Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

đề án lý thuyết tài chính tiền tệ đề tài thu ngân sách nhà nước và thực trạng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.05 KB, 30 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<small> </small>

<b>ĐỀ ÁN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ</b>

<b>ĐỀ TÀI: THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNGTẠI VIỆT NAM</b>

<b>Họ và tên sinh viên : Tống Phương Anh Mã SV : 11210753</b>

<b> Lớp sinh viên : Tài chính doanh nghiệp CLC 63D Giảng viên hướng dẫn : TS Lê Vân Chi</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Chương 1: Khái quát các vấn đề lý thuyết về thu ngân sách nhà nước...1</b>

<i><b>1.1. Khái niệm và các quan điểm về thu ngân sách nhà nước...1</b></i>

<i>1.1.1.Ngân sách nhà nước...1</i>

<i>1.1.2.Thu Ngân sách Nhà nước...2</i>

<i><b>1.2. Đặc điểm và vai trò của thu ngân sách nhà nước...3</b></i>

<i><b>1.3. Nội dung thu Ngân sách Nhà nước...5</b></i>

<i>1.3.1.Xét theo tác dụng của các khoản thu với quá trình cân đối ngân sách...5</i>

<i>1.3.2.Xét theo nguồn hình thành các khoản thu...14</i>

<b>Chương 2: Thực trạng thu ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn 2019 – 2023....16</b>

<i><b>2.1. Quy mô thu Ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn 2019-2023...16</b></i>

<i><b>2.2. Thu ngân sách nhà nước theo nguồn hình thành các khoản...20</b></i>

<i><b>Kết luận...25</b></i>

<i><b>Danh mục tài liệu tham khảo...26</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Chương 1: Khái quát các vấn đề lý thuyết về thu ngân sách nhà nước </b>

<i><b>1.1. Khái niệm và các quan điểm về thu ngân sách nhà nước </b></i>

<i>1.1.1. Ngân sách nhà nước</i>

Ngân sách Nhà nước là một phạm trù kinh tế - lịch sử xuất hiện và tồn tại gắn liền với sự ra đời, tồn tại, phát triển của nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ và sự xuất hiện của Nhà nước. Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, khi Nhà nước hình thành, để có được các phương tiện vật chất cần thiết đảm bảo sự tồn tại và thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước đã sử dụng quyền lực kinh tế chính trị để buộc các thành viên trong xã hội phải đóng góp hình thành nguồn quỹ cho Nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ, Nhà nước đã sử dụng hình thức đóng góp và chi tiêu bằng tiền tệ để tạo sự thuận tiện, linh hoạt cho cả người dân và Nhà nước, khi đó, thuật ngữ tài chính Nhà nước hình thành. Tuy nhiên, cho đến khi giai cấp tư sản xuất hiện, để có được khơng gian kinh tế tài chính thơng thống và hợp lý hơn, giai cấp tư sản đã đấu tranh chống lại chế độ thuế khóa vơ lý, tùy tiện, chế độ chi tiêu thiếu rõ ràng, thiếu sự tách bạch giữa chi tiêu của Nhà nước với chi tiêu của gia đình quan lại, vua chúa phong kiến. Kết quả của cuộc đấu tranh này trên lĩnh vực thuế khóa và chi tiêu của Nhà nước đã đưa đến sự thay đổi lớn trong quản lý tài chính Nhà nước. Từ đó, thuật ngữ “Ngân sách Nhà nước” được hình thành. Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ các khoản thu chi của Nhà nước được thể chế hóa bằng pháp luật. (Phạm Ngọc Dũng và Đinh Xuân Hạng (2011))

Cho đến hiện tại, thuật ngữ “ngân sách nhà nước” đã và đang được sử dụng rất phổ biến và rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Mặc dù khái niệm và quan điểm về thuật ngữ này vẫn tồn tại những sự khác nhau, song về ý nghĩa thì vẫn có những sự tương đồng nhất định.

Tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh (2001) đã viết “Ngân sách nhà nước là bản dự toán kế hoạch thu chi bằng tiền của nhà nước trong một khoảng thời gian xác định (thường là 1 năm)” Direktorat Penyusunan và cộng sự (2014), Ngân sách Nhà nước được định nghĩa là “kế hoạch tài chính hàng năm của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu của nhà nước.” David Beeg và cộng sự (2007) đã viết “Ngân sách là bản tường trình các kế hoạch chi tiêu và tài trợ của một cá nhân, một công ty hay một Chính phủ... Ngân sách Chính phủ mơ tả những hàng hóa và dịch vụ mà Chính phủ sẽ mua trong năm tới, những thanh toán,

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

chuyển nhượng Chính phủ sẽ thực hiện và cách thức Chính phủ trang trải cho những khoản đó.”

Ngân sách Nhà nước là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Đây là một tụ điểm của các nguồn tài chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước với mục đích phục vụ cho hoạt động của bộ máy Nhà nước các cấp và thực hiện các chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội.

<i>1.1.2. Thu Ngân sách Nhà nước</i>

Từ đòi hỏi của xã hội về việc đảm bảo ổn định xã hội và giải quyết những mâu thuẫn, xung đột giai cấp, tầng lớp, Nhà nước đã hình thành với vai trị là cơ quan quản lý xã hội. Để có được những phương tiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của mình, Nhà nước đã đặt ra các hình thức thu khác nhau trong đó chủ yếu là thuế để bắt buộc dân cư phải đóng góp hình thành quỹ tiền tệ của Nhà nước. Ban đầu, Nhà nước sử dụng quỹ tiền tệ này chủ yếu để đảm bảo sự tồn tại của bộ máy Nhà nước, sau đó phạm vi sử dụng được mở rộng dần theo sự mở rộng và phát triển các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Chính vì vậy, thu ngân sách nhà nước ngày càng được mở rộng để áp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn của ngân sách nhà nước. Qua sự hình thành các khoản thu ngân sách nhà nước, có thể hiểu thu ngân sách nhà nước là việc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để huy động, tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia để hình thành quỹ tiền tệ cần thiết nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.

Theo (Abiola và Asiweh, 2012), nhà nước tham gia vào việc sản xuất và cung cấp hàng hóa và dịch vụ cơng, thúc đẩy các hoạt động thương mại, in tiền lưu thông trong nước và đưa ra luật bảo vệ cạnh tranh công bằng và chống khủng bố. Quyết định thu hoặc chi ngân sách cũng là một phần quan trọng trong chính sách tài chính tổng thể của mỗi chính phủ, hoạt động kinh tế, chính trị và xã hội, với mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa phúc lợi cho mọi cơng dân. Để thực hiện các chức năng này, Chính phủ cần nhiều nguồn tài chính để từ đó có thể thiết lập các khoản thu (thuế và các khoản ngồi thuế) do người dân đóng góp để hình thành quỹ tiền tệ tập trung. Và hoạt động này được gọi là thu ngân sách nhà nước. Thu Ngân sách là một trong hai mặt hoạt động cơ bản của Ngân sách Nhà nước. Về mặt bản chất kinh tế, thu Ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

thái giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần nguồn tài chính trong xã hội hình thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thu Ngân sách Nhà nước được định nghĩa là việc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để huy động, tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia để hình thành quỹ tiền tệ cần thiết nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. (Giáo trình nhập mơn Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ Trường đại học Thương Mại)

Thu Ngân sách nhà nước phản ảnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong q trình nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để phân phối các nguồn tài chính của xã hội dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Như vậy, thu ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. (Giáo trình Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ NXB ĐH Cần Thơ)

Theo Dương Thị Bình Minh & Sử Đình Thành (2004), Thu ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để thực hiện phân phối các nguồn tài chính dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ của nhà nước. Như vậy, thu ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước đáp ứng cho các yêu cầu chi tiêu xác định của nhà nước. Thu ngân sách nhà nước trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt động kinh tế trong xã hội.

Thu ngân sách là một hoạt động cơ bản của ngân sách nhà nước. Về mặt bản chất, thu ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị tập trung các nguồn lực tài chính trong xã hội để hình thành quỹ tiền tệ tập trung quan trọng nhất của Nhà nước. Nói cách khác, thu Ngân sách Nhà nước là quá trình tiếp nhận các nguồn thu từ các nguồn tài chính khác nhau để Nhà nước có đủ nguồn lực để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Thu Ngân sách Nhà nước khơng chỉ đơn thuần là việc thu tiền mà còn liên quan mật thiết đến việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Đối với một quốc gia, việc quản lý thu Ngân sách Nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự hiểu biết về hệ thống thuế, quyền lực chính trị, quản lý tài chính và khả năng lập kế hoạch chi tiêu hiệu quả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Thu Ngân sách Nhà nước gắn chặt với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, bởi mục tiêu của thu Ngân sách Nhà nước là để hình thành quỹ tiền tệ tập trung từ đó Nhà nước có nguồn lực duy trì hoạt động và cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, thực hiện các chương trình và dự án quan trọng như xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh quốc gia.

<i><b>1.2. Đặc điểm và vai trò của thu ngân sách nhà nước </b></i>

Việc thu ngân sách nhà nước có những nét nổi bật đáng chú ý. Trong mọi xã hội, thu ngân sách nhà nước luôn liên quan chặt chẽ đến chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của nhà nước. Sự tồn tại và phát triển của nhà nước là điều kiện cho việc thu ngân sách nhà nước xuất hiện. Ngược lại, thu ngân sách nhà nước là một yếu tố không thể thiếu về mặt vật chất để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Nguồn tài chính tập trung trong ngân sách nhà nước là thu nhập được tạo ra trong quá trình nhà nước tham gia vào phân phối của xã hội dưới hình thức giá trị. Thu ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh trong q trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa nhà nước và các chủ thể trong xã hội. Sự phân chia này là một yếu tố khách quan tất yếu, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế-xã hội của nhà nước. Đối tượng phân chia là nguồn tài chính quốc gia, là kết quả của lao động sản xuất trong nước được thể hiện dưới hình thức tiền tệ.

Về mặt nội dung, thu ngân sách nhà nước chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Một đặc trưng khác của thu ngân sách nhà nước là sự liên kết chặt chẽ với các quá trình kinh tế như sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, cũng như sự biến động của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất và thu nhập. Cụ thể, khi giá cả tăng, thu ngân sách cũng tăng do nguồn thu từ thuế giá trị gia tăng hay các loại thuế khác cũng sẽ tăng, người dân và doanh nghiệp phải trả nhiều tiền hơn để đóng góp vào ngân sách nhà nước; tỷ giá tăng cũng dẫn đến tăng thu ngân sách; ngược lại, lãi suất tăng khiến các doanh nghiệp và cá nhân e dè hơn trong việc vay vốn để đầu tư, điều này tất yếu sẽ dẫn đến giảm thu ngân sách... Sự biến động của các

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

phạm trù này không chỉ ảnh hưởng đến mức độ thu ngân sách nhà nước mà còn đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu ngân sách nhà nước.

Kết quả của hoạt động kinh tế và mức độ biến động của các phạm trù giá trị là tiền đề quan trọng cho hệ thống thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, chính hệ thống thu ngân sách nhà nước cũng là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến kết quả của q trình kinh tế và sự biến động của các phạm trù giá trị.

Nói cách khác, thu Ngân sách Nhà nước khơng chỉ liên quan chặt chẽ đến chức năng và quyền lực chính trị của nhà nước, mà cịn phản ánh các quan hệ kinh tế trong xã hội. Thu ngân sách nhà nước cũng tương tác mạnh mẽ với các quá trình kinh tế và sự biến động của các phạm trù giá trị. Qua đó, hệ thống thu ngân sách nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh tế và quyết định về việc sử dụng nguồn tài chính quốc gia. Việc hiểu và quản lý thu ngân sách nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng của các nhà lãnh đạo và chính phủ. Đối với xã hội, điều này đảm bảo sự cân đối giữa nguồn tài chính và các chức năng của nhà nước, đồng thời tạo ra cơ sở vững chắc cho sự phát triển và thịnh vượng của quốc gia.

Nghiên cứu của (Iulia Rosoiu, 2015) đã cho thấy thu ngân sách có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế qua phân tích tác động của thu nhập và chi tiêu chính phủ đến tăng trưởng kinh tế ở Romania trong giai đoạn 1998 - 2014. Bằng kiểm định nhân quả Granger thông qua các phương pháp tự hồi quy vectơ đồng liên kết (VAR), tác giả đã đo lường mức độ ảnh hưởng của thu ngân sách nhà nước trong việc kiểm soát nền kinh tế. Bởi đây cũng là một khía cạnh quan trọng cần phân tích do thực tế là nhà nước sử dụng chính sách tài khóa như một cơng cụ kiểm sốt nền kinh tế. Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và chi tiêu chính phủ nhưng lại có mối quan hệ một chiều giữa thu thuế và chi tiêu chính phủ.

<i><b>1.3. Nội dung thu Ngân sách Nhà nước</b></i>

Tùy theo yêu cầu của việc phân tích đánh giá, phục vụ cho cơng tác quản lý cũng như cho việc điều chỉnh các chính sách động viên, người ta có thể phân loại nội dung thu ngân sách nhà nước theo nhiều tiêu thức khác nhau:

<i>1.3.1. Xét theo tác dụng của các khoản thu với quá trình cân đối ngân sách </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

1.3.1.1. Thu trong cân đối ngân sách nhà nước

Thu trong cân đối ngân sách nhà nước gồm các khoản thu chủ yếu sau đây: + Thuế, phí, lệ phí;

+ Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước; + Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước;

+ Các khoản thu khác theo luật định.

Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước hằng năm mà cịn là cơng cụ của nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhìn chung, nội dung của chính sách thuế thưởng xuyên có sự thay đổi cho phù hợp với diễn biến thực tế của đời sống kinh doanh xã hội và phù hợp với yêu cầu của quản lý kinh tế, tài chính. Bên cạnh đó, theo (Illyas và Siddiqi, 2010), thu ngân sách nhà nước có thể được phân loại thành nguồn thu từ thuế và các khoản ngồi thuế.

Hệ thống thuế là bộ phận khơng thể tách rời và gắn liền với hoạt động của Nhà nước. Các sắc thuế là sản phẩm tất yếu được hình thành từ sự ra đời của bộ máy nhà nước, và là nguồn thu quan trọng, đóng góp chủ yếu cho ngân sách nhà nước của mọi quốc gia trên thế giới. Có thể nói, ba khái niệm thuế, ngân sách, và Nhà nước có quan hệ mật thiết và Nhà nước có quyền lực tuyệt đối trong việc thu thuế.

Theo quan niệm cổ điển về thuế, các học giả cổ điển cho rằng bản chất của thuế được thể hiện rõ nhất ở bốn điểm sau:

- Thuế là khoản trích nộp bằng tiền của tổ chức, cá nhân cho nhà nước; - Thuế là khoản đóng góp bắt buộc dựa trên quyền lực nhà nước; - Thuế là khoản thu khơng có hồn trả;

- Thuế là khoản thu khơng có đối khoản trực tiếp.

Quan niệm cổ điển và các đặc điểm này vẫn tiếp tục được thừa nhận trong xã hội ngày nay, dù rằng quan niệm này hiện tại đã có nhiều thay đổi. Có thể nhận thấy điểm hạn chế lớn nhất của quan niệm cổ điển về thuế chính là nó đã tuyệt đối hố vai trị của quyền lực nhà nước trong việc xác lập và hành thu thuế, trên cơ sở nhấn mạnh tính cưỡng chế và bắt

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

buộc, tính khơng hồn trả của thuế. Ngược lại, quan điểm này coi nhẹ vai trò và địa vị kinh tế, thành phần xã hội của người nộp thuế trong quan hệ nộp thuế với nhà nước. Kế thừa những nhân tố hợp lý của học thuyết cổ điển về thuế, các học giả của học thuyết thuế hiện đại đã và đang cố gắng đi tìm những chân lý mới cho sự tồn tại và phát triển của thuế trong xã hội đương đại. Trái với những gì mà các học thuyết cổ điển chủ trương theo hướng phê phán chế độ thuế, các học thuyết hiện đại về thuế lại tìm cách khẳng định vai trị khơng thể phủ nhận của thuế trong địa hạt kinh tế và địa hạt xã hội. Những ví dụ điển hình cho các học thuyết thuế hiện đại là học thuyết về thuế-trao đổi và sau đó là học thuyết về thuế-đồn kết. Trong lịch sử học thuyết thuế, ngoài hai học thuyết cơ bản nói trên về thuế hiện đại, người ta còn biết đến một học thuyết khác về thuế, với tên gọi là học thuyết về thuế-bù đắp.

Khái niệm về thuế tuy được thể hiện qua nhiều cách diễn đạt khác nhau, chung quy lại đều nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của yếu tố này đối với thu Ngân sách Nhà nước. Thuế là một hình thức phân phối thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn lại (Đại từ điển kinh tế thị trường, tr 669).

Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hồn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.

Thuế có thể được định nghĩa: “Thuế là khoản đóng góp có tính chất bắt buộc và là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước”. Hay mở rộng hơn: “Thuế là khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước, theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích cơng cộng” (Giáo trình Thuế, Học viện Tài chính) Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng: “Thuế là khoản hình thành trong quá trình phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân”.

Đặc điểm của Thuế là một trong những lời giải cho câu hỏi tại sao hệ thống thuế lại là bộ phận không thể tách rời với nguồn thu Ngân sách Nhà nước.

Thuế mang tính bắt buộc và tính pháp lý cao. Nhà kinh tế học nổi tiếng Joseph E. Stiglitz cho rằng: "Thuế khác với đa số những khoản chuyển giao tiền từ người này sang người kia: Trong khi tất cả những khoản chuyển giao đó là tự nguyện thì thuế lại là bắt buộc".

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Từ khi xuất hiện bộ máy nhà nước, cho dù đối với bất kỳ thể chế chính trị nào, Nhà nước đều ban hành các sắc thuế, mang tính bắt buộc để tạo nguồn thu tài trợ cho đa số hoạt động. Như vậy, ngay từ buổi sơ khai, thuế đã được sử dụng với mục tiêu quan trọng là tập trung thu nhập vào tay Nhà nước.

Trong Hiến pháp của mỗi quốc gia, tính bắt buộc và pháp lý của hệ thống thuế được thể chế hóa và quy định cụ thể bởi hệ thống văn bản pháp luật. Việc đóng thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của các đơn vị, tổ chức và cơng dân. Tính bắt buộc của thuế khơng mang nội dung hình sự, nghĩa là việc đóng th cho Nhà nước khơng phải là kết quả nảy sinh từ hành vi phạm pháp mà là nghĩa Vụ đóng góp được pháp luật thừa nhận và xã hội tôn vinh. Căn cứ vào ngành nghề kinh doanh, khu vực, mức thu nhập và nhiều yếu tố khác đối với từng trường hợp cụ thể, cơ quan lập pháp tối cao quy định luật thuế phù hợp, bao gồm: những điều khoản về số thuế phải nộp, thời hạn ấn định hay hình thức xử lý hành vi vi phạm. Tổ chức hoặc cá nhân nào không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế đồng nghĩa với việc vi phạm luật pháp tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó.

Thuế mang đặc điểm khác với các hình thức động viên khác:

+ Hình thức phí, lệ phí và cơng trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá.

+ Phạt tiền cũng là hình thức bắt buộc, song nó chỉ xảy ra khi người bị phạt có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích Nhà nước hoặc cộng đồng.

Tính pháp lý được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà kinh tế học Joseph E. Stiglitz nói rằng: "Việc chuyển giao bắt buộc này giống như là ăn trộm, chỉ có một điểm khác chủ yếu là: trong khi cả hai cách chuyển đều là khơng tự nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có mang tấm áo chồng hợp pháp và sự tơn trọng do các q trình chính trị ban cho" Được thể hiện thông qua các quy định cần thiết về phạm vi, hình thức và các thủ tục, quy trình pháp lý liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác. Có thể khẳng định, đây là sự khác biệt lớn nhất giữa thuế và những khoản đóng góp mang tính tự nguyện cho ngân sách nhà nước, giữa thuế và các khoản vay, viện trợ mà chính quyền các cấp nhận được. Tuy nhiên, tính bắt buộc này được xây dựng và nhận ý kiến đóng góp của tất cả thành phần tham gia vào hoạt động kinh tế,

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

chính trị - xã hội của mỗi quốc gia, được xác lập dựa trên nền tảng thực tiễn trong nước và quan hệ kinh tế thế giới. Chính bởi tính bắt buộc này, Thuế được coi là một trong những nguồn thu bền vững của Ngân sách Nhà nước.

Hơn nữa, nguồn thu về Thuế trong Ngân sách nhà nước cũng chiếm một tỷ trọng lớn, là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kỳ và ở các nước cũng chỉ ra rằng, tỷ trọng thu bằng thuế thường chiếm phần lớn trong các tổng thu nhập của ngân sách nhà nước. Hiện nay, ở một số nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu bằng thuế, phí chiếm tới trên 90% tổng số thu ngân sách nhà nước.

Thông qua thuế, một phần tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được tập trung cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, sự tập trung này tồn tại một giới hạn nhất định. Nếu Nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá mức phần GDP cho ngân sách nhà nước thì phần cịn lại cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu các doanh nghiệp và cá nhân nhận thấy rằng công sức họ bỏ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vào làm việc không được bù đắp thỏa đáng thì họ sẽ chuyển sang các hoạt động kinh doanh ngầm nhằm trốn thuế, tránh thuế hoặc ngừng kinh doanh. Bởi khác với các khoản vay, viện trợ, phí và lệ phí, tiền thuế mà Nhà nước thu được từ doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và cá nhân khơng được hồn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế, cũng như không bao gồm những cam kết về việc cung cấp bất kỳ dịch vụ hoặc rằng buộc nào. Nhà nước sẽ sử dụng tiền thuế với mục đích chi tiêu cơng cộng, phục vụ nhu cầu của bộ máy nhà nước và cho cộng đồng. Mọi cá nhân, cho dù mức độ đóng góp qua việc nộp thuế khác nhau, nhưng đơi khi có thể sử dụng và tiếp cận những cơng trình, dịch vụ phúc lợi xã hội như nhau. Số thuế phải nộp thường được tính tốn thơng qua hoạt động chịu thuế và thu nhập chứ không dựa trên khối lượng lợi ích cơng cộng mà mỗi cơng dân hay doanh nghiệp nhận được. Do vậy, trong công tác quản lý thuế rất cần phải quan tâm đến khả năng thu thuế của từng doanh nghiệp và cá nhân. Bên cạnh đó, tốc độ tăng thu thuế cũng cần phải nhỏ hơn tốc độ gia tăng thu nhập của doanh nghiệp và cá nhân.

Khả năng thu thuế là tỷ lệ tối đa từ thu nhập mà các doanh nghiệp và người dân sẵn sàng giành ra để trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

lệ phần trăm của GDP được động viên cho ngân sách nhà nước thông qua thuế. Để có được nguồn thu ổn định từ Thuế, các loại thuế khác nhau cũng được phân chia đa dạng, tùy vào các nước trên thế giới. Chủ yếu Thuế được chia làm một số loại phổ biến như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập-xuất khẩu, thuế tài nguyên,…

Mỗi luật thuế khác nhau đều được cấu thành bởi các yếu tố sau đây:

- Đối tượng nộp thuế: Đối tượng nộp thuế xác định chủ thể nộp thuế là ai. Theo các sắc thuế hiện nay, đối tượng là các cá nhân hoặc các tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân. Trong một luật thuế thường quy định rõ ai phải nộp thuế và người đó được gọi là đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế có thể là thể nhân hoặc pháp nhân mà được luật pháp xác định có trách nhiệm phải nộp thuế cho Nhà nước và gọi là người nộp thuế. Do tồn tại cơ chế chuyển dịch gánh nặng của thuế nên người nộp thuế có thể khơng đồng nhất với người chịu thuế. Đối tượng chịu thuế chỉ rõ thuế đánh vào cái gì (hàng hóa, thu nhập hay tài sản...). Mỗi một luật thuế có một đối tượng chịu thuế riêng, chẳng hạn đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng là hàng hóa và dịch vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước, còn đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có tính chất đặc biệt; đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là thu nhập từ hoạt động kinh doanh, còn đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân là thu nhập của các cá nhân.

- Đối tượng tính thuế: Đối tượng tính thuế xác định thuế được tính trên cái gì: tính trên giá trị tài sản, trên thu nhập hay trên phần giá trị gia tăng...

Mức thuế là đại lượng xác định số thu (nhiều ít) so với cơ sở tính thuế và được biểu hiện dưới hình thức thuế suất hay định suất thuế.

Mức thuế có thể được thể hiện dưới 2 hình thức: mức tuyệt đối và mức tương đối.

- Mức thuế tuyệt đối (hay còn gọi là định suất thuế) là mức thuế được tính bằng số tuyệt đối theo 1 đơn vị vật lý của đối tượng chịu thuế. Ví dụ: 1 lít xăng phải chịu thuế 1.000 đồng; 1 ha đất nông nghiệp hạng 1 vùng đồng bằng phải chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là 550 kg thóc.

- Mức tương đối (hay cịn gọi là thuế suất) là mức thuế được tính bằng một tỷ lệ phần trăm trên một đơn vị giá trị đối tượng chịu thuế. Thuế suất xác định mức độ động viên

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

trên một đối tượng tính thuế. Thuế suất có vị trí quan trọng đặc biệt vì nó thể hiện mối quan hệ về quyền lợi kinh tế giữa người nộp thuế với nhà nước. Ví dụ, thuế tiêu thụ đặc biệt của rượu mạnh được tính bằng tỷ lệ 75% trên giá tính thuế.

Căn cứ vào đặc điểm của mức thuế có thể phân biệt theo các loại sau đây:

- Mức thuế thống nhất là mức nộp thuế cố định như nhau cho tất cả đối tượng chịu thuế. Loại mức thuế này không phụ thuộc vào cơ sở tính thuế. Trong lịch sử, cách đánh thuế này thường được áp dụng để đánh thuế trên đầu người (thuế thân).

- Mức thuế ổn định là mức nộp thuế được quy định theo một tỷ lệ nhất định như nhau trên cơ sở tính thuế. Dù cho cơ sở tính thuế cao thấp khác nhau thì người nộp thuế cũng chỉ phải nộp mức thuế theo tỷ lệ ổn định.

- Mức thuế lũy tiến là mức thuế phải nộp tăng dần theo mức độ tăng của cơ sở tính thuế. Để đảm bảo mức nộp thuế lũy tiến, người ta phải thiết kế nhiều mức thuế suất ứng với mỗi bậc thuế của cơ sở tính thuế đó hình thành biểu thuế suất gọi là biểu thuế suất lũy tiến. Thơng thường có 3 loại biểu thuế suất lũy tiến:

+ Biểu thuế lũy tiến giản đơn là loại biểu thuế chia cơ sở tính thuế thành các bậc chịu khác nhau, ứng với mỗi bậc chịu thuế có quy định mức thuế phải nộp bằng số tuyệt đối. + Biểu thuế lũy tiến từng phần là loại biểu thuế chia cơ sở tính thuế thành nhiều bậc chịu thuế khác nhau, ứng với mỗi bậc thuế có quy định các mức thuế suất tăng dần tương ứng. Số thuế phải nộp là tổng số thuế tính theo từng bậc thuế với thuế suất tương ứng.

+ Biểu thuế lũy tiến toàn phần là loại biểu thuế chia cơ sở tính thuế thành nhiều bậc chịu thuế khác nhau, ứng với mỗi bậc thuế có quy định các mức thuế suất tăng dần tương ứng với mức tăng của cơ sở tính thuế. Số thuế phải nộp là số thuế tính theo cơ sở tính thuế đó với thuế suất tương ứng.

- Mức thuế lũy thoái là mức thuế phải nộp giảm dần theo mức độ tăng của cơ sở tính thuế. Xét về mục đích và mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế – xã hội Thuế có 3 tác dụng lớn:

o Tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.

o Điều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng phát triển kinh tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

o Đảm bảo sự bình đẳng giữa những chủ thể kinh doanh và cơng bằng xã hội.

Qua đó chúng ta thấy thuế có tác động lớn đến tồn bộ q trình phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận rất quan trọng cấu thành chính sách tài chính quốc gia.

Yếu tố miễn, giảm thuế: Việc quy định các yếu tố miễn, giảm trong các sắc thuế nhằm thực hiện các vấn đề chính sách xã hội qua các luật thuế, đồng thời còn tạo điều kiện thuận lợi cho nhà nước sử dụng linh hoạt công cụ thuế để điều chỉnh các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh theo chủ trương của nhà nước. Miễn giảm thuế là yếu tố ngoại lệ được qui định trong một số sắc thuế. Thực chất đó là số tiền thuế mà người nộp thuế phải nộp cho Nhà nước, song vì những lý do kinh tế - xã hội mà Nhà nước qui định cho phép khơng phải nộp tồn bộ (miễn thuế) hoặc chỉ nộp một phần (giảm thuế) số tiền thuế đó. Việc qui định miễn giảm thuế là nhằm mục đích:

+ Tạo điều kiện giúp đỡ người nộp thuế khắc phục

hoàn cảnh khó khăn do nguyên nhân khách quan làm giảm thu nhập hoặc ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế của mình.

+ Thực hiện một số chủ trương chính sách kinh tế - xã hội nhằm khuyến khích hoạt động của người nộp thuế.

Tuy nhiên, việc miễn giảm thuế cũng có tính hai mặt. Nó tạo điều kiện thực hiện các chính sách điều chỉnh kinh tế - xã hội của Nhà nước, có thể làm méo mó tính cơng bằng của một sắc thuế. Vì vậy, để khuyến khích tn thủ và để đơn giản hóa chính sách, nên hạn chế việc qui định các trường hợp miễn, giảm thuế mang tính cá biệt.

-Chính phủ có thể thu thuế trực tiếp hoặc gián tiếp: Thuế trực tiếp bao gồm thuế doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế lãi vốn và thuế tài sản. Thuế gián thu bao gồm thuế hải quan, thuế tiêu thụ đặc biệt trung ương, thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế dịch vụ (Chaudhry và Munir, 2010).

* Bên cạnh nguồn thu từ thuế, các khoản thu có tính chất thuế như phí, lệ phí cũng đóng vai trị quan trọng: đây là nguồn thu có xu hướng gia tăng trong tổng nguồn thu. Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả nhằm cơ bản bù đắp chi phí và mang tính phục vụ khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức được cơ quan nhà nước

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

có thẩm quyền giao cung cấp dịch vụ công theo quy định. Lệ phí là khoản tiền được ấn định mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ công, phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy định. Thuế, phí và lệ phí đều là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và mang tính pháp lý, tuy nhiên, khác với thuế, phí và lệ phí là những khoản thu khơng mang tính bắt buộc, chỉ phát sinh khi mỗi tổ chức hoặc cá nhân được hưởng các dịch vụ hoặc cơng việc hành chính mà pháp luật có quy định việc thu và nộp phí, lệ phí.

Trong khi thuế có 3 tác dụng lớn như ở trên đã đề cập, lệ phí và phí chỉ có tác dụng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn này không phải dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu mọi mặt của Nhà nước, mà trước hết dùng để bù đắp các chi phí hoạt động của các cơ quan cung cấp cho xã hội một số dịch vụ công cộng như: dịch vụ công chứng, dịch vụ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản, dịch vụ hải quan... Hơn nữa, thuế mang tính bắt buộc trong khi đó hình thức lệ phí, phí và cơng trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của lệ phí và phí chỉ xảy ra khi chủ thể nộp lệ phí, phí thừa hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp.

1.3.1.2. Thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước

Trong q trình điều hành ngân sách, các chính phủ thường có nhu cầu chi nhiều hơn số tiền thu được và việc cắt giảm các khoản chi rất là khó khăn vì liên quan đến các hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội .... Do đó, bắt buộc chính phủ phải tính tới các giải pháp để bù đắp sự thâm hụt của ngân sách nhà nước. Giải pháp thường được chính phủ sử dụng là vay thêm tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, bao gồm các khoản vay trong nước và ngoài nước, đáp ứng cho chi tiêu ngân sách nhà nước khi các khoản chi ngân sách Nhà nước vượt quá các khoản thu trong cân đối của ngân sách. Trong đó:

- Vay trong nước: gồm cả vay của các tổ chức tín dụng, các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội trong nước. Việc vay này được thực hiện dưới hình thức phát hành các cơng cụ nợ của Chính phủ (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) như các tín phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu Chính phủ:

</div>

×