Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội từ thực tiễn Huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 109 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI </b>

<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ </b>

NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

<b>PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ, </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI </b>

<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ </b>

NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

<b>PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ, </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

Tôi tên là Trần Đức Mạnh - Mã số học viên 19K51010113, là học viên lớp 19HN2, khóa 19 chuyên ngành Luật Kinh tế, Khoa Luật trường Đại học Mở Hà

<i>Nội, là tác giả của Luận văn thạc sĩ với đề tài: “Pháp luật về thu hồi đất để phát </i>

<i>triển kinh tế - xã hội từ thực tiễn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội” (sau đây gọi </i>

<i>tắt là luận văn). </i>

Tôi xin cam đoan nội dung được trình bày trong luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Nga – Phó Trưởng khoa Pháp luật Kinh tế Trường Đại học Luật Hà Nội. Các số liệu, thơng tin trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định và có thể kiểm chứng.

Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

<i> Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2023 </i>

Tác giả luận văn

<b> Trần Đức Mạnh </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 1</b>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài ...1</b>

<b>2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn ...4</b>

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...7</b>

<b>4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...7</b>

<b>5. Phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu ...8</b>

<b>6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ...9</b>

<b>7. Kết cấu của luận văn ...10</b>

<b>Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KT-XH ... 11</b>

<b>1.1. Cơ sở lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...11</b>

<i>1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trị của đất nơng nghiệp trong phát triển KT-XH ..11</i>

<i>1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...16</i>

<i>1.1.3. Cơ sở để Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phát triển KT-XH ...19</i>

<b>1.2. Lý luận về pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội</b>

<i>1.2.3. Cơ cấu pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...25</i>

<i>1.2.4. Các yếu tố tác động đến pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...31</i>

<b>Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ... 40</b>

<b>2.1. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...40</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>2.1.1. Nguyên tắc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...40</i>

<i>2.1.2. Phạm vi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...43</i>

<i>2.1.3. Các quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp ...47</i>

<i><b>2.1.4. Các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nơng nghiệp ...49</b></i>

<i>2.1.5. Các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...54</i>

<b>2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phớ Hà Nội ...57</b>

<i>2.2.1. Điều kiện tự nhiên, KT-XH của huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội có tác động, ảnh hưởng tới hoạt động thu hồi đất nơng nghiệp của huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội để phát triển KT-XH ...57</i>

<i>2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về thu hồi đất nơng nghiệp của huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội để phát triển KT-XH ...60</i>

<i>2.2.3. Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về thu hồi đất nơng nghiệp để phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội ...74</i>

<b>Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ... 82</b>

<b>3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ...82</b>

<b>3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...86</b>

<i>3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quy hoạch, KHSDĐ nơng nghiệp ...86</i>

<i>3.2.2. Giải pháp về hồn thiện các quy định về trình tự, thủ tục khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ...88</i>

<i>3.2.4. Hồn thiện các quy định về cơng tác giải quyết khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất. ...92</i>

<i>3.2.5. Xây dựng cơ chế xác định giá đất, đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất ...93</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phớ Hà Nội ...95</b>

<i>3.3.1. Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai và các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ...953.3.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai và năng lực cán bộ trực tiếp thực hiện công tác thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ...953.3.3. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm trong thực hiện pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất ...963.3.4. Đẩy mạnh thực thi dân chủ, công khai, minh bạch trong q trình thu hồi đất ...973.3.5. Tăng cường cơng tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình thực hiện thu hồi đất nông nghiệp ...973.3.6. Xây dựng cơ chế đại diện cộng đồng dân cư, người bị thu hồi đất nông nghiệp, hội nơng dân tham gia trực tiếp vào q trình thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH. ...98</i>

<b>KẾT LUẬN ... 100DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 1</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Đất đai là một phần lãnh thổ thiên liêng của Tổ quốc, gắn liên với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; là không gian sinh tồn của các cơng đồng dân cư, gia đình, mọi người dân; là nguồn tài nguyên hữu hạn, nguồn lực to lớn để phát triển đất nước, là tư liệu sản xuất đặc biệt tham gia vào tất cả các lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế, đời sống xã hội. Việt Nam có hơn 96 triệu dân, 65,4% dân số sống tại nông thôn và hơn 57% dân số sống bằng nghề nông nghiệp [17]. Đất đai được coi là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng và không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp, đảm bảo đời sống và tạo ra sản phẩm hàng hoá thiết yếu, bảo đảm an ninh lương thực cho toàn xã hội trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh, phức tạp, khó lường. Vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn xác định bảo vệ đất nông nghiệp có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra những mục tiêu, yêu cầu mới về phát triển Đất nước trong giai đoạn tới, địi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ, căn bản cơng tác quản lý đất đai và sử dụng đất, nhất là chính sách, pháp luật về đất đai theo hướng khơng chỉ nhằm giải quyết các khó khăn vướng mắc hiện tại mà còn tạo nền tảng để đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao [2]. Để cụ thể hóa mục tiêu, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra nhu cầu khách quan phải chuyển đổi một phần thích hợp đất nơng nghiệp sang đất phi nông nghiệp để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế... để tạo động lực thu hút đầu tư, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.

Để thực hiện quá trình chuyển đổi, Nhà nước phải tiến hành thu hồi đất nông nghiệp của người dân. Việc thu hồi đất không chỉ liên quan đến lợi ích thiết thực của người bị thu hồi đất mà cịn đụng chạm đến lợi ích của nhà đầu tư, của xã hội và cả Nhà nước. Đây là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp, trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của người nông dân và đồng thời cũng ảnh hưởng đến quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và đơ thị hóa theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Luật ĐĐ năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung, khắc phục được nhiều điểm hạn chế của Luật ĐĐ năm 2003. Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian thi hành thì Luật ĐĐ

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

năm 2013 cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Việc thu hồi đất cũng phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp dẫn đến khiếu kiện kéo dài, phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ trở thành điểm nóng an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Báo cáo tại Phiên họp thứ 37 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thanh tra Chính phủ cho biết, năm 2019, tình hình khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai chiếm 67,7% các loại khiếu kiện [4]. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách và pháp luật về thu hồi đất, trong đó quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, các mức bồi thường, tài sản và các chính sách hỗ trợ, tái định cư nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất, nhưng quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều vấn đề bất cập, hạn chế, thiếu sót, chưa đồng bộ. Nhiều nội dung của pháp luật về thu hồi hồi đất nông nghiệp chưa phù hợp với thực tiễn như: Khung giá đất, cơ chế, thời điểm, diện tích thu hồi đất, tái định cư, giải quyết việc làm, hỗ trợ trong việc thu hồi đất, tiêu cực; tham nhũng len lỏi trong quá trình thu hồi đất của người sử dụng... Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ: “Hồn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người sử dụng đất, lợi ích của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng có hiệu quả nguồn đất đai cho sự phát triển; khắc phục tình trạng lãng phí và tham nhũng đất đai” [1, tr.109-110]. Đặc biệt việc thu hồi đất được quy định trong Hiến pháp năm 2013 tại Khoản 3 Điều 54: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật” [12].

Có thể khẳng định Luật ĐĐ 2013 đã bộc lộ nhiều bất cập như: chưa phát huy được vai trị bảo đảm quyền lợi chính đáng của người có đất nông nghiệp bị thu hồi; chưa giải quyết được bài tốn đảm bảo sự hài hịa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất nơng nghiệp bị thu hồi; chưa giảm tình trạng khiếu kiện đông người, phức tạp liên quan đến thu hồi đất; vấn đề công khai, minh bạch, dân chủ chưa được phát huy; vẫn cịn trình trạng lạm quyền, lợi ích nhóm, cánh hẩu trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp; chưa phát huy hết tác dụng tích cực trong sử

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

dụng nguồn lực đất đai và thúc đẩy phát triển KT-XH, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội.

Huyện Thanh Trì là cửa ngõ phía Nam của khu vực trung tâm thành phố Hà Nội, có vị trí tiếp giáp với các quận trung tâm, có diện tích đất nơng nghiệp lớn, có dân số đơng… Thực hiện chủ trương CNH-HĐH của thành phố Hà Nội, tốc độ đô thị hóa của huyện diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên, q trình đơ thị hóa diễn ra không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các khu vực giáp các quận trung tâm, dân cư tập trung đông đúc hiện tượng lấn chiếm đất công, đất nông nghiệp, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nơng nghiệp diễn ra phổ biến trong một thời gian dài đặc biệt là tại các khu vực giáp ranh với các quận Hồng Mai, Thanh Xn, Hà Đơng và sự bng lỏng, tiêu cực trong quản lý đất đai của các cơ quan chức năng dẫn đến hậu quả khi Nhà nước thu hồi đất rất khó khăn trong khâu xác định nguồn gốc, quá trình sử dụng đất để làm căn cứ xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Đây cũng là nguyên nhân chính xẩy ra tranh chấp, khiếu kiện khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Thanh Trì…

Ngoài ra, dân cư chủ yếu sống dựa vào hoạt sản xuất nông nghiệp nhưng manh mún, nhỏ lẻ, trình độ dân trí so với các khu vực thấp, giá bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất chưa đảm bảo được so với giá thị trường nên vấn đề thu hồi đất nông nghiệp tại địa bàn huyện rất phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xẩy ra mất trật tự, an toàn xã hội hiện tượng bần cùng hóa của một bộ phận người nơng dân do khó chuyển đổi nghề nghiệp và ảnh hưởng của sự dịch chuyển lao động từ các vùng khác dưới tác động của quá trình CNH-HĐH.

Do vậy, việc nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan các quy định của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH là việc làm hết sức cần thiết về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Đồng thời, thơng qua đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp của pháp luật về thu hồi đất nơng nghiệp để phát triển KT-XH nhằm hồn thiện các quy định của LĐĐ năm 2013 về thu hồi đất cũng như nâng cao chất lượng đời sống của nông dân bị thu hồi đất nông

<b>nghiệp. Với lý do đó, tơi chọn đề tài: “Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để </b>

<b>phát triển kinh tế - xã hội từ thực tiễn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội” </b>

để làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật kinh tế, Trường Đại học Mở Hà Nội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn </b>

Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội đối với người bị thu hồi đất, nhà đầu tư và cả cộng đồng dân cư. Đây là một trong những chế định quan trọng của Luật ĐĐ năm 2013. Việc đi sâu nghiên cứu pháp luật về thu hồi đất và thực tiễn hoạt động thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH trong những năm gần đây đã được các cấp, các ngành và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau và dưới nhiều khía cạnh cả về lý luận và thực tiễn, tiêu biểu là các cơng trình nghiên cứu sau:

<i>- Đề tài khoa học cấp bộ: “Thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về thu hồi đất </i>

<i>ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, năm 2016 của Viện </i>

Khoa học Thanh tra (Thanh tra Chính phủ) do tác giả Đinh Văn Minh làm chủ nhiệm.

<i>- Đào Anh Dũng, (2018) luận văn “Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển </i>

<i>KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng theo pháp Luật ĐĐ năm 2013 từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm </i>

Khoa học xã hội Việt Nam

<i><b>- Trần Nhật Quân, (2018) “Luận văn Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất </b></i>

<i><b>nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, Học viện Khoa </b></i>

học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

<i>- Đinh Thị Hồng (2019) “Trình tự, thủ tục thu hồi đất để phát triển KT-XH </i>

<i>vì lợi ích quốc gia, cơng cộng theo pháp Luật ĐĐ năm 2013 từ thực tiễn quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chính Minh” Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa </i>

học xã hội Việt Nam

<i>- Phạm Kiều Liên (2019) “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông </i>

<i>nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” Trường Đại học Mở </i>

Hà Nội.

<i>- Phạm Thanh Bình (2019) “Quy hoạch, KHSDĐ theo quy định của pháp </i>

<i>luật Việt Nam qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam” Trường Đại học Mở Hà Nội. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i>- Phạm Thị Hải Vân (2020) “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành tại địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội” Trường Đại học Mở Hà Nội. </i>

Bên cạnh các đề án, đề tài, luận văn thạc sỹ cịn có nhiều các cơng trình, bài báo khoa học của nhiều tác giả như:

<i>- Bài viết “Vài suy nghĩ về sở hữu toàn dân đối với đất đai” của tác giả </i>

Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1 năm 2016.

<i> - Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thu hồi đất vì mục đích quốc </i>

<i>phịng, an ninh, phát triển KT-XH ở Việt Nam” của các tác giả Phan Trung Hiền - </i>

Huỳnh Thanh Tồn - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 (T6/2018).

<i>- Bài viết “Pháp luật về trách nhiệm giải trình và cơng khai thơng tin quy </i>

<i>hoạch, KHSDĐ cấp huyện” của tác giả Châu Hồng Thân, Tạp chí Nhà nước và </i>

Pháp luật số 9 năm 2019

<i>- Bài viết “Hoàn thiện quy định của pháp luật về quy trình xác định giá đất </i>

<i>cụ thể” của tác giả Châu Hoàng Thân, giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Cần </i>

<i>Thơ - Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12 (412), tháng 6/2020) </i>

<i>- Bài viết “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chủ </i>

<i>thể quản lý nhà nước về giá đất ở Việt Nam” của tác giả Châu Hoàng Thân giảng </i>

viên Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh số 02/2021

<i>- Bài viết “Nguyên tắc bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, </i>

<i>kịp thời và đúng quy định của pháp luật trong bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất” của tác giả Nguyễn Đắc Thắng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2 (406) </i>

năm 2022.

<i>- Bài viết “Hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà </i>

<i>nước thu hồi đất” của tác giả Bùi Thị Hồng Nhung, Khoa Pháp luật Kinh tế, </i>

Trường Đại học Luật Hà Nội - Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 09 (457), tháng 05/2022).

Ngoài ra, một số cuốn sách, giáo trình của một số tác giả đã về Luật ĐĐ 2013 nói chung và pháp luật về thu hồi đất nói chung như:

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>- Trường Đại học luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật ĐĐ 2013, Nxb. Cơng </i>

an nhân dân,

<i>- Cuốn sách “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt </i>

<i>bằng ở Việt Nam” do tác giả Doãn Hồng Nhung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp </i>

2014.

<i>- Cuốn sách “Pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam”, của tác </i>

giả Phan Trung Hiền chủ biên, Nxb.Đại học Cần Thơ, năm 2016.

Các tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp để phát triển KT-XH nói riêng trên cả nước và một số tỉnh có q trình đơ thị hóa diễn ra nhanh, mạnh mẽ về các phương diện: kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất; thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; khung giá đất khi thực hiện bồi thường, hỗ trợ; giải quyết các vấn đề khiếu nại, tố cáo trong q trình thu hồi đất… Ngồi ra, các luận văn, đề tài, các bài viết cũng đã chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật thu hồi đất nơng nghiệp nói riêng và pháp luật thu hồi đất nói chung như: bảo đảm quyền lợi của người có đất nơng nghiệp bị thu hồi; đảm bảo sự hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất nơng nghiệp bị thu hồi; tình trạng khiếu kiện đơng người, phức tạp liên quan đến thu hồi đất không giảm; tham nhũng quá trình thu hồi đất nơng nghiệp… Đồng thời, cũng đã đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất và các giải pháp thực hiện tốt pháp luật thu hồi đất tại các địa phương nói riêng và trên cả nước nói chung.

Tuy nhiên, Thành phố Hà Nội với vị trí là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước, một trong những địa phương đi đầu trong đẩy mạnh CNH - HĐH, đô thị hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức… nên công tác thu hồi đất để phát triển KT-XH của Thủ đô đã phát sinh nhiều hạn chế, khó khăn, có nhiều nguy cơ trở thành điểm nóng về an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Điều này đặt ra cho Thành phố Hà Nội phải có những cơng trình nghiên cứu đánh giá tồn diện, khách quan từ thực tiễn thực hiện pháp luật thu hồi đất để phát triển KT-XH trên địa bàn.

<i>Do vậy, việc thực hiện nghiên cứu đề tài “Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để </i>

<i><b>phát triển kinh tế - xã hội từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” để làm </b></i>

luận văn tốt nghiệp là cần thiết và góp phần hệ thống hóa về vấn đề lý luận, thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

tiễn liên quan đến việc thực hiện pháp luật thu hồi đất nói chung và pháp luật thu hồi đất nơng nghiệp nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i><b>3.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>

- Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Luật ĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn có liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH.

- Các quy định của Thành phố Hà Nội, huyện Thanh Trì thực hiện thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thực hiện pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH tại huyện Thanh Trì.

- Các Tờ trình, Đề án, Dự thảo về sửa đổi Luật ĐĐ năm 2013 và Dự thảo về Nghị định hướng dẫn thi hành Luật ĐĐ năm 2013 sửa đổi.

<i><b>3.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>

<i>- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát </i>

triển KT-XH từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội vì lợi ích quốc gia, công cộng; các quy định về quy hoạch, KHSDĐ; quy định về nội dung, thẩm quyền trình tự, thủ tục thu hồi đất nơng nghiệp để phát triển KT-XH; quy định về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH của Nhà nước, thành phố Hà Nội, huyện Thanh Trì và cơng tác giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH.

<i>- Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về thu hồi </i>

đất nông nghiệp để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, cơng cộng tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

<i>- Về thời gian: Luận văn giới hạn nghiên cứu pháp luật về thu hồi đất nông </i>

nghiệp để phát triển KT-XH từ thực tiễn huyện Thanh trì, thành phố Hà Nội giai đoạn 2017 - 2021.

<b>4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

<i><b>4.1. Mục đích </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Luận văn nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận về pháp luật thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, cơng cộng; phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH từ thực tiễn địa bàn huyện Thanh trì, thành phố Hà Nội nhằm phát hiện những hạn chế, bất cập; trên cơ sở đó, đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất ở nước ta.

<i><b>4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH bao gồm quan điểm, đường lối của Đảng về thu hồi đất; chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và quyền tài sản của người sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất; khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa, cơ sở của việc nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH; cơ cấu điều chỉnh của pháp luật và các yếu tố tác động đến việc nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH.

- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá nội dung pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH, gồm các quy định của Luật ĐĐ năm 2013, các văn bản hướng dẫn thi thành và các văn bản của thành phố Hà Nội có liên quan trực tiếp tới công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Nghiên cứu thực tiễn thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

- Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

<b>5. Phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu </b>

- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu v.v.. được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH ở Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

+ Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp khảo sát... được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

+ Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch v.v.. được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã và giải nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

<b>6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn </b>

<i>- Về phương diện lý luận: Luận văn làm hoàn thiện hơn về cơ sở lý luận </i>

pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng. Theo đó, luận văn làm rõ hơn đặc tính, vị trí và vai trị của đất nơng nghiệp đối với đời sống của người nông dân và sự cần thiết phải chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và nhu cầu chuyển dịch đất nông nghiệp nhằm thực hiện cho mục đích phát triển kinh tế xã hội vì mục đích quốc gia, cơng cộng. Luận văn nhấn mạnh tới sự khó khăn trong việc thu hồi đất nơng nghiệp xuất phát từ tính đặc thù của loại đất này và nhu cầu lớn của việc sử dụng đất nông nghiệp cho mục tiêu phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó nhận diện đặc trưng của pháp luật điều chỉnh đối với việc thu hồi đất nông nghiệp cho mục tiêu phát triển kinh tế; làm rõ các yếu tố tác động, ảnh hưởng tới pháp luật điều chỉnh đối với thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng.

<i>- Về phương diện thực tiễn, luận văn đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam </i>

về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH bao gồm cả văn bản của Trung ương và văn bản của thành phố Hà Nội; chú trọng tới việc những hạn chế, bất cập, không phù hợp của pháp luật hiện hành là rào cản cho việc việc tổ chức triển khai công tác thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà nội. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc tham khảo cho việc sửa đổi Luật ĐĐ năm 2013 và dự thảo Nghị định sửa hướng dẫn thi hành Luật ĐĐ năm 2013 về nội dung có liên quan đến thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu về chính sách công và làm tài liệu tham khảo những người trực tiếp làm công tác thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH.

<b>7. Kết cấu của luận văn </b>

Ngoài lời cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục với 03 chương cụ thể như sau:

- Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH

- Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội

- Chương 3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<b>Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỂ PHÁT TRIỂN KT-XH </b>

<b>1.1. Cơ sở lý luận về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </b>

<i><b>1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trị của đất nơng nghiệp trong phát triển KT-XH </b></i>

<i> 1.1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp </i>

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quan trọng đối với đời sống của con người cũng như tồn xã hội. Đất đai khơng những là địa bàn sinh sống của con người mà còn là tư liệu sản xuất đặc biệt. Ở Việt Nam tổng diện tích đất hơn 33 triệu ha [5] được chia thành nhiều loại đất khác nhau căn cứ vào mục đích sử dụng nằm trong vốn đất đai thống nhất của quốc gia.

Đất nông nghiệp là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp Luật ĐĐ năm 2013 ở nước ta. Theo cách hiểu của người Việt Nam, đất nông nghiệp thường là dùng để trồng các cây lấy lương lực bao gồm: trồng lúa, trồng cây hoa màu như ngô, khoai, sắn. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng đất nông nghiệp khá phong phú, không chỉ đơn thuần là trồng lúa, hoa màu mà còn được sử dụng để trồng các loại cây lâu năm hay dùng vào mục đích chăn ni gia súc, gia cầm, ni trồng thủy sản, xây dựng cơng trình trong hoạt động nghiên cứu vật nuôi cây trồng trong nông nghiệp, làm muối…

Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp): Đất nông nghiệp: Tổng thể các loại đất được xác định là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho việc trồng trọt và chăn ni, nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt và chăn nuôi, bảo vệ môi trường sinh thái, cung ứng sản phẩm cho các ngành công nghiệp và dịch vụ [23, tr.237-238].

Trong các văn bản quy phạm phát luật được ban hành trước Luật ĐĐ năm 2013 cũng đã cơ bản phân loại, quy định về đất nơng nghiệp theo mục đích sử dụng đất. Luật ĐĐ năm 1993, phân chia đất đai làm 6 loại: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất đô thị, đất khu dân cư nông thôn và đất chưa sử dụng. Như vậy, Luật ĐĐ năm 1993 phân loại đất nông nghiệp vừa dựa vào tiêu chí mục đích sử dụng chủ yếu vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất dẫn đến sự đan xen,

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

chồng chéo giữa các loại đất, khơng có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn cho cơng tác quản lý đất đai. Để xây dựng và phát triển nền kinh tế nơng nghiệp sản xuất hàng hóa thì một trong những giải pháp được Nhà nước ta thực hiện là xem quyền sử dụng đất là một tài sản đặc biệt, được góp vốn, được chuyển nhượng và được tích tụ ruộng đất để tạo cơ sở, tiền đề xây dựng nền kinh tế nơng nghiệp có khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lớn, áp dụng phương thức kinh doanh tổng hợp kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp với nuôi trồng thủy sản để khai thác và tận dụng tiềm năng, thế mạnh của đất đai, sức lao động, phân bố lại cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường đáp ứng yêu cầu khách quan trong giai đoạn mới.

Luật ĐĐ năm 2013 đã kế thừa và bổ sung phân chia đất đai làm 3 loại đó là: Nhóm đất nơng nghiệp, nhóm đất phi nơng nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng. Đồng thời cũng đã liệt kê cụ thể các loại đất căn cứ vào mục đích sửa dụng đất của nhóm đất nơng nghiệp tại Khoản 1 Điều 10 Luật ĐĐ năm 2013 bao gồm: “Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây lâu năm; đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy sản; đất làm muối; đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt khơng trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho mục đích học tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh” [13]. Ngoài ra, Luật ĐĐ năm 2013 cũng sửa đổi, bổ sung để bảo đảm thống nhất các phân loại và chế tài khi bị thu hồi đất như: đất trồng cỏ được gộp vào loại đất trồng cây hằng năm khác và luật hóa quy định về đất nông nghiệp khác để bảo đảm quyền lợi khi bị thu hồi…

Bên cạnh đó, trong dự thảo Luật đất đai sử đổi tiếp tục kế thừa cách phân loại như Luật ĐĐ năm 2013 nhưng trong phần nhóm đất nơng nghiệp đất trồng lúa thành một khoản riêng: “Điều 11. Khoản a. Đất trồng lúa gồm đất chuyên trồng lúa và đất trồng lúa cịn lại” [14]. Có thể nhận định rằng, trong dự thảo sử đổi luật lần này, Nhà nước đánh giá vai trò đặc biệt quan trọng của đất trồng lúa và hướng đến việc xây dựng vùng chuyên trồng lúa và đặt ra yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt loại đất

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

này để đảm bảo an ninh lương thực, đảm bảo đời sống cho một bộ phận người nông dân. Tuy nhiên, việc phân chia đất trồng lúa thành hai phần gây sự khó hiểu khi triển khai luật vào thực tiễn khi tại Điều 3, dự thảo Luật đất đai sửa đổi khơng giải thích thế nào là đất chuyên trồng lúa và đất trồng lúa còn lại.

Như vậy, Luật ĐĐ năm 2013 đã khắc phục những hạn chế về phân loại đất nông nghiệp và phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất nơng nghiệp.

Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm về đất nông nghiệp: Đất nông nghiệp là bộ phận đặc thù của tài nguyên đất đai có đặc tính riêng biệt dùng vào các hoạt động sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, trồng rừng; khoanh nuôi tu bổ, bảo vệ rừng; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên cứu thí nghiệm về nơng nghiệp, lâm nghiệp.

Ở Việt Nam, diện tích đất nơng nghiệp có gần 28 triệu ha chiếm 85% diện tích đất tự nhiên và được phân bố đan xen, rộng khắp trên phạm vi cả nước. Cách nhìn nhận đất nơng nghiệp ở phạm vi rộng, có tầm nhìn xa là cần thiết và phù hợp với thực tiễn khai thác sử dụng của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường trong xu hướng hội nhập quốc tế. Ngoài ra, khi Nhà nước thu hồi đất, chủ yếu là đất nông nghiệp để thực hiện phát triển KT-XH sẽ là căn cứ, cơ sở để thực hiện bồi thường, hỗ trợ bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của người có đất nông nghiệp bị thu hồi và đảm bảo đời sống cho một bộ phận người nông dân.

<i>1.1.1.2. Đặc điểm của đất nông nghiệp </i>

Tài nguyên đất có đặc điểm như: không thể di chuyển được, chịu sự tác động của các yếu tố mơi trường… trong đó, nhóm đất nơng nghiệp cịn có những đặc điểm đặc thù như :

<i>Thứ nhất, Nhóm đất nơng nghiệp được sử dụng làm tư liệu trực tiếp sản xuất </i>

trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối.

Nhóm đất nơng nghiệp được phân loại thành nhiều loại đất để phục vụ hoạt động sản xuất nơng nghiệp căn cứ vào mục đích sử dụng. Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp ngày nay dù khoa học cơng nghệ đã phát triển nhưng nhóm đất nông

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

nghiệp vẫn là tư liệu trực tiếp, không thể thay thay thế trong ngành nơng nghiệp. Ngồi ra, trong quá trình sản xuất của tổ chức, cán nhân, hộ gia đình thì mục đích sử dụng đất nơng nghiệp có thể được thay đổi cho phù hợp với tình hình sản xuất nhưng bản chất vẫn là đất nơng nghiệp. Để khắc phục tình trạng này pháp luật đã quy định chặt chẽ khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để vừa bảo đảm giữ được đặc tính ban đầu của đất nơng nghiệp vừa có căn cứ xác định nguồn gốc đất để tiến hành bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước có nhu cầu sử dụng để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, cộng đồng.

<i> Thứ hai, Giá trị của đất nơng nghiệp tính bằng chất lượng đất bao gồm: độ </i>

màu mỡ, phì nhiêu, độ dày, độ dốc, độ PH… chính là đặc trưng cơ bản nhất của nhóm đất nơng nghiệp quyết định năng xuất, chất lượng cây trồng, vật nuôi trong sản xuất. Chất lượng đất cũng chính là cơ sở tạo nên đặc điểm đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu trong ngành nông nghiệp, đồng thời là cơ sở để phân nhóm đất nông nghiệp thành các loại đất khác nhau như: đất trồng lúa, đất trồng rừng, đất trồng cây lâu năm… Ngoài ra, đặc điểm này là “mấu chốt” để Nhà nước ban hành phát luật quản lý chặt chẽ, hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng các loại đất nơng nghiệp có giá trị cao và có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, xã hội như đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng… để bảo đảm an ninh lương thực, đời sống của người nông dân và môi trường sinh thái.

<i>Thứ ba, đối tượng sản xuất của đất nông nghiệp là các cây trồng, vật ni… </i>

có tính mùa vụ, phát triển theo các quy luật sinh học và chịu tác động của điều kiện tự nhiên nên phải bảo đảm chất lượng đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất nông nghiệp buộc chủ thể sản xuất nông nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực liên quan luôn ứng dụng khoa học kỹ thuật tăng hệ số sử dụng đất nông nghiệp để tăng năng xuất. Do vậy, để bảo đảm chất lượng đất là yêu cầu quá trình sản xuất phải tuân thủ các quy luật sinh học, điều kiện tự nhiên có phương pháp bổ sung chất lượng đất là vấn đề quan trọng khi xây dựng ngành kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn mới.

Tóm lại, Đất nơng nghiệp là loại đất đặc thù, đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Đặc điểm riêng biệt của đất nông nghiệp và thể chế của Nhà nước đã chi phối những chủ chương, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đất

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

đai trong thời gian dài. Trong quá trình thực hiện chủ trương CNH-HĐH đất nước việc chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang mục đích phi nơng nghiệp để xây dựng hạ tầng giao thông, nhà máy, xí nghiệp là tất yếu khách quan phù hợp với xu thế vận động, phát triển của các nước có nền kinh tế tương đồng trên thế giới. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước đã khẳng định không triển kinh tế bằng mọi giá và phải đảm bảo an ninh lương thực, đảm bảo đời sống của người nông dân; bảo đảm môi trường sinh thái, chống lại biến đổi khí hậu tồn cầu…Vì vậy, pháp pháp luật về đất đai ln quy định, kiểm sốt chặt chẽ quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nơng nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng… Ngồi ra, khi Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp ngoài việc trả lại giá tri quyền sử dụng đất cũng đã xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ người nơng dân có đất thu hồi chuyển đổi nghề nghiệp hoặc cấp đất tái định cư để ổn định cuộc sống, ổn định sản xuất cho người nơng dân.

<i>1.1.1.3. Vai trị của đất nông nghiệp trong phát triển KT-XH </i>

Trong phát triển KT-XH đất nông nghiệp là nguồn chủ yếu để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo động lực phát triển KT-XH. Vì vậy, đất nơng nghiệp của vai trò quan trọng như:

<i>Thứ nhất, là một bộ phận hợp thành lãnh thổ Quốc gia, dân tộc và Nhà nước </i>

là đại diện quản lý, sử dụng, bảo vệ, đồng thời là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự ổn định, tồn tại và phát triển của đất nước.

<i>Thứ hai, đất đai là nguồn lực quan trọng trong phát triển KT-XH. Đối với </i>

ngành công nghiệp, dịch vụ là nơi để xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơng trình nhà, xưởng và thúc đẩy các ngành, nghề khác cùng phát triển. Đối với sản xuất nông nghiệp là tư liệu sản xuất trực tiếp, chủ yếu kết hợp với công nghệ khoa học kỹ thuật, điều kiện tự nhiên quyết định đến chất lượng, năng xuất của ngành nông nghiệp khi tổ chức sản xuất theo quy mô kinh tế nông nghiệp.

<i>Thứ ba, văn minh của con người bắt đầu từ sản xuất nơng nghiệp và vai trị </i>

của ngành nơng nghiệp trong đó, đất đai là yếu tố đặc biệt quan trọng để bảo đảm an ninh lương thực trong điều kiện biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… Ngoài ra, khoa học kỹ thuật đã phát triển vượt bậc đạt rất nhiều thành tựu nhưng trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chưa thể thay thế được vai trò của yếu tố đất đai.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH 1.1.2.1. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp </i>

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lí. Như vậy, thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Nhà nước và Nhà nước thực hiện phân quyền theo quy định của pháp luật.

Từ điển Luật học giải thích đưa ra khái niệm về thu hồi đất: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng” [18]. Khái niệm này chưa định nghĩa rõ ràng về thu hồi đất, mặc dù đã liệt kê các trường hợp phải thu hồi đất nhưng nội hàm của khái niệm này chưa bao quát hết các trường hợp thu hồi đất và có hướng tập trung vào các hành vi vi phạm trong trong quá sử dụng đất chưa giải thích rõ mục đích thu hồi đất của Nhà nước vì lợi ích chung của cộng đồng.

Luật ĐĐ 2003 giải thích thuật ngữ thu hồi đất tại Khoản 5, Điều 4: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này” [9]. Như vậy, Luật ĐĐ năm 2003 đã đưa ra khái niệm chung về hoạt động thu hồi đất và khơng giải thích theo hướng liệt kê mà nhưng đối tượng bị thu hồi đất lại chưa đầy đủ, chính xác như: người sử dụng đất bị thu hồi là tổ chức hay Ủy ban nhân dân xã, phường thị trấn, trong khi theo quy định pháp luật, người sử dụng đất bao gồm: tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

Trong quá trình xây dựng dự thảo luật đất đai năm 2013 có hai quan điểm, ý kiến về khái niệm thu hồi đất:

Nhà nước chỉ thu hồi đất đối với trường hợp do vi phạm pháp luật về đất đai, chấm dứt việc sử dụng đất theo quy định của pháp luật và tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước. Trường hợp các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp thì quyền sử dụng đất là quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 BLDS năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

sở hữu trí tuệ, QSDĐ và các quyền tài sản khác” [15]. Ngoài ra, Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định: “NSDĐ được chuyển QSDĐ, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. QSDĐ được pháp luật bảo hộ” [12] và Điều 167 Luật ĐĐ năm 2013 quy định: “NSDĐ được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng QSDĐ theo quy định của Luật này” [13]. Như vậy, QSDĐ là tài sản hợp pháp của người dân, được Nhà nước bảo hộ thì khơng thể tùy tiện thu hồi.

Ngoài ra, nhiều ý kiến cho rằng, do phương thức quản lý đặc thù về đất đai nên Nhà nước có quyền phân bổ và điều chỉnh hay chấm dứt quyền sử dụng đất vì mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước là hoàn toàn thuộc quyền của Nhà nước và điều cần xét xét, đánh giá tính pháp lý của hành vi thu hồi đất.

Trên các quan điểm đó, Luật ĐĐ năm 2013 được ban hành và quy định về thu hồi đất tại Khoản 11 Điều 3: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai” [13]. Cách giải thích thuật ngữ thu hồi đất đã đảm bảo quyền chủ sở hữu của Nhà nước và các trường hợp thu hồi. Bên cạnh đó, tại Dự thảo sửa đổi bổ sung Luật ĐĐ năm 2013 đã bổ sung thêm nội dung về thu hồi đất [14]: Khoản 14, Điều 3. … hoặc thu hồi đất được

<i>Nhà nước giao quản lý để bảo đảm tính chặt chẽ và phù hợp với các nội dung khác </i>

của luật.

Từ những phân tích, tác giả đưa ra khái niệm thu hồi đất như sau:

Thu hồi đất là việc Nhà nước ban hành quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất của các chủ thể có quyền sử dụng đất; thu hồi lại đất do vi phạm hoặc trả lại đất, quyền sử dụng của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật”.

Khái niệm về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH: Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH là việc Nhà nước ban hành quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất của các chủ thể có quyền sử dụng đất nơng nghiệp; thu hồi đất nông nghiệp do vi phạm hoặc trả lại đất nông nghiệp, quyền sử dụng đất nông nghiệp của người sử dụng đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật.

Luật ĐĐ năm 2013 không đưa ra khái niệm mà chỉ dùng thuật ngữ thu hồi đất vì mục đích phát triển KT-XH. Ở đây, chúng ta phải phân biệt rõ thu hồi đất vì

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

mục đích phát triển kinh tế và phát triển KT-XH. Mục đích của việc thu hồi đất để phát triển kinh tế lấy lợi ích của nhà đầu tư làm trung tâm. Mục đích của việc thu hồi đất để phát triển KT-XH là lấy lợi ích phát triển KT-XH của toàn cộng đồng là trung tâm, trong đó có lợi ích của nhà đầu tư, lợi ích của người có đất bị thu hồi và lợi ích của cộng đồng, lợi ích chung của quốc gia.

Ngoài ra, tại Điều 3 dự thảo Luật đất đai cũng khơng đưa ra giải thích chính thức về trường hợp nhà nước thu hồi đất phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, cơng cộng. Vì vậy, sẽ dẫn đến sự hiểu không thống nhất về khái niệm này trong quản lý đất đai.

<i>1.1.2.2. Đặc điểm thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </i>

Về bản chất thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH là việc chuyển quyền sử dụng đất, đồng thời cũng chuyển mục đích sử dụng nơng nghiệp theo một cơ chế bắt buộc thơng qua biện pháp hành chính và có các đặc điểm sau đây:

<i>Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH là việc nhà nước ban </i>

hành quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm chấm dứt quan hệ sử dụng đất nông nghiệp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp.

<i>Thứ hai, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH được tiến hành theo </i>

quy hoạch đã được phê duyệt và theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ đã được quy định trong luật. Nếu việc thu hồi đất không được quy định chặt chẽ, khơng được tiến hành theo trình tự, thủ tục được quy định trong luật và không theo quy hoạch, KHSDĐ đã được phê duyệt thì sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, tham nhũng, lợi ích nhóm. Đồng thời, quy định như vậy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất nông nghiệp bị thu hồi cũng như giúp cho việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ hơn, minh bạch, khách quan hơn.

<i>Thứ ba, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH được thực hiện bởi </i>

nhiều chủ thể, đặc biệt là vai trò của Nhà nước trong quá trình thực hiện việc thu hồi đất.

<i>1.1.1.3. Nhu cầu cần thiết khách quan của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </i>

<i>Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH không chỉ phục vụ </i>

cho việc phát triển công nghiệp mà còn phục vụ ngay cho việc phát triển sản xuất

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

nông nghiệp theo xu hướng công nghiệp hóa sản xuất nơng nghiệp, phù hợp với xu hướng hiện nay của nước ta đó là vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế trang trại và chuyển dịch cơ cấu cây trồng ngay chính trong sản xuất nơng nghiệp.

<i>Thứ hai, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH để thực hiện sự </i>

nghiệp CNH-HĐH đất nước. Để phục vụ quá trình này sẽ kéo theo việc chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nơng nghiệp sang cơng nghiệp, dịch vụ thì tất yếu phải thu hồi đất nông nghiệp.

<i>Thứ ba, trong các loại đất thì nhóm đất nơng nghiệp chiếm 85%, đất phi </i>

nông nghiệp chiếm khoản trên dưới 2% và còn lại là đất chưa sử dụng. Do vậy, thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện dự án phát triển KT-XH là khách quan, đồng thời, thu hồi đất nông nghiệp để giảm gánh nặng cho Nhà nước trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư…

<i>Thứ tư, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH để nâng cao hiệu quả, </i>

hệ số sử dụng đất nơng nghiệp bởi vì nhiều diện tích đất nơng nghiệp khai thác không hiệu quả, phân tán, manh mún, xé nhỏ; người dân bỏ ruộng đất hoang để lên đơ thị tìm việc làm khác trong khi đất dành cho cơng nghiệp hóa lại khơng có.

<i>Thứ năm, hiệu quả từ thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH thời gian </i>

qua đã tạo ra động lực để phát triển KT-XH. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung một cách hợp lý các quy định của pháp luật về thu hồi đất trong chính sách và pháp Luật ĐĐ năm 2013 cũng như việc chuyển dịch mạnh mẽ của cơ cấu kinh tế cho thấy, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH phù hợp với điều kiện mới của đất nước, thúc đẩy phát triển kinh tế góp phần ổn định chính trị xã hội.

<i>Thứ sáu, thể hiện vai trò của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đại diện và </i>

chủ thể thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trên trong phạm vi cả nước; theo đó, Nhà nước có quyền phân bổ và điều chỉnh đất đai cho hài hoà, hợp lý trên cơ sở tiềm năng đất đai và thế mạnh của mỗi vùng miền và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, với mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

<i><b> 1.1.3. Cơ sở để Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phát triển KT-XH </b></i>

<i>1.1.3.1. Cơ sở pháp lý </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Hiến pháp năm 2013 là đạo luật gốc tại Điều 53 quy định về quyền sở hữu đại diện của Nhà nước. Đây là cơ sở để Nhà nước thực hiện việc phân bổ, điều chỉnh đất đai từ chủ thể này sang chủ thể khác, trong đó có thu hồi đất là nội dung quan trọng.

Điều 4 Luật ĐĐ năm 2013 khẳng định quan điểm: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [13]. Đồng thời, Luật ĐĐ 2013 đã tiếp tục hoàn thiện căn cứ thu hồi đất theo hướng cụ thể hơn, liệt kê các trường hợp phải thu hồi đất để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, cơng cộng: Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương

<i>đầu tư mà phải thu hồi đất; Thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp </i>

thuận, quyết định đầu tư mà phải thu hồi đất; Thực hiện các dự án do Hội đồng

<i><b>nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất. </b></i>

Về bản chất, quyền sử dụng đất mà các chủ thể sử dụng đất đang sử dụng là do Nhà nước trao, giao bằng phương thức giao, cho thuê hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng không trao quyền sở hữu đất đai nên Nhà nước hồn tồn khơng mất đi quyền này mà chỉ cho phép người có quyền sử dụng đất có quyền khai thác, sử dụng đất trong phạm vi trao quyền đã được giới hạn về không gian và thời gian nhất định.

<i> 1.1.3.2. Cơ sở thực tiễn </i>

<i>Thứ nhất, thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH để thực mục tiêu </i>

CNH-HĐH, xây dựng cơ sở hạng tầng, kinh tế, xã hội để phát triển đất nước trong xu thế mới. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Phấn đấu đến năm 2045, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao” [2]. Để đạt thực hiện được mục tiêu của Nghị quyết, Nhà nước phải đề ra phương hướng phát triển đất nước, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đi đơi với cải cách thể chế chính trị… Do vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành từ nông nghiệp, sang công nghiệp dịch vụ và chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nơng nghiệp sang phi nông nghiệp là tất yếu, khách quan đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Thu hồi đất nông nghiệp để phát

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

triển KT-XH là biểu hiện cụ thể của việc dịch chuyển theo chủ trương này để xây dựng hạ tầng giao thông, tạo động lực thu hút đầu tư để phát triển kinh tế, xã hội.

<i>Thứ hai, Việt Nam xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp lạc hầu, để </i>

phát triển nền kinh tế nông nghiệp phát triển cao với công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại là không thể đáp ứng được do yêu cầu nguồn lực đầu tư lớn, trình độ khoa học kỹ thuật, chất lượng, trình độ nguồn lao động phải cao… Do vậy, chỉ có con đường CNH-HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp, thương mại, dịch vụ là còn đường duy nhất tạo ra nguồn lực, động lực phát triển đất nước. Tuy nhiên, phải cân đối để tạo định hướng phát triển nền kinh tế nông nghiệp do nước ta có những điều kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế nơng nghiệp có quy mô lớn, hiện đại.

<i>Thứ ba, q trình đơ thị hóa diễn ra mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng của nền </i>

kinh tế cao, sức ép từ tăng dân số tự nhiên, sự phân hóa dân cư khơng đồng đều… đặt ra yêu cầu là Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời, cải thiện, nâng cao đời sống cho người dân nên việc chuyển đổi một phần diện tích đất nơng nghiệp sang phi nơng nghiệp là tất yếu. Tuy nhiên, việc chuyển đổi phải được tính tốn kỹ lưỡng, có tầm nhìn xa, phù hợp với quy hoạch tổng thế để bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội, giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Thực tế ở một số địa phương, đất nông nghiệp khai thác cầm chừng, manh mún, nhỏ lẻ và không hiệu quả. Thu hồi đất là tất yếu nhằm cơng nghiệp hố trên chính nền sản xuất nông nghiệp, triển khai mơ hình sản xuất tiên tiến trong nông

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam có nhiều thành phần kinh tế với các lợi ích khác nhau và tồn tại đan xen, mâu thuẫn, đối lập

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

nhau. Pháp luật là cán cân công lý cần bằng, giải quyết hài hịa lợi ích của các thành phần kinh tế. Trong hoạt động thu hồi đất nông nghiệp của Nhà nước thì pháp luật về thu hồi đất là cơ sở để bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi ở các khía cạnh như:

<i>Thứ nhất, là tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế và tính thích </i>

ứng… Do đó, pháp luật trở thành biện pháp quản lý xã hội có hiệu quả nhất. Hoạt động thu hồi đất được điều chính bởi pháp luật về đất đai, trong đó có các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ. Thông qua các quy định và chế tài của pháp luật đã giúp Nhà nước đảm bảo lợi ích của người có đất bị thu hồi, của cộng đồng dân cư, của xã hội.

<i>Thứ hai, xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đại diện là Nhà nước thực hiện </i>

quyền của chủ sở hữu. Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho người sử dụng và được coi là quyền tài sản được bảo đảm bằng pháp luật. Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp vào mục cơng cộng thì quyền sử dụng đất chấm dứt, lợi ích của người bị thu hồi đất bị ảnh hưởng… Do vậy, Nhà nước phải ban hành pháp luật điều chỉnh vấn đề này như: quy định về thẩm quyền, trình tự, phạm vi, mục đích thu hồi đất nông nghiệp; quy định về quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người có đất bị thu hồi; quy định về giải quyết khiếu nại, khởi kiện hành chính trong ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính thu hồi đất của người dân.

<i> Thứ ba, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó có đất nơng </i>

nghiệp lĩnh vực khó khăn, phức tạp, nhạy cảm và thường dẫn đến khiếu kiện, tố cáo gây mất ổn định chính trị, xã hội do: (1) xuất phát từ chế độ sở hữu đất đai, chính sách pháp luật về đất đai thay đổi liên tục theo các giai đoạn lịch sử; một số chính sách hiện hành khơng còn phù hợp với thực tiễn tại các địa phương; tình trạng bng lỏng quản lý, quản lý không khoa học của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai dẫn đến những hệ lụy lớn khi thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ như: xác định nguồn gốc, diện tích, hiện trạng sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân… (2) ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích thiết thực người bị thu hồi đất, đặc biệt là người nông dân. Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đảm bảo đời sống cho khoảng 56 triệu người sống ở khu vực nông thôn và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Vì vậy, trong thu hồi đất nông nghiệp, điều trước tiên mà Nhà nước phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

giải quyết đó là bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người nông dân thông qua bồi thường, hỗ trợ để không gây ra những xung đột xã hội.

<i>Thứ tư, pháp luật quy định cụ thể thẩm quyền, mục đích, phạm vi, trình tự </i>

thu hồi đất nơng nghiệp và các phương thức giải quyết hậu quả do việc thu hồi đất nông nghiệp gây ra. Căn cứ vào các quy định này, các cơ quan chức năng của nhà nước có thẩm quyền xem xét, cân nhắc đưa ra các hành vi ứng xử để hạn chế đến mức thấp nhất việc thu hồi đất nông nghiệp và hiệu quả của việc thu hồi đất nông nghiệp phải đem lại lợi ích cho tồn xã hội. Ngồi ra, các quy định này nhằm kiểm sốt, hạn chế hành vi lợi ích nhóm hoặc thu hồi khơng mang lại tính hiệu quả cho xã hội. Bên cạnh đó, cũng là cơ sở để cơ quan có chứng năng theo dõi, giám sát, cấp trên có thẩm quyền, người có đất bị thu hồi, nhân dân… thực hiện giám sát, theo dõi việc thực hiện công vụ, nhiệm vụ so với quy định của pháp luật.

<i><b>1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </b></i>

<i>1.2.2.1. Khái niệm pháp luật thu hồi đất nông nghiệp </i>

Pháp luật là phương thức hiệu quả nhất để thực hiện chức năng quản lý xã hội của Nhà nước. Hệ thống pháp luật được phân chia thành từng lĩnh vực khác nhau để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội khác nhau nhưng vẫn có sự liên quan để tạo thành một chỉnh thể thống nhất điều chỉnh tất cả các mối quan hệ trong xã hội. Pháp luật về đất đai ban hành các quy phạm pháp luật về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, điều kiện, nội dung và phương thức cũng như việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Qua nghiên cứ, tìm hiểu có thể thấy pháp luật về thu hồi đất là một chế định quan trọng của pháp luật về đất đai tại Việt Nam và được hiểu về mặt lý luận như sau: “Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp của Nhà nước nhằm giải quyết mối quan hệ lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người dân bị thu hồi đất nông nghiệp”. Cơ chế điều chỉnh của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được thể hiện bằng việc Nhà nước sử dụng pháp luật tác động vào hành vi xử sự của các chủ thể quan hệ là quyền sử dụng đất theo hướng:

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<i>Thứ nhất, Hành vi xử sự của các chủ thể phù hợp với quy định của pháp luật </i>

khi Nhà nước thu hồi đất như: hành vi thu hồi đất đúng thẩm quyền, đúng mục đích, quy hoạch, thực hiện đúng trình tự, thủ tục thu hồi đất... thì pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện khuyến khích để phát triển.

<i>Thứ hai, đối với những hành vi xử sự của các chủ thể trái hoặc không phù </i>

hợp với quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất như: thu hồi đất không đúng thẩm quyền, khơng đúng trình tự, thủ tục; áp dụng giá đất bồi thường khơng đúng pháp luật v.v. thì pháp luật sẽ ngăn chặn, xử lý theo quy định của pháp luật về đất đai, luật hành chính, dân sự, hình sự…, đồng thời, nghiên cứu để chỉnh sửa, bổ sung và tiến tới loại bỏ dần khỏi đời sống xã hội.

<i>Thứ ba, pháp luật có cơ chế đảm bảo các quy định nêu trên được thực thi bởi </i>

sức mạnh và quyền lực của Nhà nước.

<i>1.2.2.2. Đặc điểm của pháp luật thu hồi đất nông nghiệp </i>

Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp với tư cách là một chế định đặc thù trong quản lý nhà nước về đất đai mang một số đặc trưng cơ bản sau:

<i>Thứ nhất, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp chịu sự ảnh hưởng và chi </i>

phối bởi hình thức sở hữu tồn dân về đất đai: (i) Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai nên Nhà nước có quyền phân bổ và điều chỉnh đất đai cho các mục tiêu kinh tế, xã hội và có quyền thu hồi đất. Vì vậy, pháp luật quy định Nhà nước ban hành các quyết định thu hồi đất trong những trường hợp cần thiết do nhu cầu của Nhà nước và xã hội ngay cả khi người sử dụng đất đang khai thác và sử dụng. (ii) Nhà nước là người đại diện sở hữu duy nhất nên để kiểm soát quyền lực, tránh sự lạm quyền, độc quyền, tùy tiện trong thu hồi và bồi thường khi thu hồi đất; đồng thời, thể hiện vai trò của Nhà nước là “đại diện” cho toàn thể nhân dân pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp quy định rõ và chặt chẽ về căn cứ thu hồi đất, các nguyên tắc, thẩm quyền, phạm vi, điều kiện bồi thường, hỗ trợ và trình tự thủ tục thực hiện việc thu hồi đất, chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về thu hồi đất.

<i> Thứ hai, Trong quá trình thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp, </i>

Nhà nước tiến hành bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người bị thu hồi đất. Cơ sở để bồi thường dựa trên những thiệt hại vật chất thực tế mà người nông dân phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

gánh chịu khi Nhà nước thu hồi đất; tổn hại phi vật chất ở thời điểm thu hồi và trong tương lai do đất đai là tư liệu sản xuất; đối tượng bị thu hồi đất nông là người nông dân khả năng chuyển đổi nghề nghiệp thấp; điều kiện sống thực tế cũng khó khăn, phụ thuộc trực tiếp vào sản xuất nông nghiệp…

<i>Thứ ba, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp phải giải quyết hài hòa mâu </i>

thuẫn giữa lợi ích “cơng” của Nhà nước, của xã hội và lợi ích “tư” của người sử dụng đất. Điều này thể hiện khi thu hồi đất để sử dụng cho mục đích chung thì Nhà nước phải chú trọng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi, dựa trên cơ sở quyền sử dụng đất là một loại quyền về tài sản được pháp luật bảo hộ. Trên thực tiễn, trong mối quan hệ giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người nông dân bị thu hồi đất thì người nơng dân là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nhất do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

<i>Thứ tư, mỗi giai đoạn khác nhau, với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong </i>

từng thời kỳ khác nhau, với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn khác nhau thì pháp luật điều chỉnh về thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nơng nghiệp nói riêng có sự sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp và nhìn chung pháp luật càng về sau thì càng có sự điều chỉnh hợp lý và hiệu quả hơn so với giai đoạn trước.

<i>1.2.3. Cơ cấu pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </i>

Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến nhiều chế định pháp luật quy định về cơ sở pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp, các nội dung đảm bảo thẩm quyền của Nhà nước và quyền lợi của người có đất nơng nghiệp bị thu hồi. Các nội dung cần xem xét khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội gồm: (1) Nhóm quy phạm quy định về căn cứ pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp; (2) Nhóm quy định về quy hoạch, KHSDĐ nông nghiệp; (3) Nhóm quy phạm quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp; (4) Nhóm quy phạm quy định về nội dung, trình tự, thủ tục thu hồi đất nơng nghiệp và (5) Nhóm quy phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp. (6) nhóm quy phạm về giải quyết khiếu nại, tố cáo khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

<i>1.2.3.1. Nguyên tắc, căn cứ thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </i>

Căn cứ pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội được pháp luật hiện hành cho phép UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện là cơ quan có

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

thẩm quyền thu hồi đất nơng nghiệp. Theo đó, UBND cấp tỉnh hoặc UBND cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội được quy định tại Điều 62 LĐĐ năm 2013. Tuy nhiên, thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp của UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện bị hạn chế bởi thẩm quyền của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, HĐND cấp tỉnh như đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vượt hạn mức vào các mục đích khác mà không thuộc trường hợp được Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư thì UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép trước khi UBND cấp có thẩm quyền quyết định việc chuyển mục đích sử dụng đất. Quy định này nhằm xác định rõ phạm vi và giới hạn của việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội tuân theo quỹ đạo, trật tự chung, trên cơ sở kế hoạch cụ thể đã được phân định nhằm đảm bảo sự cân đối, hài hòa về nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực. Pháp luật quy định căn cứ thu hồi đất nông nghiệp để làm cơ sở pháp lý, hạn chế tình trạng tùy tiện và lạm dụng khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng đất nông nghiệp. Mặt khác, cũng đặt ra yêu cầu cho các nhà đầu tư cần phải đảm bảo đó là dự án đúng tiến độ đã được phê duyệt. Quy định này nhằm phòng tránh tình trạng các dự án treo, quy hoạch treo làm lãng phí tài nguyên. Đồng thời, cũng làm cơ sở để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất.

Luật ĐĐ năm 2013 đã có những sửa đổi khá mạnh mẽ so với Luật ĐĐ năm 2003 trong quy định về thu hồi đất, tiếp tục dùng phương pháp liệt kê và bổ sung thêm một số trường hợp thu hồi đất vì mục tiêu phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, cơng cộng. Ngoài ra, quy định chặt chẽ hơn, phân cấp căn cứ vào chủ thể thể làm nguyên tắc để hồi đất đồng thời, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện dự án lớn, trọng điểm quốc gia. Trong dự thảo Luật đất đai sửa đổi cũng tiếp tục kế thừa và bổ sung trường hợp thực hiện các dự án được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua tại điểm c, điểm e khoản 3, khoản 4, 5, 6, 7 Điều 67 dự thảo Luật đất đai sửa đổi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i>1.2.3.2. Phạm vi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH. </i>

Phạm vi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH phải căn cứ vào quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 3 LĐĐ năm 2013 quy định: Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ mơi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định. Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời gian để thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất là ý chí của Nhà nước được xây dựng trên cơ sở khoa học, là công cụ pháp lý trong việc quản lý đất đai, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở phát sinh việc xây dựng KHSDĐ nhằm cụ thể hóa việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất và phân kỳ sử dụng đất trong một khoản thời gian nhất định.

Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội là việc triển khai thực hiện quy hoạch, KHSDĐ của Nhà nước. Quy hoạch, KHSDĐ do Nhà nước xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện trên thực tế. Điều này đặt ra vấn đề là cần tăng cường vai trò giám sát của nhân dân, của các cơ quan quyền lực nhà nước đó là Quốc hội và HĐND các cấp để tránh trường hợp tùy tiện, lợi ích nhóm trong việc lập quy hoạch, KHSDĐ. Muốn vậy, Quốc hội và HĐND các cấp phải thực hiện quyền lực của mình trong cơng tác lập quy hoạch, KHSDĐ từ khâu tham gia xây dựng, xét duyệt cũng như giám sát cả quá trình triển khai thực hiện cụ thể: Về nội dung, trình tự, thủ tục lập phê duyệt quy hoạch, KHSDĐ; quyền tham gia của người sử dụng đất với vai trò vừa là chủ thể QSDĐ vừa là đối tượng bị tác động bởi chính sách đất đai chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo quyền lợi của NSDĐ.

<i>1.2.3.3. Quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </i>

Quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội Đây cũng là nhóm quy phạm khơng thể thiếu nhằm xác định rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong thu hồi đất. Ở một khía cạnh khác, quy phạm quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp để phá triển kinh tế - xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

còn nhằm xác định rõ giới hạn thẩm quyền của cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất trong từng trường hợp cụ thể. Giới hạn này nhằm đảm bảo, hạn chế và phòng ngừa tình trạng tùy tiện, lạm quyền khi thu hồi đất nông nghiệp ở các địa phương và các biểu hiện của lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm. Sự vượt quá giới hạn thẩm quyền trong thu hồi đất đều là trái pháp luật và phải chịu các hình thức trách nhiệm pháp lý.

Luật ĐĐ năm 2013 quy định về thẩm quyền thu hồi đất về cơ bản theo hướng kế thừa quy định của Luật ĐĐ năm 2003. So với Luật ĐĐ năm 2003, Chủ tịch UBND cấp tỉnh được bổ sung thêm thẩm quyền thu hồi đất nơng nghiệp thuộc quỹ đất cơng ích của xã, phường, thị trấn để chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nơng nghiệp và quy định UBND có thẩm quyền thu hồi đất khơng được ủy quyền cho cơ quan chuyên môn thực hiện. Quy định này là hồn tồn hợp lý vì việc thu hồi đất sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi. Bên cạnh đó, Dự thảo luật đất đai sửa đổi quy định tại Điều 71 cũng cơ bản kế thừa các nội dung về thẩm quyền thu hồi đất.

Ngoài ra, thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp của UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện bị hạn chế bởi thẩm quyền của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, HĐND cấp tỉnh đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vượt hạn mức vào các mục đích khác phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép trước khi UBND cấp có thẩm quyền quyết định việc chuyển mục đích sử dụng đất.

<i>1.2.3.4. Quy định về nội dung, trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </i>

Về quy phạm nội dung, các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp phải được xem xét, xuất phát từ yêu cầu của lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hay phát triển kinh tế, để Nhà nước có cách ứng xử phù hợp: Áp dụng biện pháp hành chính hay bằng biện pháp thỏa thuận. Khi chưa xác định ranh giới giữa lợi ích cơng, tư hay đan xen cả lợi ích cơng và tư một cách cụ thể thì sẽ dẫn đến phiến diện trong đánh giá và vai trò của Nhà nước với tư cách người đại diện cho quyền lợi của nhân dân sẽ khơng cịn thể hiện tính khách quan, dễ bị lợi ích nhóm chi phối.

Về quy phạm hình thức, tức là những thủ tục được quy định khi tiến hành thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội, cách thức để thực hiện thẩm

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

quyền của từng cơ quan Nhà nước, cũng như cá nhân được trao quyền và trách nhiệm của cả NSDĐ đều phải tuân theo, nhằm đảm bảo cho các quy phạm nội dung được thực hiện có hiệu lực và hiệu quả theo yêu cầu đặt ra. Đây cũng chính là điều kiện để bảo đảm mở rộng dân chủ và thể hiện tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước. Mọi hoạt động, hành vi của cán bộ quản lý nhà nước về đất đai, của người có đất nơng nghiệp bị thu hồi, của chủ đầu tư và các chủ thể khác có liên quan đều phải tuân thủ theo quy trình, thủ tục cụ thể. Theo đó, về phía các cơ quan nhà nước, các quy định về trình tự, thủ tục mà Nhà nước phải thực hiện nhằm hướng tới đảm bảo tính minh bạch, dân chủ và cơng khai về thu hồi đất, trên tinh thần tôn trọng và lấy dân làm gốc. Đảm bảo dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra các công việc của Nhà nước liên quan đến thu hồi đất.

Quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất cũng giúp người dân nắm bắt được những khâu, những công đoạn mà họ phải có trách nhiệm tham gia, phối hợp cùng với nhà nước, nhà đầu tư trong việc thu hồi đất và giải phóng mặt bằng. Hơn thế, trình tự, thủ tục thu hồi đất nơng nghiệp cịn là cơ sở, căn cứ để người dân kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật của nhà nước khi thu hồi đất. Trên thực tế, nhiều sai phạm và biểu hiện của sự tùy tiện đã được phát hiện cũng chính từ một trong những lý do vi phạm quy trình, thủ tục thu hồi đất.

<i>1.2.3.5. Quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội </i>

Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một trong những nội dung hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp đến công tác thu hồi đất nông nghiệp. Bồi thường khi thu hồi đất là những thuật ngữ luôn gắn liền với chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là người đại diện được xem xét ở hai khía cạnh: (i) Quyền đại diện sở hữu của Nhà nước đối với đất đai là cơ sở, là nền tảng pháp lý cho Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất; (ii) Bồi thường là hệ quả tất yếu sau thu hồi đất, nếu người sử dụng đất đáp ứng được các điều kiện do pháp luật đất đai quy định [27]. Thực tế cho thấy, thu hồi đất nông nghiệp nhanh hay chậm, diễn ra thuận lợi hay vướng mắc, đồng thuận hay không đồng thuận giữa Nhà nước với người dân xuất phát từ vấn đề bồi thường và hỗ trợ. Vì vậy, xây dựng các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cần hướng đến

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

lợi ích giữa các bên khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai sẽ là nhân tố quan trọng trong việc góp phần ổn định xã hội.

Hiến pháp hiện hành nước ta đã khẳng định, QSDĐ được pháp luật bảo hộ và việc thu hồi đất nông nghiệp phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. Nhà nước sẽ có trách nhiệm bồi thường tài sản của NSDĐ như thế nào khi thu hồi đất với cách tiếp cận là chia sẻ lợi ích, giải quyết mối quan hệ hài hòa về lợi ích giữa: Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Đây là nội dung vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn đó là: (i) Hiệu quả kinh tế mà nhà đầu tư kỳ vọng đạt được sau khi thực hiện dự án được thể hiện trong Báo cáo đầu tư khi đệ trình cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, và (ii) Hiệu quả cả về kinh tế - xã hội của một cộng đồng dân cư nào đó được thụ hưởng khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ như khi xây dựng cơng trình thủy lợi để phục vụ cho việc phát triển vùng chuyên canh cây cà phê thì đời sống người dân sẽ được cải thiện cả về kinh tế lẫn môi trường sống; hoặc phục vụ cho vùng chuyên canh lúa. Điều này sẽ làm tăng hệ số sử dụng đất từ 1 vụ thành 2 vụ lúa nước do chủ động tưới tiêu,…

Xác định được nội dung trên, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải đáp ứng quyền lợi của người bị thu hồi đất; quyền lợi của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu trong việc thực hiện quyền điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của NSDĐ mang lại; và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư khi bỏ vốn thực hiện dự án; hay nói cách khác, các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ phải phản ảnh hài hịa lợi ích của các bên.

<i>1.2.3.6. Các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </i>

Quyền khiếu nại, tố cáo cũng như yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo khi có chứng cứ cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm là một quyền dân sự của người dân có đất bị thu hồi và được pháp luật thừa nhận. Trường hợp phát hiện quyền lợi của mình liên quan đến hoạt động thu hồi đất nơng nghiệp, người dân có đất bị thu hồi hồn tồn có quyền khiếu nại đến các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết hoặc nộp đơn khởi kiện tại tòa án. Vì vậy những quy định pháp luật về vấn đề này được quy định trong LĐĐ

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành; trong Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018; trong Luật Tố tụng Hành chính năm 2015.

Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả Nhà nước và công dân.

Đối với Nhà nước, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm phát hiện, ngăn ngừa và khắc phục những hành vi sai trái trong thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng. Điều này đảm bảo cho việc thu hồi đất đúng mục đích, bồi thường đúng đối tượng, đúng giá trị. Giải quyết một cách nghiêm minh, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo là phương thức phát huy vai trò của pháp luật và góp phần củng cố lịng tin của nhân dân đối với Nhà nước.

Đối với công dân, khiếu nại, tố cáo là phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Trên thực tế, công tác thu hồi đất, bồi thường được thực hiện thông qua những cán bộ, công chức nhà nước. Nếu họ giải quyết không công tâm, thiếu dân chủ thì sẽ gây ra những phản ứng bất bình từ phía người bị thu hồi đất. Hậu quả là người dân không đồng thuận với việc thu hồi đất. Vì vậy, pháp luật quy định cho người bị thu hồi đất được quyền khiếu nại, tố cáo không chỉ giúp họ tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình mà thơng qua đó, Nhà nước có thể xem xét, đánh giá năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và ý thức tuân thủ pháp luật của đội ngũ công chức nhà nước.

<i><b>1.2.4. Các yếu tố tác động đến pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH </b></i>

<i>1.2.4.1. Quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và hồn thiện chính sách, pháp luật về đất đai nói chung và chính sách thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH nói riêng </i>

Quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là sự định hướng về mặt chính trị cho hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước ta. Hay nói cách khác đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, đặc biệt vấn đề thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH được Đảng ta quan tâm hàng đầu bởi sự ảnh hưởng, tác động, hệ quả của nó đối với xã hội. Trên cơ sở đó Nhà nước thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng bằng

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

các quy định của pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực cụ thể trong đó có lĩnh vực đất đai. Ngay từ Nghị quyết số 26/NQ-TW, ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp LĐĐ trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã nhấn mạnh:

<i>Thứ nhất, chính sách đất đai phải đảm bảo hài hịa lợi ích của Nhà nước, nhà </i>

đầu tư và người bị thu hồi đất, trong đó chú trọng đúng mức lợi ích của nhà nước, của xã hội.

<i>Thứ hai, cần thực hiện tổng hợp các biện pháp phát triển ngành nghề, đào tạo </i>

chuyển đổi nghề nghiệp, đổi mới cơ chế sản xuất nông nghiệp và những biện pháp hỗ trợ khác để giải quyết cơ bản việc làm và thu nhập cho người nơng dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích cơng cộng và phát triển kinh tế.

<i>Thứ ba, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình và cá nhân </i>

đang sử dụng hợp pháp để phục vụ mục đích quốc phịng, an ninh lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng và phát triển kinh tế, Nhà nước phải thực hiện chế độ hỗ trợ phù hợp.

Tại Nghị quyết 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hồn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao đưa ra nhiệm vụ, giải pháp như:

<i>Thứ nhất, hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất </i>

vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, cơng cộng.

<i>Thứ hai, Hoàn thiện cơ chế xác định giá đất. </i>

<i>Thứ ba, hồn thiện cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp. </i>

Như vậy, Đảng và nhà nước ln quan tâm đến việc xây dựng chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đất đai để làm tiền đề cho việc phát triển KT-XH, đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo cuộc sống cho người dân. Vì vậy, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng tác động, chi phối các quy định của pháp luật về thu hồi đất nơng nghiệp.

<i>1.2.4.2. Tính thống nhất, đồng bộ và ổn định của hệ thống pháp luật </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Hệ thống pháp luật về đất đai phải mang tính thống nhất, đồng bộ và ổn định là yếu tố quan trọng tác động đến việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển KT-XH. Luật đất đai phải thống nhất áp dụng trong cả nước, tránh trường hợp mỗi địa phương áp dụng mỗi kiểu sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân có đất nơng nghiệp bị thu hồi. Tất cả các văn bản hướng dẫn thi hành phải đảm bảo phù hợp với Luật ĐĐ năm 2013 cũng như Hiến pháp năm 2013, một số quy định trong Luật ĐĐ năm 2013 mâu thuẫn hoặc khơng cụ thể nên khó khăn trong việc áp dụng. Đồng thời tính ổn định của pháp cũng tác động rất lớn đến việc thu hồi đất. Thực tế khoảng 10 năm lại phải ban hành luật đất đai mới cho phù hợp với thực tiễn xã hội như LĐĐ năm 1993, Luật ĐĐ năm 2003 và Luật ĐĐ năm 2013 đã ảnh hưởng đến chế độ, chính sách khi thu hồi đất nông nghiệp.

<i>1.2.4.3. Công tác quy hoạch sử dụng đất tại các địa phương </i>

Quy hoạch sử dụng đất đai có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát triển KT-XH của đất nước cũng như của vùng, địa phương. Quy hoạch sử dụng đất đai là căn cứ quan trọng của KHSDĐ hàng năm, trên cơ sở đó để thực hiện và vạch ra các kế hoạch phát triển KT-XH của cả nước, của vùng hay địa phương. Quy hoạch sử dụng đất đai sẽ hạn chế được tình trạng sử dụng đất tự phát không theo quy hoạch, gây nên những hậu quả lãng phí về sức người sức của. Quy hoạch sử dụng đất đai tạo ra sự ổn định về mặt pháp lý cho việc quản lý Nhà nước về đất đai, làm cơ sở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, đầu tư phát triển kinh tế xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và thực hiện nhiệm vụ CNH-HĐH đất nước. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và công tác thu hồi đất nông nghiệp, bồi thường, hỗ trợ có tác động qua lại lẫn nhau. Nếu cơng tác quy hoạch hiệu quả, chính xác thì sẽ hạn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và ngược lại.

<i>1.2.4.4. Yếu tố giá đất và công tác định giá </i>

Tại Khoản 19 Điều 3 Luật ĐĐ năm 2013 quy định: “Giá đất là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất” [13] do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất. Giá đất là căn cứ quan trọng để tính giá bồi thường về đất cho người bị thu hồi đất. Giá đất hợp lý đảm bảo cho việc bồi thường được chính xác, thuận lợi và ngược lại. Trên thực tế, rất khó để xác định giá đất hợp

</div>

×