Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 29 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
<b>HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN</b>
<b>BÀI TIỂU LUẬN</b>
<b>MƠN: CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM</b>
<b>ĐỀ TÀI: TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN TRONG GIA ĐÌNHNGƯỜI VIỆT TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI</b>
<b>Sinh viên</b>: <b>Mã sinh viên</b>: <b>Lớp</b>:
Hà Nội, Năm 2022
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>MỞ ĐẦU...1</b>
1. Lý do chọn đề tài...1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...2
3. Đối tượng nghiên cứu...3
4. Phương pháp nghiên cứu...3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài...3
6. Kết cấu luận văn...3
2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình truyền thống người Việt...8
2.1.1. Thiết kế bàn thờ gia tiên...9
2.1.2. Thờ cúng tổ tiên trong gia đình...11
2.1.3. Thờ cúng tổ tiên trong gia đình vào những ngày Tết, ngày Lễ...13
2.2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong thời đại hiện nay...17
<b>3. Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam...21</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Việt Nam ta là một đất nước nghìn năm văn hiến, trải qua những năm tháng thăng trầm của lịch sử với nhiều mất mát đau thương nhưng cũng thật hào hùng và đáng trân trọng. Những khó khăn mà ta phải đối mắt đã tôi luyện nên một dân tộc Việt mạnh mẽ, kiên cường, bền bỉ cùng với những đức tính đáng trân quý. Đó là những con người nhân hậu, hăng say lao động, mang những nét đẹp truyền thống của người con đất Việt. Nhìn lại cuộc sống hịa bình mà chúng ta có bây giờ, đó chính là nhờ cha ông ta, những thế hệ đi trước đã đánh đổi bằng mồ hơi, nước mắt, thậm chí là bằng cả mạng sống của mình. Sự hy sinh đầy vinh quang ấy là minh chứng sống cho những giá trị mà họ để lại.
Theo dòng thời gian, xuất hiện nét tín ngưỡng thờ cúng tố tiên trong văn hóa người Việt, như là một cách để con người tưởng nhớ về thế hệ đi trước, tổ tiên, dòng họ những người đã ra đi mãi mãi. Họ mong muốn lưu lại cho thế hệ tiếp nối về những giá trị mà cha ơng đã để lại. Tín ngưỡng này ra đời, đánh dấu một hệ thống, hình thức mới mang đậm bản sắc Việt, thể hiện rõ nét truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đáng quý của dân tộc ta bao đời nay. Họ tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, dù đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn luôn ở bênh cạnh con cháu, phù hộ cho con cháu khi gặp khó khăn, đem lại cho con cháu mình những điều tốt lành.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt trong quá trình hình thành và tồn tại đã góp phần tạp nên những giá trị, triết lý đạo đức tốt đẹp, mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Nó đã rèn luyện cho con người lòng hiếu thảo, tâm hướng về cội nguồn, trân trọng những điều đang có, biết ơn và có lịng phấn đấu nỗ lực trong cuộc sống. Trải qua bao thăng trầm cuộc sống, hình thức tín ngưỡng
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">này đã và đang chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt.
Trước xu hướng tồn cầu hóa, các hoạt động tơn giáo hay tín ngưỡng cũng phát triển ngày một mạnh mẽ. Tuy nhiên điều này cũng gây ra những mối lo ngại cho nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam trước sự xâm nhập của các tôn giáo ngoại sinh. Điều này đã đặt ra những thử thách mới cho ta nhưng cũng đồng thời là lời cảnh tỉnh, cho thấy sự cấp thiết của việc chấn hưng tín ngưỡng văn hóa dân tộc. Chúng ta cần nhanh chóng có những hướng đi tích cực để duy trì, phát triển và khôi phục lại những giá trị truyền thống, giữ gìn các nét bản sắc đáng trân quý, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, nét đẹp văn hóa đáng kính của dân tộc Việt. Ý thức con người có tổ có tơng được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác dù học sống ở bất cứ đâu trên thế giới.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt từ truyền thống đến hiện đại” làm đề tài nghiên cứu chính.
<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</b>
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt từ truyền thống đến hiện đại, từ đó làm nổi bật ý nghĩa tích cực và chỉ ra mặt hạn chế của nó. Bên cạnh đó, đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại yếu kém của tín ngưỡng ấy trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ:
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Làm rõ khái niệm tín ngưỡng, nguồn gốc, bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiển
Trình bày những biểu hiện, nội dung của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt từ truyền thống đến hiện đại. Từ đó phân tích ý nghĩa, giá trị của tín ngưỡng trong cuộc sống.
Đề xuất những giải pháp nhằm định hướng đúng, hiểu rõ và phát huy những giá trị của thờ cúng tổ tiên
<b>3. Đối tượng nghiên cứu</b>
Đề tài tập trung nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt từ truyền thống đến hiện đại. Từ đó tìm ra nguồn gốc, bản chất của tín ngưỡng này, đồng thời nêu ra những biểu hiện, thực trang và đề xuất hướng đi đúng đắn đề phát triển giá trị của nét văn hóa
<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>
Dựa trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin, bài luận chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Đồng thời, luận văn còn sử dụng nhiều phưrơng pháp khác như so sánh, phân tích, tổng hop, thống kê... để nghiên cứu đề tài.
<b>5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài</b>
Ý nghĩa lý luận : Đề tài góp phần nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đồng thời góp phần định hướng đúng đắn quan niệm về giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt.
Ý nghĩa thực tiễn : Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu các ngành học thuộc khoa học xã hội và nhân văn.
<b>6. Kết cấu luận văn</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và hệ thống các tài liệu tham khảo, luận văn gồm có chương và
<b>1. Khái quát chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt1.1. Khái niệm</b>
Ở nước ta hiện nay, thuật ngữ tín ngưỡng có thể hiếu theo hai nghĩa. Khi nói tự do tín ngưỡng, chúng ta có thể hiểu đó là tự do về ý thức hay tự do về tín ngưỡng tơn giáo. Từ điển tiếng Việt định nghĩa tín ngưỡng là: “lịng tin và sự tơn thờ một tơn giáo" [64, tr.1646], tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tơn giáo.
Các hình thức tín ngưỡng mang đặc thù theo từng không gian, chủ thể cũng như thời gian văn hóa khác nhau nhưng vẫn là biểu hiện niềm tin vào cái thiêng, sự ngưỡng mộ và sùng bái của con người. Do vậy, tín ngưỡng là một hiện tượng văn hóa mang tính lịch sử, một phạm trù lịch sử. Trong cuộc sống đời thường, khi nói đến tín ngưỡng người ta thường liên tưởng đến những hiện tượng xã hội có tính chất linh thiêng, thần bí, thể hiện niềm tin về một thế giới vơ hình, hoặc cuộc sống sau khi chết hay sự tồn tại của linh hồn người đã khuất cũng như sự tác động của lực lượng này đối với cuộc sống hiện tại của con người. Hiện tượng này gắn liền với các phong tục, tập quán, thói quen, truyền thống của một cộng đồng người hay một dân tộc, nó phản ánh nếp sống, cung cách ứng xử của con người cũng như phản ánh lịch sử phát triển văn hố của cộng đồng dân tộc đó.
Theo quan điểm của người viết, thì tín nguưỡng được hiểu như sau: Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ đức tin của con người đối với những hiện tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ những đổi tượng siêu hình mà người ta thờ phụng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Thờ cúng tổ tiên là một hình thức tín ngưỡng mà thơng qua những nghi lễ thờ cúng để xác lập “mối liên hệ" giữa người sống với người đã khuất, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. "Thờ" ý nói về một hành động biểu hiện sự sùng kính một đấng siêu hình như thần thánh, tổ tiên, đồng thời cũng có có thể hiểu là cách cư xử với bề trên cho phải đạo như thờ cha mẹ, thờ thần hay một người có ơn với mình, biểu hiện tình cảm của con cháu hướng về cội nguồn của mình. Thờ tổ tiên là thể hiện sự thành kính, biết ơn và tưởng nhớ đến tổ tiên, thể hiện niềm tin vào sự bảo hộ, giúp đỡ của tổ tiên ở thế giới bên kia. "Cúng" là một yếu tố mang tính lễ nghi, biểu hiện bằng việc dâng lễ vật cho tổ tiên, những người đã khuất, hoặc là một loại động tác (cúng, vái, lạy...) của người được quyền thờ cúng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ và được quy định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng dân tộc. "Thờ" và “cúng" là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh thế riêng biệt, đó là thờ phụng cho tổ tiên, cội nguồn, những người thân đã khuất của con người.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian, được hình thành từ thời nguyên thủy trong chế độ thị tộc phụ quyền. Đó là sự biết ơn, tưởng nhớ và tơn thờ những người có cơng sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như: cha mẹ, ông bà, cụ, kỵ, tổ sư tổ nghề, thành hoàng, tổ nước...
<b>1.2. Nguồn gốc</b>
Về nguồn gốc kinh tế - xã hội, thờ cúng tổ tiên là một bộ phận của ý thức xã hội, nảy sinh trên cơ sở kinh tế xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Trong thời kỳ đầu của công xã thị tộc, cơng cụ lao động cịn hết sức thơ sơ, trình độ lao động đơn giản cũng như năng suất lao động còn rất thấp. Do vậy cuộc sống của người nguyên thủy vẫn không cách xa cuộc sống của lồi vật. Ý thức cá nhân chưa định hình, dẫn tới việc ý thức xã hội của họ cũng mang tính bây đàn, đơn thuần. Về sau, khi lực lượng sản xuất phát triển, việc tìm ra lửa, dùng cung tên trong săn bắn đã tạo ra bước thay đổi căn bản trong ý thức người
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">nguyên thủy. Thời kỳ này, ý thức về tổ tiên là một yếu tố của ý thức công xã nguyên thủy, phản ánh sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên. Con người luôn bị đe dọa cuộc sống bởi những tai họa như: bệnh tật, mưa bão, nắng, hạn hán, thú dữ... và sau này cũng xuất hiện nhiều điều thần bí, phi tự nhiên xuất hiện trong cuộc sống của họ. Chính từ sự bế tắc trong cuộc sống hiện thực, con người đã đi tìm sự giải thốt thơng qua đời sống tinh thần. Cùng với biểu tượng về các thần linh, biểu tượng về tô tem xuất hiện trong thời kỳ thị tộc mẫu hệ. Trong thời kì này, việc thờ cúng tổ tiên cũng chỉ mới manh nha, chưa phố biển. Tô tem giáo là giai đoạn phát triển đầu tiên của thờ cúng tổ tiên. Trong thời tô tem giáo, con người đã nhận một vật hoặc một con vật làm tổ tiên trong bộ lạc để cầu mong cho họ có một cuộc sống yên lành, ấm no. Từ đó cũng xuất hiện sự kiêng kỵ là không được xúc phạm vật tổ nhưng chính họ đã phá vỡ sự kiêng kỵ đó bằng việc ăn thịt vật tổ. Họ cảm thấy sợ hãi và lo lắng mình sẽ bị trừng phạt. Sự hạn chế của con người trước tự nhiên và xã hội, dẫn đến sự hạn chế về việc giải thích cái chết của con người. Họ khơng biết sau khi chết, linh hồn và xác sẽ đi về đâu hay bằng cách nào, diễn ra ra sao. Đó là những tiền đề của thờ cúng tổ tiên.
Về nguồn gốc nhận thức, cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ “vạn vật hữu linh" - mọi vật đều có linh hồn và bắt đầu từ thế giới tự nhiên xung quanh mình. Vì thế, ngay từ thời cổ sơ nhất, con người ta đã tôn sùng các nhiên thần, như là thần cây, thần đá, thần núi, thần sơng nước... Bằng cách huyền thoại hóa, các vị thần được mang khuôn mặt hay tâm lý của con người. Việc này đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ thống nhân thần. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa thế giới hữu hình và vơ hình, nhất là giữa cái sống và cái chết đã khiến cho con người bận tâm. Vẫn với quan niệm “vật linh" kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn" và “xác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Về nguồn gốc tâm lý, người ta nhận thấy thờ cúng tổ tiên được hình thành trên cơ sở tâm lý, tình cảm của con người và cộng đồng người trong xã hội. Một trong những nhu cầu thiết yếu của con người chính là được tâm sự, gửi gắm, giải tỏa những cảm xúc, nỗi lòng trong đời sống tinh thần. Thờ cúng tổ tiên được hình thành trên cơ sở niềm tin vào sự bất tử của linh hồn tổ tiên. Niềm tin ấy đã giúp con người tạo ra hệ thống văn hóa giá trị truyền thống, thiêng liêng hóa tình thương, thái độ kính trọng đối với người có cơng tạo dựng cuộc sống, gửi gắm vào đó những cảm xúc riêng tư hay tâm sự thầm kín.
Cuộc sống là mơi trường văn hóa đặc biệt được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong môi trường ấy, con người không chỉ tiếp xúc với cái hiện hữu mà còn tiếp xúc với cái vơ hình, trừu tượng, khơng thể lý giải được bằng lý trí thơng thường. Niềm tin vào sự tồn tại của tổ tiên góp phần cân bằng trạng thái tâm lý, đơi lúc cịn như là một cách thức để giải tỏa đi nỗi cô đơn, bất hạnh của con người trước cái chết. Cái chết luôn là nỗi ám ảnh kinh hồng của con người, chết chính là sẽ phải rời xa cuộc sống này mãi mãi, chia ly hoàn toàn với những người thân thiết. Chết là kết thúc của tất cả, song đó lại là quy luật sinh học mà khơng ai có thể trốn tránh đối mặt. Bằng nghi thức thờ cúng tổ tiên, con người đã góp phần lý giải về cái chết và cuộc sống sau khi chết, giải tỏa nỗi kinh sợ khi nghĩ đến nó. Nỗi sợ ấy được giảm bớt thông qua việc thờ cúng ông bà, cha mẹ mình. Và dần dần trở thành tập tục, truyền thống, nghĩa vụ thờ cúng của mọi gia đình dưới hình thức giỗ chạp, xây mồ mả...
Có thể thấy, ta khơng thể hoàn toàn xác định về thời gian cụ thể hay một địa điểm chính xác khi tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời. Nhưng chắc chắn tín ngưỡng này là một bộ phận của xã hội đã trải qua nhiều thăng trầm trong quá trình phát triển, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống con người nói chung cũng như gia đình người Việt nói riêng. Nó là tập tục, truyền thống,
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">nghĩa vụ, là nét đẹp văn hóa mà mỗi người cần trân trọng và cần tiếp tục lưu truyền qua nhiều thế hệ tiếp nối.
<b>1.3. Bản chất</b>
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng giống như nhiều loại hình tín ngưỡng khác, phản ánh về một lực lượng siêu thần, xuất hiện trong trí óc con người, chi phối cuộc sống của chính họ. Cụ thể đó chính là tổ tiên của chúng ta, là những người thân thích đã ra đi mãi nhưng những giá trị mà họ để lại vẫn tồn tại mãi trong lòng con cháu cũng như các thế hệ về sau. Việc con cháu thành kính, thờ cúng tổ tiên là việc nên làm và phải làm, nó thể hiện được lịng biết ơn trân quý cũng như thái độ, ý thức luôn hướng về cội nguồn. Thờ cúng tổ tiên chính là sự phản ánh liên tục của thời gian, như cây cầu nối của quá khứ, hiện tại và tương lai. Con người ta đã ra đi nhưng không phải là sự kết thúc mãi mãi, mà đó chính là sự khởi đầu cho một chu kì mới, ở một thế giới mới, một cuộc sống mới sẽ tiếp tục.
Nội dung tín ngưỡng của thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự hiện tồn của linh hồn cũng như mối liên hệ chặt chẽ của người sống và người đã khuất cùng chung huyết thống. Họ vẫn ở một nơi nào đó, chứng kiến con cháu mình trưởng thành, xây dựng và phát triển cuộc sống, ở bên đồng hành và phù hộ cho con cháu mình một đời bình an và hạnh phúc. Thơng qua tín ngưỡng, đạo lí cao đẹp “uống nước nhớ nguồn” của con người Việt Nam cũng được thể hiện rõ. Không chỉ là hành vi thể hiện lịng biết ơn đối với bậc cha ơng đã khuất mà còn cho thấy thái độ, trách nhiệm lâu dài, tiếp nối với tổ tiên sau này.
Đặc trưng chung nhất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chính là bản chất nó là một hiện tượng xã hội, thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, đã ra đời và tồn tại từ rất lâu. Có thể khẳng định, đây chính là một loại hình tín ngưỡng dân gian, gắn liền với tập tục văn hóa, với niềm tin mãnh liệt cha ông, tổ tiên đã khuất sẽ luôn ở bên, phù hộ và che chở cho con cháu của mình
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt từ truyền thốngđến hiện đại</b>
<b>2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình truyền thống người Việt</b>
Trải qua khoảng thời gian dài của lịch sử, các tín ngưỡng ngày một phát triển và hồn thiện, phù hợp với cuộc sống ln biến đổi khơng ngừng của con người. Và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng vậy, xuất hiện và tồn tại từ rất lâu, tín ngưỡng này đã có những thay đổi về hình thức biểu hiện, tùy thuộc vào tập tục, thói quen của con người ở từng khu vực. Song những giá trí của tín ngưỡng này vẫn ln khơng đổi, vẫn mang những giá trị văn hóa đáng quý, thể hiện lịng thành của con cháu ln hướng về tổ tiên, dịng cội. Trong gia đình truyền thống của người Việt, các hình thức lễ nghi vẫn ln được duy trì từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu truyền, thể hiện lịng tơn kính, biết ơn của các thế hệ sau với những người thân thích đã khuất.
<b>2.1.1. Thiết kế bàn thờ gia tiên</b>
Bàn thờ tổ tiên là một không gian rất linh thiêng, nơi các thành viên gửi gắm lòng tưởng nhớ, biết ơn đối với tổ tiên của mình. Nó được coi như nơi tổ tiên đến và về với con cháu trong các dịp lễ của năm. Thông thường, bàn thờ gia tiên được lập cố định một chỗ, là nơi trang trọng nhất, được bài trí gọn gàng, sạch sẽ phù hợp với tính chất linh thiêng của tín ngưỡng
Việc bài trí bàn thờ gia tiên cũng khơng giống nhau, nó phụ thuộc vào quan niệm tâm linh cũng như điều kiện của từng gia đình, cá nhân khác nhau. Ở miền Bắc, bàn thờ thường là một giá gỗ được gắn nơi bức tường trung tâm của ngơi nhà chính, ở tầm cao trên tay với của người lớn, mỗi lần hương khói người ta phải đặt ghế để đứng lên trong tư thế thành kính. Miền Trung và miền Nam, vị trí ấy là chiếc tủ thờ bằng gỗ, cao gần tầm đầu người lớn, được chế tác công phu. Vị trí của bàn thờ thường đặt hướng về phía nam, hàm ý con cháu tôn vinh tổ tiên là những bậc hiền tài theo tinh thần “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">hạ”, theo đạo phật hướng nam là nơi Bát Nhã, là hướng của trí tuệ, sự sáng tạo, sinh lực tràn trề. Tuy vậy, phụ thuộc vào gia chủ, cũng có thể xếp vị trí bàn thờ phù hợp với vận mệnh, nhằm đem lại sự phong thủy cũng như những điều tốt đẹp. Khi lập bàn thờ, cũng có những điều kiêng kị mà chúng ta cần lưu ý như không được lộ thiên, hay đặt các vật nặng, vật sắc nhọn vào mặt bàn thờ. Cũng nên tránh những nơi bẩn tạp, khơng phù hợp với khơng khí linh thiêng.
Nhìn chung, một bàn thờ gia tiên thường được chia làm hai lớp, giữa hai lớp được ngăn bằng một bức y môn bằng vải. Lớp trong đặt long khám của thần chủ (ngai hoặc ỷ, tượng trưng cho ngôi vị của tổ tiên), bộ đồ thờ để đặt hộp trầu, chén nước đĩa hoa quả... Lớp ngoài là hương án, trên đặt bình hương, đèn, ống hương, mâm bồng... Ngày thường y mơn được bng rủ xuống, chỉ khi nào có lễ, sau khi con cháu thắp hương khẩn mời thì y môn mới được vén lên.
Bộ đồ thờ của những gia đình bình dân thường đơn giản, thường là bộ tam sự, gồm bát hương ở giữa và hai bên là hai cây đèn nến. Những gia đình khá giả, đồ thờ phụng là bộ ngũ sự hay thất sự. Bộ ngũ sự gồm bát hương, hai cây đèn nến, lọ độc bình, mâm bồng ngũ quả, cái ki hay còn gọi là tam sơn gồm bộ đài ba chiếc, giữa đặt chén rượu, hai bên mỗi bên để đĩa trầu cau, một bên để bát nước. Rượu và nước mang tính âm, hành thủy. Khi thắp hương đèn nến cúng vái, âm dương hòa hợp, mọi việc tốt lành. Có thể thấy, bàn thờ gia tiên thường được trang trí rất uy nghi thể hiện sự tơn kinh biết ơn các bậc tổ tiên, đó là một nét văn hóa đẹp của người Việt Nam ln được kế thừa và gin giữ từ đời này qua đời khác. Nhận thấy rõ, bàn thờ gia tiên được xem như một ngôi nhà, là nơi đi về của ông bà, tổ tiên đã khuất, bàn thờ là nơi gắn kết các mối quan hệ với từng thành viên trong gia đình, giữa người cịn sống với ơng bà, tổ tiên. Người đã khuất thường luôn ngự trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hàng ngày và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết. Mang ý nghĩa nhắc nhở con cháu khơng được qn tổ tiên, dịng họ, phải ln chăm sóc
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">mồ mả cha ơng, cố gắng nhiều hơn nữa về mọi mặt để làm rạng danh tổ tơng, dịng họ. Nếu bàn thờ, mồ mả tổ tiên có tốt đẹp thì tổ tiên mới phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, hưởng nhiều may mắn trong cuộc sống. Nếu bàn thờ, mồ mả không được chăm sóc kỹ thì sẽ khơng được ơng bà, tổ tiên phù hộ, giúp đỡ khi gặp khó khăn trong cuộc sống.
Bàn thờ gia tiên cũng là nơi để con cháu trong gia dình, dịng tộc tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ...những người đã có công xây dựng gia đình, dịng họ ngày một tươi đẹp. Là nơi thể hiện lịng thành kính, lịng tri ân tổ tiên, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, giữ gìn gia đạo của con cháu đối với tổ tiên, dòng họ. Nó như là một phần khơng thể thiếu trong yếu tố tâm linh của người Việt.
<b>2.1.2. Thờ cúng tổ tiên trong gia đình</b>
Thờ cúng tổ tiên trong gia đình là tấm lịng thành kính thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống cho con cháu. Đó là các hình thức lễ nghi, cúng bái nhằm bày tỏ lịng tơn kính của các thế hệ sau với những người thuộc thế hệ đầu tiên của một dịng họ, với ơng bà, cha mẹ đã qua đời. Cho thấy niềm tin thiêng liêng vào linh hồn ông bà tổ tiên như vị thần hộ mệnh, phù hộ che chở con cháu trong suốt những tháng ngày làm ăn sinh sống. Việc đốt vàng mã, tiền âm phủ ngày nay, ấy là những bằng chứng biểu hiện niềm tin vào ông bà, tổ tiên vẫn sinh hoạt như ở dương gian.
Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt ra đời từ lâu, trên cơ sở niềm tin về sự bất tử của linh hồn sau khi con người đã chết, tin rằng con người ta chết đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu. Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, chỉ cần một nén nhang lên bàn thờ tổ tiên trong ngày lễ, ngày Tết, hay ngày giỗ tổ tiên, con cháu trong gia đình cũng đã thể hiện được tấm lịng thành kính, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những người thân đã khuất. Từ lâu, thờ cúng tổ tiên ông
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">bà đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm người, đồng thời là một phần quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt Nam.
Về việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình, sau khi đặt đồ lễ lên bàn thờ, gia trưởng quần áo chinh tề, thắp hương, đứng trước bàn thờ, vái ba vái và khấn. Hương thắp trên bàn thờ bao giờ cũng thắp theo số lẻ: một, ba, năm nén. Sau khi gia trưởng khấn lễ, lần lượt đến mọi người trong gia đình vái trước bàn thờ. Ngày nay, việc khấn lễ đã giản đơn, người ta chỉ vái thay lễ. Trước khi khấn, vái ba vái ngắn, khấn xong vái thêm bốn vái dài và ba vái ngắn. Khi mọi người đã lễ vái xong, chờ cho tàn một tuần nhang, gia trưởng tới trước bàn thờ lễ tạ và thắp thêm tuần nhang nữa. Sau đó, gia trưởng hạ vàng mã trên bàn thờ đem hoá. Lúc hoá vàng người ta thường lấy chén rượu cúng vẩy lên đống tàn vàng. Các cụ giải thích, có như vậy người dưới âm mới nhận được số vàng người sống cúng. Lúc này có thể hạ đồ lễ xuống.
Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên (những người vừa mới mất được lập bàn thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải táng sạch sẽ mới được phép thờ chung với tổ tiên.
Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi thức rất được chú trọng trong tâm lý người Việt. Trong việc thờ phụng tổ tiên thì ngày giỗ hay cịn gọi là kỵ nhật rất quan trọng. Trong ngày giỗ, người ta làm cỗ bàn mời thân bằng quyến thuộc. Ở làng quê, ngày giỗ là dịp để gia chủ mời lại những người đã từng mời mình đi ăn uống, người ta gọi là trả nợ miệng. Giỗ có thể làm to hoặc làm nhỏ tuỷ theo gia cảnh và nhiều khi lại tuỳ thuộc vào mối liên hệ giữa người sống và người chết. Ví như giỗ cha mẹ, giỗ ơng bà thường làm to, giỗ anh em, chú bác cùng họ hàng xa thân thích thường chỉ có cơm canh cúng đơn sơ để tưởng nhớ. Ngày giỗ cũng là ngày con cháu tề tự cùng nhau, tưởng nhớ về người đã khuất cùng nhau chia sẻ cơng việc để hồn thành tốt đẹp buổi giố. Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình
</div>