Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

(Tiểu luận) luật so sánh bài tiểu luận nhóm đề tài so sánh nguồn gốc pháp luật của hồi giáo và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>

<b>SO SÁNH NGUỒN GỐC PHÁP LUẬT CỦA HỒI GIÁO VÀ VIỆT NAM</b>

Giảng viên : ThS. Nguyễn Đăng Nghĩa Nhóm thực hiện : Nhóm 5

<i>Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 12 năm 2022.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>DANH SÁCH NHÓM 05</b>

<small>Ca 1 Th 5ứ</small>

<i>(nhóm trưởng)</i>

1954063024 Phân chia, nội dung phần II.2,III

2 Đỗ Quốc Phú 1954062183 Nội dung phần I.3,III 100% 3 Nguyễn Gia Luật 1954062128 Nội dung phần I.1,III 100% 4 Trịnh Phương Nam 1954062141 Nội dung phần word,

100% 5 Lê Việt Hùng 1954062091 Nội dung phần I.2,III 100% 6 Nguyễn Thanh Vinh 1954062289 Nội dung phần II.1, III 100%

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Mụ ục lc:</b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU...4</b>

1. Phạm vi nghiên cứu:...4

2. Phương pháp nghiên cứu...4

2.1 Phương pháp phân tích câu chữ :...4

2.2 Phương pháp lịch sử:...4

2.3 Phương pháp so sánh:...5

<b>I. Khái quát chung về luật hồi giáo...6</b>

1. Khái niệm luật hồi giáo...6

2. Nguồn gốc của luật hồi giáo...6

3. Đặc điểm của luật hồi giáo...8

<b>II. Sự thích ứng của luật hồi giáo đối với xã hội hiện nay...11</b>

1. So sánh sự thích ứng của luật hồi giáo trong xã hội hiện đại so với sự thích ứng của các nước phương tây...11

2. So sánh sự thích ứng của luật hồi giáo trong xã hội hiện đại so với việt nam. 12 <b>KẾT LUẬN...16</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

Thuật ngữ Hồi giáo (Islam) có nghĩa là “tuân phục”- Đó cũng là tư tưởng trung tâm của các tín đồ tơn giáo. Đạo Hồi chính là lời răn dạy của thánh Allah mà Mohammed đã tìm ra và truyền lại cho người đời, điều đó đã được khái qt thơng qua lời cầu nguyện: “khơng có chúa trời nào khác ngoài Allah và Mohammed là tiên tri của Ngài”. Như vậy có thể hiểu luật Hồi giáo chính là hệ thống các quy định mang tính tơn giáo của những người theo đạo và các quy định này hồn tồn độc lập, khơng chịu sự chi phối của nhà nước, khơng có quyền lực nào có thể thay thế luật Hồi giáo. Cho đến nay, hệ thống pháp luật Hồi Giáo được coi là hệ thống pháp luật hỗn hợp. Sở dĩ có thể đưa ra khẳng định trên bởi hệ thống pháp luật Hồi giáo đã chịu nhiều ảnh hưởng của tín ngưỡng đạo Hồi và cho rằng đó là điều tối cao và duy nhất. Điều này khác xa nhiều so với hệ thống pháp luật của Việt Nam nước ta. Chính vì điều đó nhóm 05 sẽ tập trung nghiên cứu vào 01 lĩnh vực cụ thể giữa hai hệ thống pháp luật của các nước theo Đạo Hồi giáo và hệ thống pháp luật của Việt Nam cụ thể là về Luật Hôn nhân gia đình hiện hành.

<b>1. Phạm vi nghiên cứu:</b>

Trong bài tiểu luận lần này nhóm sẽ tập trung nghiên cứu quy định pháp luật liên quan đến Luật Hồi giáo ở các nước theo thiên hướng Hồi giáo để tìm ra được những ưu, nhược điểm trong nội dung giữa các nước và liên hệ so sánh với hệ thống pháp luật của Việt Nam

Nghiên cứu được tìm trong phạm vi dữ liệu về luật Hồi giáo của các nước trên thế giới và liên hệ hệ thống pháp luật tại Việt Nam được áp dụng từ thời gian ban hành .

<b>2. Phương pháp nghiên cứu</b>

<b>2.1 Phương pháp phân tích câu chữ :</b>

Ở đề tài tiểu luận này chúng tơi dùng phương pháp phân tích câu chữ nhằm phân tích cơ sở lý luận và quy định pháp luật.

Về cách phân tích, trước hết nhóm sẽ phân tích từ phạm vi hẹp đến rộng. Đầu tiên bắt đầu với cấu thành có phạm vi nhỏ nhất là “từ’’, sau đó là đến những “thuật ngữ pháp lý” có trong câu, rồi đến toàn bộ nội dung của Điều luật để có thể diễn giải chính xác ý mà các nhà làm luật muốn hướng đến.

<b>2.2 Phương pháp lịch sử:</b>

Phương pháp lịch sử được dùng để nghiên cứu quá trình phát triển của điều luật gắn liền với hồn cảnh lịch sử, xã hội cụ thể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>2.3 Phương pháp so sánh:</b>

Phương pháp so sánh luật được nhóm sử dụng sau khi phân tích nội dung luật; các sự kiện pháp lý trong và ngoài nước. Cụ thể như: So sánh luật Việt Nam với một số quốc gia theo thiên hướng Đạo hồi khác như: Iran, Irắc,...

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>Nội Dung Bài Tiểu Luận:</b>

<b>I.</b>

<b>Khái quát chung về luật hồi giáo </b>

<b>1. Khái niệm luật hồi giáo </b>

Luật Hồi giáo trong tiếng Arab là Sharia, có nghĩa là con đường chính nghĩa (the right path) là luật truyền thống của đạo Hồi, khác với các hệ thống pháp luật chúng ta đã nghiên cứu, Luật Hồi giáo không phải là một ngành khoa học độc lập, nó chỉ là một mặt, một khía cạnh của đạo Hồi. Muốn hiểu được khái niệm của Luật Hồi giáo, trước tiên phải hiểu được khái niệm đạo Hồi – Islam Từ “Islam” (tên của đạo Hồi theo tiếng Ả rập) có nghĩa là “tuân phục”. Tư tưởng trung tâm của đạo Hồi chỉ đơn giản là tuân phục hồn tồn ý chí và luật lệ của thượng đế. Người tuân phục thượng đế như thế gọi là muslim, tức người tuân phục – hay tín đồ Hồi giáo. Vậy có thể hiểu Luật Hồi giáo là Luật được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản, các trụ cột của đạo Hồi và các phong tục tập quán của người Hồi giáo. Giáo lý của đạo Hồi gồm hai bộ phần: một là phần lý thuyết hay “thần học” thiết lập nên những giáo điều, tức những luận điểm cơ bản của đạo Hồi mà tín đồ Hồi giáo phải tin; hai là phần các quy tắc xử sự mà các tín đồ Hồi giáo phải tuân thủ, là phần tạo thành luật Hồi giáo. Các quy tắc của luật Hồi giáo chỉ tập trung vào việc xác định trách nhiệm và nghĩa vụ, không quan tâm tới các quyền của các tín đồ Hồi giáo. Bằng chứng là luật Hồi giáo chỉ quy định về cách xử sự sao cho phù hợp với tín ngưỡng mà các tín đồ Hồi giáo phải tuân thủ, khơng quy định chế tài áp dụng với những tín đồ vi phạm luật Hồi giáo. Dằn vặt lương tâm về tội lỗi của mình là chế tài đối với tín đồ Hồi giáo, vì vậy, luật Hồi giáo chỉ thực sự điều chỉnh được những quan hệ xã hội mà chủ thể là tín đồ Hồi giáo. Trong sự vắng bóng hệ thống chế tài, việc tuân thủ luật Hồi giáo của các tín đồ Hồi giáo chỉ có thể là vì họ thành kính Chúa. Như vậy, cơ sở duy nhất để luật Hồi giáo có hiệu lực là nguồn gốc thần thánh của luật Hồi giáo, là ý chí của Chúa, khơng phải ý chí của bất kỳ một thế lực nào trên trái đất.

<b>2. Nguồn gốc của luật hồi giáo</b>

Theo nhiều nguồn đã nghiên cứu và tìm hiểu thì nguồn gốc của luật Hồi giáo được hiểu theo trường phái sau:

+. Luật Hồi giáo (Moslem law hay Islamic law) trong tiếng arab là Shari’ah (con đường đúng) là một hệ thống các quy định tơn giáo và trong một chừng mực nhất định có khi trở thành các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên các quy định này hồn tồn độc lập, khơng chịu sự chi phối của của bất kỳ Nhà nước nào và trên thực tế nó khơng tạo thành các quy phạm pháp luật theo nghĩa của thuật ngữ này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

+. Luật Hồi giáo điều chỉnh, đưa ra nguyên tắc và quy định hành vi của người dân, hoạt động của các cơ quan tổ chức, đưa ra các quy phạm để áp dụng trong đời sống của một con người như: ăn kiêng, cách nuôi dạy con cái, đồng thời cũng quy định và miêu tả những nguyên tắc dành cho người tu hành, việc bố thí cho người nghèo và những vấn đề tôn giáo khác. Bên cạnh đó Luật Hồi giáo cũng được sử dụng như những hướng dẫn đối với các hoạt động của con người trong xã hội cũng như đối với những tác động qua lại giữa các nhóm dân tộc. Ở phạm vi rộng hơn, Luật Hồi giáo được áp dụng để giải quyết những tranh chấp trong phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau, đồng thời giải quyết những tranh chấp, xung đột quốc tế và vấn đề chiến tranh. Do đó nguồn luật của Luật Hồi giáo cũng chính là các thành tố của Luật Hồi giáo. Luật này gồm 4 thành tố sau: Kinh Qu’ran (hay còn gọi là Koran), Kinh Sunna, Idjmá và Qiyas.

+. Thành tố đầu tiên mang tính chất chủ đạo của Luật Hồi giáo là Kinh Qu’ran. Đây cũng là nguồn luật với những quy định mang giá trị chung thẩm khi được áp dụng. Kinh Qu’ran là nguồn luật cao nhất của Luật Hồi giáo, được coi là những lời của Thánh Alla tiết lộ cho tiên tri Muhammed (570-632)11. Sự hình thành và phát triển của Qu’ran với tư cách vừa là Kinh Thánh vừa là luật xuất hiện ban đầu bởi sự truyền đạo của nhà tiên tri (Prophet) Mohammad tại thành phố Madinah, sau đó đã đồng loạt xuất hiện ở mọi nơi cùng với sự gia tăng những tín đồ của Đạo Hồi. Nhà tiên tri vừa là chỗ dựa tinh thần vừa là người tạm thời đứng đầu cộng đồng. Về cấu trúc Kinh Qu’ran được chia thành 30 phần và 114 chương và được sắp xếp theo ý của nhà tiên tri.. Các chương lại chia nhỏ thành 6.200 khổ thơ (verse), các luật gia Đạo Hồi gọi chúng là “Những khổ thơ pháp luật”13. Chỉ có khoảng 3% các khổ thơ đó là liên quan đến pháp luật. Ví dụ, Luật Gia đình được quy định trong khoảng 70 khổ thơ; các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực luật tư khác được quy định trong 70 khổ thơ; khoảng 30 khổ thơ được coi là đặc trưng cho Luật Hình sự; các vấn đề về tài chính và hiến pháp thì được đề cập trong khoảng 20 khổ thơ; các vấn đề liên quan đến Luật Quốc tế thì cũng được quy định trong khoảng 20 khổ thơ.

Vậy ở các nước theo Luật Hồi giáo có tồn tại nguồn luật là các văn bản pháp luật hay khơng? Có thể nói rằng, có văn bản pháp luật ở các quốc gia theo Luật Hồi giáo cũng như việc có tồn tại án lệ trong hệ thống pháp luật của những quốc gia này. Nhưng đây là sự chuyển hóa những quan điểm pháp luật, ý kiến pháp luật được thống nhất bởi các học giả pháp lý Đạo Hồi vào các văn bản pháp luật, và sự chuyển hóa này bắt đầu vào khoảng thế kỷ 19, thời điểm lịch sử các quốc gia theo Luật Hồi giáo có một sự thay đổi rất lớn lao, khi các quốc gia Phương Tây tăng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

cường quyền lực toàn cầu và chinh phục một phần rộng lớn của thế giới, trong đó có các vùng lãnh thổ của Luật Hồi giáo.

Như vậy, có thể khẳng định rằng những quốc gia nằm trong hệ thống Luật Hồi giáo là những quốc gia điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội bằng Luật Shari’ah – hay còn gọi là Luật Hồi giáo. Luật này bao gồm bốn thành tố, nói khác đi là bốn nguồn luật: Kinh Qu’ran, Kinh Sunna, Idjmá và Qiyas; trong đó Kinh Qu’ran và Kinh Sunna là hai nguồn luật chủ đạo nhất, có giá trị pháp lý cao nhất đồng thời thể hiện là nguồn luật mang tính thần thánh và tự nhiên, cịn Idjmá và Qiyas đóng vai trị là nguồn luật bổ trợ cho hai nguồn luật trên nhưng không thể thiếu được trong hệ thống pháp luật của các quốc gia theo Luật Hồi giáo và là nguồn luật thể hiện cho sự điều chỉnh pháp luật bằng việc kết hợp những tư tưởng thần thánh tự nhiên với lý trí và sự thơng thái của con người.

<b>3. Đặc điểm của luật hồi giáo </b>

Sau khi nghiên cứu về các khái niệm của luật Hồi giáo, có thể nhận thấy đặc điểm nổi bật nhất của luật Hồi giáo là tính chất lỗi thời của nhiều chế định, khơng phù hợp với thức tiễn xã hội, khơng có sự hệ thống hóa giữa các văn bản pháp luật. Bên canh đó, luật Hồi giáo cịn có những đặc điểm sau đây:

<i>Thứ nhất, hầu như rất khó để phân biệt giữa các quy định của pháp luật và</i>

các quy định tôn giáo, bởi lẽ người theo đạo Hồi (hay gọi tắt là người Hồi giáo) cho rằng pháp luật và tôn giáo chỉ là một. Cụ thể, luật Hồi giáo can thiệp vào những lĩnh vực mà các hệ thống pháp luật khác xét thấy không nhất thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật. Ví dụ điển hình là luật Hồi giáo quy định chi tiết về việc tẩy uế trước khi cầu nguyện …

<i>Thứ hai, luật Hồi giáo có vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh các lĩnh vực</i>

pháp luật truyền thống như hôn nhân – gia đình, thừa kế, hình sự. Cịn trong các lĩnh vực pháp luật khác như hợp đồng, sở hữu thì ít có sự ảnh hưởng của luật Hồi giáo.

<i>Thứ ba, khoa học pháp lí đạo Hồi (ficha) nghiên cứu gốc rễ và giải thích bằng</i>

cách nào, từ những nguồn gì đã xuất hiện tổng thể những quy tắc tạo ra Shariah. Ngồi ra nó nghiên cứu nội dung – những quyết định của tòa án Shariah chứa đựng những quy phạm luật Hồi giáo. Về cấu trúc, các khái niệm, phạm trù của mình, luật Hồi giáo khá đặc biệt so với các hệ thống pháp luật khác.

Thứ tư, quan niệm về hành vi pháp luật của luật Hồi giáo có sự khác biệt so với các hệ thống pháp luật khác. Cụ thể, hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

giới quy định 02 loại hành vi pháp luật bao gồm: hành vi phải làm và hành vi không được làm. Còn luật Hồi giáo chia thành 5 loại hành vi và đây là nguyên tắc cơ bản để đánh giá hành vi của con người về phương diện pháp luật cũng như đạo

▪ Hành vi bị khiển trách (blamables) ví dụ sai giờ hẹn, chậm trễ, nói lời không tế nhị, thiếu lễ phép, đi đúng không đúng tác phong. Kinh Koran phê phán những ai giao kết hợp đồng thương mại vào sáng ngày thứ sáu trước buổi cần kinh buổi trưa. Mặc dù vậy, hợp đồng được ký kết vào sáng thứ sáu không bị mất hiệu lực và người giao kết hợp đồng cũng không phải chịu bất cứ chế tài nào. ▪ Hành vi cấm (interdites) ví dụ như giết người, cướp của, lừa đảo, trộm cắp.

<i>Thứ năm, chế định nghĩa vụ trong luật Hồi giáo rất phát triển. Dựa trên cơ sở</i>

có hay không sự chuyển giao tài sản là đối tượng của hợp đồng, nghĩa vụ xuất phát từ hợp đồng được chia làm hai nhóm:

a. Nhóm nghĩa vụ liên quan đến việc chuyển giao tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự bao gồm hợp đồng trao đổi, hợp đồng cho vay, hợp đồng mua bán b. Nhóm nghĩa vụ không liên quan đến chuyển giao tài sản bao gồm hợp đồng

vận chuyển hàng hóa, hợp đồng uỷ thác.

Luật Hồi giáo đòi hỏi các bên tham gia hợp đồng lập thành văn bản và phải có ít nhất hai người làm chứng.

<i>Thứ sáu, khái niệm tội phạm trong luật Hồi giáo xét từ góc độ hình phạt chia</i>

thành hai loại:

Tội phạm có thể đền bù bằng tiền;

Tội phạm phải đền bù bằng thân thể hoặc cuộc sống.

Bên cạnh đó, các học giả Hồi giáo chia ra ba loại tội phạm theo mức độ nặng nhẹ:

Hudud: Tội phạm nguy hiểm cho xã hội nhất, chống lại những “quyền của Allah” (chống lại quyền lợi của tất cả cộng đồng Hồi giáo) với chế tài được quy định chính xác bao gồm ngoại tình, vu cáo, uống rượu, trộm cắp, cướp, phản đạo và vi phạm kinh Koran. Hình phạt đối với tội ngoại tình, vu cáo, uống rượu là bị

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

đánh bằng roi. Hình phạt đối với tội trộm và cướp là bị đóng đinh vào thánh giá hoặc bị chặt tay chặt chân. Hình phạt đối với tội phản đạo và vi phạm kinh Koran là chặt đầu.

Quesas: Tội phạm chống lại các cá nhân, đòi hỏi sự trả thù của người bị hại hoặc gia đình người bị hại với chế tài cũng được xác định chính xác bao gồm tội giết người (cố ý hoặc vơ ý), gây thương tích (cố ý hoặc vơ ý), cưỡng dâm.

Taazir: Các tội phạm liên quan đến “quyền của Allah” (không thực hiện các nghĩa vụ tôn giáo) và tội phạm liên quan đến cá nhân nhưng không bị trừng phạt nặng như ăn thịt lợn, làm chứng gian, hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo hở hang … Hình phạt cho loại tội phạm này tuỳ theo thẩm phán tòa án Shariah có thể là phạt tiền, phạt tù nhưng nhẹ hơn hai loại tội phạm kể trên.

Thông thường các hệ thống pháp luật khác coi tội làm gián điệp hay giết người là tội phạm nặng nhất, tuy nhiên đối với luật Hồi giáo thì các tội phạm chống lại niềm tin vào Allah là nặng nhất. Ví dụ khi có hành vi vi phạm tội giết người thì căn cứ vào các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà tòa án tuyên tử hình hoặc cho chuộc bằng tiền và tài sản. Theo luật Hồi giáo, hành vi giết một người đàn ông có thể chuộc bằng 100 con lạc đà, hành vi giết một người đàn bà có thể chuộc bằng 50 con lạc đà. Ở nước Ả rập Xê út, cho đến năm 1988 người phạm tội có thể chuộc một số tiền tương đương 32.000 USD giết một người đàn ông Hồi giáo, đối với giết một người phụ nữ Hồi giáo thì số tiền chuộc là 16.000 USD. Bên cạnh đó, số tiền chuộc khi giết một người đàn ông hoặc người phụ nữa không theo đạo Hồi lần lượt là 16.000 USD và 8.000 USD.

<i>Thứ bảy, Toà án Hồi giáo Shariah giải quyết các vụ án dân sự và hình sự.</i>

Trước tịa, đương sự phải có hai người đàn ơng làm chứng. Nếu chỉ có một người đàn ơng làm chứng thì đương sự có thể thề trước Allah.

<i>Thứ tám, những người trung thành với đạo Hồi cho rằng luật Hồi giáo</i>

là thượng tơn đây là loại hình pháp luật cuối cùng, hồn thiện nhất, khơng thể thay đổi và trong tương lai toàn thể nhân loại sẽ thừa nhận và tn thủ nó. Bởi vì nguồn luật cơ bản của nó bắt nguồn từ thượng đế (Kinh Koran) và nhà tiên tri Mohamet (Sunna). Theo quan điểm này, các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành không thể làm thay đổi luật Hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh những chi tiết mà luật Hồi giáo chưa cụ thể hoá hoặc cịn bỏ trống.

<i>Thứ chín, các quy định của đạo Hồi được xây dựng ở mức độ khái</i>

quát, những tư tưởng phong kiến và tư tưởng hiện đại đều có thể tìm ra những lập luận ủng hộ các quy định này, từ đó tạo thuận lợi cho việc giải thích và áp dụng quy định một cách mềm dẻo, linh hoạt. Chẳng hạn, đạo Hồi quy định về nghĩa vụ từ thiện, việc giải thích quy định này có thể theo nhiều cách. Cụ thể, thực hiện

</div>

×