến chống Pháp. Ban đầu, từ này được dung nhiều
trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán bộ, chỉ những người làm nhiệm vụ
chỉ huy tiểu đội phó trở lên. Dần dần từ cán bộ được dùng để chỉ tất cả những
người hoạt động kháng chiến thoát ly, để phân biệt với nhân dân.
Sau đó, khái niệm cán bộ dùng để chỉ những người biên chế vào làm
việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước và sĩ
quan trong lực lượng vũ trang. Ngoài ra, cán bộ được coi là những người có
chức vụ, vai trò nòng cốt trong cơ quan, tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến
hoạt động của cơ quan, tổ chức và liên quan đến vị trí lãnh đạo, chỉ huy, quản
lý, điều hành, góp phần quyết định đến xu hướng phát triển của cơ quan, tổ
chức đó.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử, mà trong suốt một thời gian dài khái
niệm “cán bộ” vẫn chưa được phân biệt rạch ròi với khái niệm công nhân,
viên chức. Mặc dù pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi bổ sung


9

năm 2000, 2003) đã đề cập tới ba đối tượng cán bộ, công chức, viên chức
nhưng không thể hiện rõ ai là cán bộ, ai là công chức, viên chức mà chỉ quy
định chung các đối tượng cán bộ, công chức là công dân Việt Nam.

Cho đến năm 2003, để cụ thể hóa Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Chính
phủ đã ban hành các nghị định số 114/2003/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn; Nghị định số 115/2003/NĐ-CP về chế độ công chức dự bị;
Nghị định 116/2003/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công
chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị- xã hội; Nghị định số 117/2003/CĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, chúng ta có thể hiểu
“Cán bộ” là những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội ở trung
ương, ở cấp tỉnh và cấp huyện.
Trong công cuộc cải cách hành chính ngày nay, Luật cán bộ công chức
được Quốc hội ban hành tháng 11/2008, có hiệu lực từ 01/01/2010 đã có quy
định cụ thể về cán bộ. Đó là “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương,
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.[37]
Như vậy, chúng ta có thể hiểu cán bộ là những người giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị Việt Nam, từ
trung ương đến cấp huyện, quận và tương đương. Tùy từng mục tiêu xem xét
có thể phân biệt đội ngũ cán bộ thành những nhóm khác nhau:
- Xét về loại hình có hể, có thể phân thành: Cán bộ đảng, đoàn thể; cán
bộ nhà nước, cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế; cán bộ khoa học , kỹ thuật.
- Theo tính chất và chức năng, nhiệm vụ có thể phân thành; nhóm chính
khách; nhóm lãnh đạo, quản lý; nhóm chuyên gia; nhóm công chức viên chức.


10

+ Nhóm chính khách: chính là những cán bộ lãnh đạo ở tầm vĩ mô của

đất nước. Hay rõ hơn là những nhà lãnh đạo chính trị cấp quốc gia. Họ có thể
là các nhà chính trị chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp; nhà chính trị tham
gia bộ máy nhà nước và nhà chính trị không tham gia bộ máy nhà nước. Họ
không thuộc đội ngũ công chức nhà nước và ở mức độ nhất định, họ có vị trí
độc lập trong mối quan hệ với nền hành chính nhà nước. Nhưng vấn đề chất
lượng, của đội ngũ cán bộ công chức và đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chính trị quốc gia có tầm quan trong đặc biệt đối với công cuộc đổi mới và
xây dựng đát nước. Họ là những người thực hiện vai trò, sứ mệnh của mình
góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước và thúc
đẩy đưa đội ngũ cán bộ công chức nên một tầm cao của tính chuyên nghiệp
trong bộ máy hành chính nhà nước.
+ Nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý: Bao gồm những người giữ chức vụ và
trách nhiệm điều hành trong một cơ quan, tổ chức, đơn vị, có ảnh hưởng lớn
đến hoạt động tổ chức, có vai trò quyết định và định hướng, điều khiển hoạt
động của cả bộ máy. Họ là những người giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có đủ
năng lặc và phẩm chất để định hướng, tổ chức công việc và đoàn kết tập thể.
+ Nhóm chuyên gia: Gồm nhưng người giỏi một nghề, một ngành, có
trình độ lý thuyết cao và năng lực hành động thực tiện, năng lực nghiêm cứu,
sang tạo, giải quyết một vấn đề lý luận hay thực tiễn. Đây là nhóm nhân lực
bậc cao của xã hội, có vai trò như một bộ phận, mũi nhọn của sự phát triển.
Do đó, nếu có đội ngũ chuyên gia chuyên nghiệp thì ở bất cứ lĩnh vực nào
cũng có thể phát triển mạnh mẽ.
+Nhóm công chức, viên chức: bao gồm những người được tuyển dụng
để trực tiếp thực thi các công việc hàng ngày của cơ quan, tổ chức, được
hưởng lương theo ngạch bâc, trình độ và chức vụ, Đây là nhóm có số lượng
đông đảo trong toàn bộ đội ngũ cán bộ, côn chức. Do đó, việc nâng cao tính


11


chuyên nghiệp của đội ngũ này sẽ giúp cho chất lượng công việc sẽ được
hoàn thành một cách nhanh chóng, thúc đẩy sự đi lên của đất nước.
1.1.1.2 Khái niệm công chức
Công chức là một khái niệm được sử sụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên
thế giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên
trong các cơ quan Nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Nhưng do tính
đặc thù của từng quốc qia mà quan niệm công chức ở các nước khác nhau.
Theo luật Công chức của Cộng hoà Pháp, công chức nhà nước được
định nghĩa như sau: Công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và
các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao gồm cả trung ương
và địa phương nhưng không kể đến các công chức địa phương thuộc các hội
đồng địa phương quản lý. [13, tr 15].
Luật công chức của Vương quốc Anh, ngay từ năm 1859, đã quy định
công chức nhà nước bao gồm hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất là những người
do nhà Vua Anh trực tiếp bổ nhiệm hoặc được Uỷ ban dân sự cấp giấy chứng
nhận hợp lệ cho phép tham gia công tác ở cơ quan dân sự. Bộ phận thứ hai là
những người mà toàn bộ tiền lương được cấp từ ngân sách thống nhất của
Vương quốc liên hiệp hoặc từ các khoản được Quốc hội thông qua. [13, tr 16]
Luật công chức của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho rằng: “Những nhân
viên trong ngành hành chính của chính phủ được gọi chung là công chức”
[13, tr 16].
Luật công chức Liên bang của Cộng hoà Liên bang Đức quy định cụ
thể về công chức nhà nước như sau: Những người chịu sự chỉ huy, kiểm tra
trực tiếp của Liên bang là công chức Liên bang, những người phục vụ ở các
đoàn thể xã hội, đoàn thể xây dựng vật chất và tài chính theo luật chung, trực
tiếp lệ thuộc Chính phủ Liên bang là công chức gián tiếp. Tất cả các thành
phần trên đây đều gọi là công chức. Ngoài các thành phần thuộc phạm vi trên,



12

công chức trong quốc hội Liên bang, Thượng viện Liên bang, Toà án Liên
bang cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của luật công chức. [13, tr 17].
Theo luật công chức của Nhật Bản, công chức được phân thành hai loại
chính gồm công chức nhà nước và công chức địa phương: Công chức nhà
nước gồm những người được nhậm chức trong bộ máy của chính phủ Trung
ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, trường công và bệnh viện quốc lập,
xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc doanh, được lĩnh lương của ngân sách
nhà nước. Công chức địa phương gồm những người làm việc và lĩnh lương từ
tài chính địa phương. [13, tr 17].
Theo Luật của Vương quốc Thái Lan: “Công chức là những người
được phân công và được bổ nhiệm một công việc của Chính phủ và nhận
lương phù hợp ở một bộ, cơ quan nhà nước hay cơ quan thuộc Chính phủ”
[20, tr 83].
Từ những cách quan niệm về công chức của một số quốc gia nêu trên,
chúng ta có thể thấy rằng Công chức là một bộ phận quan trọng trong bộ máy
quản lý nhà nước, là lực lượng lao động chủ yếu thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Hiệu lực của hệ thống chính trị nói chung và của bộ máy hành chính Nhà
nước nói riêng, xét cho cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu
quả của đội ngũ cán bộ, công chức.
Công chức là danh từ dùng để chỉ những người thừa hành các quyền
lực nhà nước, chấp hành các công vụ của nhà nước. Sự ra đời của chế độ công
chức là một bước phát triển quan trọng trong lịch sử phát triển và hoàn thiện
của các tổ chức nhà nước, là mốc son đánh dấu của sự văn minh trong hoạt
động quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế-xã hội. Xã hội càng phát triển
hiện đại, càng cần một chế độ công chức tiên tiến để bảo đảm quản lý và thúc
đẩy xã hội phát triển một cách đồng bộ.



13

Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành, gắn liền với sự
phát triển của nền hành chính nhà nước. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy
định về công chức là Sắc lệnh số số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, quy định: “Những công dân Việt Nam, được
chính quyền nhân dân tuyển dụng để giữ một vị trí thường xuyên trong các cơ
quan của Chính phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức theo quy chế
này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ định” [13, tr 217].
Thực hiện công cuộc đổi mới,trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải
cách hành chính nhà nước và đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước, thuật ngũ công chức được sử dụng lại. Tại nghị định số 169/HĐBT ngày
25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng, tiếp đó là Nghị định số 95/1988/NĐ-CP
ngày 17/11/1998 của chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ,
công chức trong các cơ quan nhà nước, khái niệm công chức được đề cập một
cách rõ ràng, cụ thể, xong vẫn chưa phân biệt được công chức hành chính với
công chức sự nghiệp.
Đến nay, trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế-xã hội, sự phát triển
của đời sống chính trị pháp lý Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam khóa XII thông qua ngày 13/11/2008 có hiệu lực từ
ngày 01/01/2010 quy định rõ:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân

sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị


14

sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [37].
Như vậy, chúng ta thấy công chức theo quy định của pháp luật Việt
Nam có nhiều điểm khác biệt với các nước, đó là công chức không chỉ bao
gồm những người làm việc trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, mà
còn bao gồm cả những người làm việc cho các tổ chức chính trị - xã hội như:
các Ban tham mưu của Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội liên hiệp Phụ nữ,
Hội Nông dân, Công đoàn Việt Nam, các cơ quan, đơn vị thược Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản nhất
của công chức nước ta.
Xuất phát từ đặc thù của thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước,
đảng, đoàn thể của nước ta, trong hoạt động cộng vụ của Nhà nước, có thể
phân loại công chức theo các cách khác nhau:
● Theo đặc thù và tính chất công việc
Theo đặc thù và tính chất công việc người ta có thể phân công chức
thành 4 loại:
- Công chức lãnh đạo: là những công chức giữ cương vị chỉ huy trong
điều hành công việc. Tùy theo tính chất công việc ở các vị trí khác nhau mà
phân ra công chức lãnh đạo ở các cấp độ cao thấp khác nhau. Công chức lãnh
đạo là những người được quyền ra các quyết định quản lý, tổ chức và điều
hành những người dưới quyền thực hiện công việc. Công chức lãnh đạo được
giao những thẩm quyền, trách nhiệm nhất định. Thẩm quyền và trách nhiệm
đó gắn với chức vụ người lãnh đạo đảm nhiệm, thẩm quyền càng cao thì trách
nhiệm càng nặng nề.
- Công chức chuyên gia: là những người có trình độ chuyên môn kỹ

thuật, có khả năng nghiên cứu, đề xuất những phương hướng, quan điểm và
thực thi công việc chuyên môn phức tạo, Họ là những người tư vấn cho lãnh


15

đạo, đồng thời cũng là những nhà chuyên môn tác nghiệp những công việc
đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nhất định.
- Công chức chuyên môn, nghiệp vụ: là những người được giao thẩm
quyền nhất định trong phạm vi công tác của mình để thừa hành công việc, thi
hành công vụ nhân danh quyền lực nhà nước. Trên cơ sở chuyên môn nghiệp
vụ và nhiệm vụ được giao, họ tham mưu cho lãnh đạo ra các quyết định quản
lý hành chính và có thể họ là người trực tiếp thực hiện các quyết định hành
chính đó.
- Công chức là nhân viên hành chính: là những người thừa hành nhiệm
vụ do công chức lãnh đạo giao phó. Họ là những người có trình độ chuyên môn
kỹ thuật ở mức thấp nên chủ yếu làm công tác phục vụ trong bộ máy nhà nước.
● Theo trình độ đào tạo
Phân loại công chức theo trình độ đào tạo thì có ba loại:
- Công chức loại A là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu
đào tạo chuyên môn giáo dục đại học và sau đại học.
- Công chức loại B là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu
trình độ đào tạo chuyên môn giáo dục chuyên nghiệp.
- Công chức loại C là những người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu
trình độ đào tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
Cách phân loại này sẽ giúp cho việc khuyến khích công chức phấn đấu
học tập, nâng cao trình độ, thăng tiến theo chức nghiệp.
● Theo ngạch công chức
Ngạch công chức là một khái niệm chỉ trình độ, năng lực, khả năng
chuyên môn và ngành nghề của công chức. Mỗi ngạch thể hiệm một cấp độ

về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và có tiêu chuẩn riêng, bao gồm 5 loại:
- Công chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trở lên.
- Công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương.
- Công chức ngạch chuyên viên và tương đương.


16

- Công chức ngạch cán sự và tương đương.
- Công chức ngạch nhân viên và tương đương.
1.1.1.3 Khái niệm về tính chuyên nghiệp
Tính chuyên nghiệp
Theo khía cạnh ngôn ngữ, chuyên nghiệp là chỉ loại hình nghề nghiệp
hướng tới kiến thức sâu rộng có chuyên môn, có tác phong, có điểm đầu và
điểm kết thúc, các công việc được tổ chức một cách khoa học.
Theo từ điển Việt Nam (viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2006) về
mặt tính từ, chuyên nghiệp nghĩa là: chuyên là một nghề, lấy một việc, một
hoạt động nào đó làm nghề chuyên môn; phân biệt với nghiệp dư. Theo từ
điển Anh - Anh - Việt (Nxb Văn hóa thông tin, 1999) professional (chuyên
nghiệp): doing as a jod sth which others do only as an interest or a hobby (tạm
dịch: là một việc gì đó như một công việc mà người khác làm chỉ vì hứng thú
hoặc sở thích).
Như vậy, chuyên nghiệp có thể hiểu theo nghĩa đơn giản nhất, là chuyên
tâm vào nghề nghiệp, công việc. Ai chuyên tâm và tận lực với nghề nghiệp, công
việc của mình; chất lượng và hiệu quả làm việc của họ thường rất cao. Tính
chuyên nghiệp không chỉ có trong các công việc có quy mô lớn, mức độ phức
tạp cao mà phải thể hiện ngay trong từng công việc nhỏ, hàng ngày.
Mục đích của sự chuyên nghiệp là nhằm tạo ra sự hoàn chỉnh, chất lượng,
hiệu quả và tin cậy, những điều đó chỉ có được khi tất cả các chi tiết dù là nhỏ
nhất đều phải được thiết lập đồng bộ, nhất quán, hợp lý. Tính chuyên nghiệp

không phải cái gì đó phức tạp, khó thực hiện, mà ngược lại nó được thể hiện,
đánh giá ở những việc đơn giản thường ngày. Chẳng hạn như: không để điện
thoại đổ chuông quá 3 tiếng mà không nhấc máy; không để chuông điện thoại
kêu trong phòng họp; đi làm đúng giờ; không được trễ hẹn, nếu trễ thì phải báo;
không được đi dép lê, guốc, mặc áo thun trong công sở. Đối với ngành nghề,
công việc khác nhau, tính chuyên nghiệp có những yêu cầu khác nhau.


17

Để đạt tới tính chuyên nghiệp của cả một tập thể, một tổ chức thì mỗi
vị trí công việc cần phải được xác định rõ từng nhiệm vụ và mỗi các nhân
phải hiểu rõ, đồng thời có khả năng thực hiện chuyên nghiệp.
Tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước.
Khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá, hội nhập
và mở cửa, đòi hỏi phải có một bộ máy nhà nước chuyên nghiệp mà ở đó bao
gồm những công chức vững về chuyên môn, năng động và có phẩm chất đạo
đức tốt…
Nói rộng ra, đó phải là những công chức chuyên nghiệp, hiện đại trong
công việc, trong cách tư duy mà vẫn thể hiện được bản chất nhân văn, truyền
thống văn hoá của con người Việt Nam. Tất nhiên, để có được những con
người toàn diện như vậy, không phải là chuyện ngày một ngày hai, mà là một
quá trình tu dưỡng, rèn luyện lâu dài. Ở thời điểm hiện nay, người công chức
của chúng ta có thể chưa đạt “chuẩn” của một công chức chuyên nghiệp như
ở các nước phát triển nhưng dù sao, bộ máy nhà nước của chúng ta vẫn cần có
những con người đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu của người công chức Việt
Nam thời kỳ hội nhập hay chính là phải đạt Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về
chất lượng công chức, vấn đề mà hiện nay vẫn còn nhiều điều phải bàn đến.
Như vậy, về mặt lý thuyết, công chức chuyên nghiệp phải được đào tạo

qua trường lớp. Họ là những người chuyên nghiệp trong quản lý, trong lãnh
đạo cũng như trong công việc hàng ngày. Tuy chưa được như vậy nhưng việc
tiếp cận khái niệm công chức qua các khoá học về quản lý nhà nước, lý luận
chính trị và ít nhiều trong môi trường đại học, trung cấp chuyên nghiệp v.v...
cũng đã truyền thụ cho nhiều người những cái mà một công chức cần có khi
làm trong bộ máy nhà nước.


18

1.1.2. Đặc điểm của cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước
Như chúng ta biết rằng, mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nước
chủ yếu được vận hành thông qua nền công vụ và đội ngũ công chức hành
chính. Đội ngũ cán bộ công chức hành chính nhà nước chính là lực lượng trực
tiếp thi hành các chức năng hành pháp của nhà nước theo pháp luật và làm
cho đát nước phát triển trên cơ sở đảm bảo kỷ cương, trật tự xã hội, Do vậy,
cán bộ công chức nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, cán bộ, công chức nhà nước là những người được tuyển dụng
vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị nhà nước; thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ mà nhà nước giao phó và được nhà nước đảm bảo các điều kiện cần
thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ.
Để vận hành các hoạt động quản lý đất nước, nhà nước ta đã tuyển
dụng một đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước có năng lực, có
trình độ và phẩm chất đạo đức vào giúp việc trong bộ máy quản lý và thực thi
pháp luật, thi hành công vụ nhằm phục vụ cho lợi ích chung của toàn xã hội,
Đội ngũ cán bộ, công chức này chính là hạt nhân cơ bản của nền công vụ là
chủ thể thực sự tiến hành các công vụ cụ thể và cũng chính là yếu tố đảm bảo
cho nền công vụ hoạt động, vận hành có hiệu quả.
Để thực hiện công vụ, người công chức được Nhà nước cung cấp các

điều kiện cần thiết để tiến hành thực thi công vụ như: trụ sở, phương tiện,
điều kiện làm việc… Họ được đảm bảo các quyền lợi vất chất và tinh thần
như: hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nhận các loại trợ cấp, phụ cấp bằng
tiền hoặc hiện vật và hưởng lương hưu khi đủ thời gian công hiến cho đất
nước, được khen thưởng theo đúng quy định của nhà nước. Đồng thời họ có
bổn phận phục vụ xã hội, công dân và chịu những rằng buộc nhất định do liên
quan đến chức trách đang đảm nhiệm. Họ có thể phải từ chức, bị truy cứu


19

trách nhiệm hoặc bồi thường thiệt hại nếu không hoàn thành nhiệm vụ, vi
phạm kỷ cương, pháp luật làm ảnh hưởng tới lợi ịch của công dân, tổ chức.
Thứ hai, cán bộ, công chức hành chính nhà nước là một đội ngũ lao
động chuyên nghiệp, có tính chuyên môn cao.
Bộ máy nhà nước được lập ra như một công cụ của giai cấp cầm quyền
để thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi mặt của đời sống xã hội, đảm
bảo cho xã hội ổn định và phát triển theo đúng ý chí của giai cấp cầm quyền.
Trong khi đó, các vấn đề kinh tế - xã hội không ngừng biến đổi từng ngày,
từng giờ, với mức độ phức tạp ngày càng lớn; điều đó đòi hỏi nhà nước phải
duy trì hoạt động quản lý của mình một cách thường xuyên và liên tục. Hơn
nữa, chức năng cơ bản của cán bộ, công chức hành chính là thực thi công vụ,
thực thi quyền lực nhà nước, thực thi pháp luật nên không cho phép họ có sai
sót, vi phạm. Đồng thời, qua hoạt động thực tiễn, chính họ là những người
tham mưa, sáng tạo, đề xuất những chủ trương, chính sách quản lý và phát
triển xã hội, đất nước. Với tính chất công việc như vậy, đội ngũ cán bộ, công
chức cũng phải là những người làm việc chuyên nghiệp, thường xuyên và ổn
định trong bộ máy nhà nước.
Tính chuyên nghiệp của công chức hành chính được quy định bởi địa vị
pháp lý và được thể hiện qua hai yếu tố: thời gian, thâm niên công tác và trình

độ năng lực, chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ hành chính.
Chính vì vậy, ngay khi tuyển dụng, cơ quan nhà nước đã yêu cầu phải
tuyển những người có chuyên môn, có đủ điều kiện về độ tuổi, phẩm chất,
chính trị, đạo đức…
Trong điều kiện hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức yêu cầu phải có
trình độ chuyên môn hóa cao, được đào tạo một cách chính quy và hệ thống,
đông thời phải luôn luôn được bồi dưỡng, đào tạo một cách bài bản, có hệ
thống, cập nhật tri thức, khoa học nhân loại. Vì vậy, không thể xây dựng được


20

nền công vụ và nền hành chính nhà nước nói chung, chính quy hiện đại, phục
vụ đắc lực nhân dân nếu không có đội ngũ cán bộ, công chức chưa được quản
lý, đào tạo cơ bản theo hướng chuyên mộn hóa, chuyên nghiệp cao.
Thứ 3, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước tương đối ổn
định, ít chịu nhiều biền động, họ được bảo hộ bằng “biên chế nhà nước”. Tuy
nhiên, dù được bảo đảm bằng biên chế cho đến khi nghỉ hưu nhưng trước
những đòi hỏi của thực tế khách quan, xã hội không ngừng phát triển do đó đòi
hỏi cán bộ, công chức hành chính phải luôn được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ, tăng cường nâng cao tính chuyên nghiệp, hạn chế những sai lầm nhất
là khâu đào tạo và tuyển dụng mới cán bộ, công chức hiện nay.
Thứ 4, cán bộ, công chức hành chính là người am hiểu pháp luật. Nhất là
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, Nhà nước ta phải giải quyết nhiều
vấn đề liên quan đến các quan hệ pháp lý mang yếu tố quốc tế, đồng thời phải
ký kết và thực hiệ các công ước quốc tế, các tập quán và thông lệ quốc tế trong
tất cả các lĩnh vực. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính phải có trí thức, am hiểu và tôn trọng pháp luật và thông lệ quốc tế.
Muốn vậy trước hết họ phải có kiến thức pháp luật và trình độ ngoại ngữ nhất
định. Do vậy nhà nước luôn phải chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ phẩm chất và năng lực, am hiểu và có khả
năng thực sự giải quyết tốt các quan hệ có yếu tố nước ngoài.
Thứ 5, đội ngũ cán bộ công chức hành chính nhà nước luôn trung thành
với Đảng, với Chính phủ, với tổ quốc và nhân dân. Đây là một đặc trưng cơ
bản của đội ngũ cán bộ công chức Việt Nam. Bởi lẽ, nhà nước ta tồn tại là để
phục vụ lợi ích của nhân dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân.
Do đó, trong hoạt động các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức phải tôn
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hê chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe và chịu sự giám sát của nhân dân.


21

Trong bối cảnh mở cửa hội nhập với khu vực và quốc tế, hội nhập nền
kinh tế thị trường càng đặt ra yêu cầu cán bộ, công chức phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, rèn luyện phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, tận
tâm, tận trí phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
1.2. Sự cần thiết nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ,
công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước hiện nay
1.2.1 Vai trò của cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước
Như chúng ta đã biết, hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước nói riêng
và toàn bộ hệ thống chính trị nói chung được quyết định bởi phẩm chất, năng
lực và hiệu quả công tác của chính đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày nay,
trong công cuộc cải cách hành chính, để có một nền hành chính đạt được tiêu
chí của xã hội nhằm phục vụ nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao
dân trí, thực hiện công bằng, dân chủ thì không thể không coi trọng đến chất
lượng, trình độ, tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức.
Vai trò của cán bộ, công chức hành chính thể hiện qua bốn mối quan
hệ. Một là, quan hệ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; hai là với bộ máy tổ chức lãnh đạo quản lý; ba là với công việc; bốn là

với quần chúng nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, những cán bộ, công chức đóng vai
nòng cốt trong việc quản lý, tổ chức công việc của nhà nước. Họ chính là
những người đã trực tiếp tham gia đóng góp vào quá trình xây dựng các chủ
trương, chính sách của Đảng cũng như thực thi công vụ, thực thi pháp luật,
thực thi quyền lực nhà nước. Hay nói rõ hơn, họ chính là lực lượng đem chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời nắm tình hình triển khai thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước phản ảnh lại cho Đảng và Nhà
nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn.


×