Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 26 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b> BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>
<b> TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊNKHOA: KINH TẾ</b>
<b> BÀI TẬP DỰ ÁN MÔN: TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI</b>
<b>Giảng viên giảng dạy: Thầy Lê Ngọc PhươngLớp: 109191</b>
<b>Sinh viên thực hiện:</b>
<b>1. Nguyễn Thị Vân Anh2. Hoàng Thị Thùy Dung3. Nguyễn Thị Ngọc Ánh</b>
<b>Hưng Yên – 12/2021</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b> BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>
<b> TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊNKHOA: KINH TẾ</b>
<b>BÀI TẬP DỰ ÁNMÔN: TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI</b>
<b>PHÂN TÍCH SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ XUNG ĐỘTGiảng viên giảng dạy: Thầy Lê Ngọc PhươngLớp: 109191</b>
<b>Sinh viên thực hiện:</b>
<b>1. Nguyễn Thị Vân Anh2. Hoàng Thị Thùy Dung3. Nguyễn Thị Ngọc Ánh</b>
<b> Hưng Yên – 12/2021</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>MỤC LỤC</b>
Phần I. MỞ ĐẦU...4
1. Lý do chọn đề tài:...4
2. Đối tượng nghiên cứu:...5
3. Phương pháp nghiên cứu:...5
Phân II. NỘI DUNG...6
2.1. Sự tương đồng và xung đột...6
2.1.1. Tương đồng...6
2.1.2. Xung đột...8
2.2. Đề xuất biện pháp ngăn ngừa và giải quyết xung đột tập thể:...12
2.2.1. Biện pháp ngăn ngừa xung đột...13
2.2.2. Phương pháp giải quyết xung đột...13
2.3. Vận dụng vào trong doanh nghiệp và trong cuộc sống...16
2.3.1. Vận dụng vào hoạt động trong doanh nghiệp:...16
2.3.2. Vận dụng vào cuộc sống...23
Phần III. KẾT LUẬN...26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...27
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>Phần I. MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài:</b>
Sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới luôn tồn tại hai chiều hướng quan hệ phổ biến là sự tương đồng và xung đột. Đây là những vấn đề nan giải trong vô vàn những vấn đề của đời sống từ trước đến nay, bởi đó vừa là hậu quả, vừa là nguyên nhân gây ra nỗi buồn và nước mắt, vừa tạo nên nụ cười và niềm vui cho nhân loại. Trên thực tế, sự tương đồng và xung đột đan xen nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Cùng với đó, thế giới bao giờ cũng chứng kiến những cuộc thay đổi, hôm nay là “kẻ thù”, ngày mai là “bạn bè” và ngược lại.
Có thể nói, đề cập đến xung đột là đề cập tới mâu thuẫn dẫn tới tranh giành, cạnh tranh và cao hơn nữa là chiến tranh giữa các bên. Xung đột ở cấp độ thấp, nhỏ lẻ thường là xung đột về nguồn nước, tài nguyên, biên giới, kinh tế -thương mại. Xung đột ở mức độ cao hơn là cạnh tranh quyết liệt dẫn tới chiến tranh.. Chiến tranh do xung đột gây ra cũng có những dạng thức (chiến tranh lạnh hoặc chiến tranh nóng) và cấp độ khác nhau. Thế kỷ XX đã chứng kiến cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài bảy thập niên giữa một bên là Liên Xô và bên kia là Mỹ đứng đầu, mà phái sinh của nó là cuộc chạy đua vũ trang vơ cùng gay gắt, quyết liệt, tốn kém, làm hao tổn sức lực, trí tuệ và tổn thương nghiêm trọng cho cả hai bên. Chiến tranh lạnh chỉ kết thúc khi Liên Xô tan rã và Mỹ bị tổn thất nặng nề cả về nhân lực lẫn kinh tế. Nhiều nhà phân tích cho rằng, dường như thế giới hiện đang thấp thoáng xuất hiện một cuộc “Chiến tranh lạnh mới” giữa các nước lớn. Cuộc Chiến tranh lạnh kiểu mới này không căng thẳng, khốc liệt như trước, không phân tuyến, chia phe, nhưng việc chạy đua sản xuất các loại vũ khí, bao gồm tên lửa, máy bay, tàu chiến thế hệ mới... liên tục gia tăng, kèm theo đó là cuộc chiến thương mại đang diễn ra ở mức độ hết sức quyết liệt, mang lại nhiều hệ lụy đối với an ninh - chính trị và kinh tế thế giới.
Còn sự tương đồng là sự giống nhau về một số tính chất nhất định giữa các đối tượng, hiện tượng, quá trình. Trong suy luận theo sự tương đồng thì tri thức thu nhận được qua việc xem xét một số đối tượng hay mô hình nào đó được chuyển sang một đối tượng khác vốn dĩ khó nghiên cứu trực tiếp hơn. Những kết
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">luận rút ra từ sự tương đồng thường chỉ có tính chất xác suất, giống như thật. Mặc dù vậy, chúng vẫn là một trong những nguồn gốc của các giả thuyết khoa học và đóng vai trò quan trọng trong các phát minh khoa học, là bước quan trọng trong việc nhận thức quy luật. Tuy nhiên, trong khi sử dụng sự tương đồng cần đề phịng khuynh hướng chỉ thấy giống nhau bề ngồi mà không thấy sự khác nhau về bản chất giữa các hiện tượng, các q trình, do đó dẫn đến những kết luận sai.
Nhận thức được tầm ảnh hưởng quan trọng của sự tương đồng và xung đột nên nhóm em đã chọn nghiên cứu đề tài này để hiểu rõ hơn về tương đồng và xung đột cũng như các đặc điểm, ngun nhân, tính chất của nó. Từ đó rút ra các giải pháp tốt nhất để khắc phục, đem lại hiệu quả tối ưu.
<b>2. Đối tượng nghiên cứu:</b>
Phân tích nguyên nhân, đặc điểm, tính chất của sự tương đồng và xung đột.
<b>3. Phương pháp nghiên cứu:</b>
Tiểu luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp với việc thu thập và xử lý những tài liệu này giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổng qt và đúng đắn hơn về vấn nghiên cứu.
Bài tiểu luận gồm 03 phần chính: Phần I: Mở đầu.
Phần II: Nội dung. Phần III: Kết luận.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>Phân II. NỘI DUNG2.1. Sự tương đồng và xung đột</b>
2.1.1. Tương đồng a. Khái niệm
Sự tương đồng tâm lý là một khía cạnh của mối quan hệ liên nhân cách hình thành giữa các cá nhân trong nhóm. Nó biểu hiện sự hài hịa của quan hệ giữa các cá nhân. Theo ý nghĩa này, sự tương đồng ngược lại với sự xung đột liên nhân cách. Có nhiều cách hiểu khác nhau về sự tương đồng tâm lý.
Theo N.N.Ơbơzơv, tương đồng là sự kết hợp và tác động lẫn nhau thể hiện sự hài lòng cao giữa các cá nhân. Quan điểm khác lại nhấn mạnh tương đồng ở khía cạnh sự thích ứng lẫn nhau của các cá nhân trong hoạt động chung.
b. Đặc điểm
Theo N.N.Ơbơzơv, có 3 cách tiếp cận đối với với hiện tượng tương đồng tâm lý:
+ Cấu trúc (xem xét sự giống nhau hay khác biệt của các đặc điểm cá nhân của các thành viên)
+ Chức năng (kết quả của sự thống nhất chức năng nội nhóm và vai trị của các thành viên)
+ Thích nghi.
Một cách phổ biến có thể hiểu: sự tương đồng tâm lý là sự kết hợp thuận lợi nhất các đặc điểm tâm lý cá nhân của các thành viên trong nhóm đảm bảo cho cơng việc chung cũng như sự hài lòng cá nhân đều đạt ở mức độ cao.
Như vậy, sự tương đồng có hai dấu hiệu cơ bản:
o Tương đồng là sự kết hợp thuận lợi các đặc điểm tâm lý cá nhân. o Đảm bảo cho công việc đạt kết quả cao đồng thời đảm bảo cho sự
hài lòng giữa các cá nhân cũng ở mức độ cao.
Nếu thiếu một trong hai điều kiện này sẽ không phải là tương đồng. Sự kết hợp các đặc điểm tâm lý cá nhân có thể theo hai hướng khác nhau: bù trừ cho nhau hoặc tương đương nhau. Có sự tương đồng dựa trên cơ sở bù trừ những khiếm khuyết của các cá nhân để tạo ra sự hồn thiện hơn. Sự bù trừ đó
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">giúp các cá nhân đạt được kết quả cao hơn trong công việc cũng như đem lại cảm giác an toàn về tâm lý cho các cá nhân. Loại tương đồng dựa trên sự tương đồng của các đặc điểm tâm lý giúp các cá nhân dễ dàng thống nhất mục đích, hành vi.
Có ba mặt tương đồng:
o Tương hợp sinh lý: gồm sự tương hợp về sức khỏe, một số chỉ số sinh
lý... mặt này cần sự tương đương. o Tương hợp tâm sinh lý.
o Tương hợp tâm lý: gồm sự tương hợp về nhận thức, khả năng nhận thức, tính cách của cá nhân, định hướng giá trị và một số vấn đề khác.
Trong đó tương hợp tâm lý là quan trọng nhất. Mặt này đòi hỏi sự tương hợp tương đương. Đòi hỏi về sự tương hợp cả ba mặt này thể hiện rõ nhất trong quan hệ vợ chồng.
Trong nhóm, sự tương đồng có vai trị quan trọng:
o Tạo ra bầu khơng khí tâm lý thoải mái, lành mạnh, đồn kết trong tập
thể, do đó nâng cao được năng suất lao động, chất lượng học tập, thành tích thi đấu thể thao... Tinh thần các thành viên nhóm ln thoải mái.
o Tập thể gồm toàn những người tương hợp với nhau gọi là tập thể đồng tâm - luôn đạt hiệu quả công việc cao, lại tránh được xung đột trong tập thể.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">2.1.2 Xung đột a. Khái niệm
Q trình hình thành và phát triển các nhóm xã hội tự nó đã chứa đựng các mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn về quan điểm, về cá tính, về lợi ích của các thành viên và nhóm nhỏ hơn trong đó. Nhưng khơng phải mâu thuẫn nào cũng biến thành xung đột, mà chỉ khi mâu thuẫn đó bùng nổ thì xung đột mới xuất hiện.
Theo các tác giả Severy, Bngham và Schlenker, xung đột là hồn cảnh mà ở đó mục đích của hai hoặc nhiều người không thống nhất nhau ở một số mức độ nào đó. Các xung đột cũng có thể xảy ra khi các thành viên của nhóm thống nhất nhau về các mục đích cơ bản, nhưng lại khơng thống nhất về các mục đích thứ yếu hoặc về mục đích có thể thống nhất nhau nhưng lại khác biệt về các phương thức thực hiện mục đích đó.
Ví dụ: trong gia đình, hai vợ chồng đều thống nhất với nhau cần phải nghiêm khắc với con cái nhưng lại không thống nhất với nhau trong phương pháp và mức độ thể hiện sự nghiệm khắc đó.
Một nhà tâm lý học Mỹ là J.P.Chaplin lại cho rằng: xung đột là hai hoặc nhiều xung lực hay động cơ có tính đối kháng lẫn nhau xay ra một cách đồng thời.
Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về xung đột. Tác giả Vũ Dũng cho rằng: Xung đột là sự khác biệt (về quan điểm, mục đích, động cơ) giữa các thành viên trong q trình thực hiện hoạt động của nhóm. Như vậy, dù xem xét ở các góc độ khác nhau nhưng các tác giả đều có sự thống nhất nhất định trong việc xác định nội hàm của khái niệm xung đột. Từ các quan niệm khác nhau nêu trên, chúng ta có thể quan niệm xung đột là: sự bùng nổ các mâu thuẫn giữa các thành viên trong nhóm khi thực hiện hoạt động chung của nhóm. Như vậy, mâu thuẫn thì lúc nào cũng tồn tại nhưng xung đột có thể xảy ra hoặc khơng xảy ra. Chỉ khi nào mâu thuẫn bùng nổ người ta không thể hịa giải nó từ xung đột xảy ra. Những xung đột lớn hoặc mâu thuẫn ở mức độ sâu sắc có thể dẫn đến bạo lực. Những xung đột nhỏ thường ít được các thành viên của nhóm
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">quan tâm, nhưng khi các xung đột nhỏ này cứ tích tụ dần và đến mức độ nào đó nó sẽ xảy ra xung đột lớn, có thể tạo nên sự bất hòa nghiêm trọng giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm. Có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của xung đột.
Parker Follet cho rằng, xung đột cần phải được hiểu như sự khác biệt -khác biệt về quan điểm và lợi ích. C Mác viết: Suy cho cùng, mọi mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn lợi ích. Chính lợi ích mới là nguồn gốc sâu xa của xung đột. Khi con người có mâu thuẫn lợi ích (có thể là vật chất hoặc tinh thần) thì rất dễ xảy ra xung đột. Mức độ lợi ích của mỗi bên trong mâu thuẫn sẽ chi phối mức độ xung đột. Nếu lợi ích đối kháng nhau thì xung đột sẽ rất mạnh mẽ và có thể loại trừ nhau. Trong xung đột, mọi người nhận diện ra sự khác biệt giữa mình và với người khác. Tùy mức độ mâu thuẫn lợi ích mà họ nhìn người khác như đối thủ hoặc như kẻ thù.
Từ các phân tích trên có thể thấy, bản chất của xung đột là các mâu thuẫn lợi ích giữa các thành viên của nhóm hoặc của các bộ phận trong nhóm.
Tùy theo tính chất, mức độ, hình thức thể hiện và chủ thể xung đột thì có những loại xung đột sau:
Căn cứ vào hình thức thể hiện, có thể phân loại thành các xung đột sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">- Xung đột công khai: là xung đột thể hiện rõ quan điểm, sự mâu thuẫn, tranh chấp giữa các chủ thể với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Đây là loại xung đột phổ biến hiện nay và mọi người có thể lựa chọn các phương pháp giải quyết xung đột để giải quyết. Dù lựa chọn hình thức giải quyết xung đột nào thì kết quả cuối cùng mọi người muốn hướng tới là xung đột cơng khai được triệt tiêu hồn tồn trên thực tế.
- Xung đột ngầm: là loại xung đột khơng thể hiện ra bên ngồi bằng hành động, hành vi, cử chỉ hoặc lợi ích vật chất nhưng “trong lịng” lại khơng đồng ý với quan điểm, lối sống, lợi ích vật chất của nhau, dẫn tới xung đột và mâu thuẫn với nhau. Loại xung đột này, không đưa tới tranh chấp trong thực tế nhưng về mức độ của xung đột thì có thể mạnh hơn xung đột cơng khai.
Căn cứ vào tính chất xung đột, có thể phân loại thành các xung đột sau: - Xung đột nội dung: là loại xung đột khi đưa ra một vấn đề gì đó thì 2 bên sẽ có quan điểm trái ngược nhau. Xung đột này thường xảy ra dưới dạng xác định đúng hay sai và việc giải quyết xung đột bắt buộc bắt buộc phải thể hiện sự khẳng định hay phủ định.
- Xung đột quyết định: là loại xung đột khi đưa ra một quyết định về một vấn đề gì đó. Phần quyết định sẽ phát sinh những xung đột như: đồng ý hoặc chưa đồng ý về nội dung trong quyết định. Đây là hình thức xung đột được thể hiện bằng văn bản. Việc giải quyết xung đột này được quy định trong những quy phạm cụ thể của pháp luật và phải tuân theo những quy trình, thủ tục nhất định.
- Xung đột vật chất là loại xung đột về mặt giá trị, lợi ích đơn thuần giữa các bên. Loại xung đột này có thể được định dạng dưới các dạng tranh chấp cụ thể trong xã hội: Như tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp quyền sở hữu tài sản… Và các loại tranh chấp này cũng được pháp luật quy định cụ thể về tranh chấp và giải quyết tranh chấp đối với từng ngành, từng lĩnh vực.
Căn cứ vào mức độ xung đột, có thể phân loại thành các xung đột sau: - Xung đột vai trò: là loại xung đột xác định giá trị ảnh hưởng của một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức trong một phạm vi nhất định. Loại xung đột này thường được xác định với tên gọi “uy tín”. Xung đột xảy ra khi uy tín của cá
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">nhân, nhóm hoặc tổ chức bị hạ thấp bởi hành vi, sức ảnh hưởng của một cá nhân, nhóm hoặc tổ chức khác.
- Xung đột ý kiến đánh giá: là loại xung đột về quan điểm đưa ra để đánh giá hoặc quyết định một vấn đề cụ thể. Loại xung đột này thường xuất phát từ quan điểm và hệ tư tưởng khác nhau của các bên xung đột. Hệ tư tưởng thường được hình thành từ tri thức, thói quen và trường phái mà xây dựng lên hệ tư tưởng mà mỗi cá nhân đi theo. Để giải quyết triệt để loại xung đột này, cần có một nhà trung gian đứng giữa phân tích, dung hòa luồng quan điểm giữa các bên xung đột.
- Xung đột mong đợi: là loại xung đột thể hiện suy nghĩ, ý chí của các bên về một sự vật, hiện tượng có liên quan trong thời gian tới (trong tương lai). Thực ra, loại xung đột này chính là sự tô vẽ, đánh giá chủ quan về sự phát triển, hình thành giá trị, lợi ích và nhu cầu của mỗi bên xung đột.
Căn cứ vào chủ thể xung đột, có thể phân loại thành các xung đột sau: - Xung đột cá nhân: là loại xung đột xuất phát trong chính bản thân cá nhân đó hoặc giữa cá nhân với cá nhân về mặt nhu cầu, giá trị hoặc lợi ích. Xung đột thường xuất phát từ những mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau như quan hệ gia đình, quan hệ cơng việc, quan hệ bạn bè, xã hội… Trong những mối quan hệ này, các cá nhân có cơ hội để so sánh giữa các bên với nhau và thấy rằng cùng trong điều kiện, hồn cảnh như vậy nhưng mình lại kém bên kia hoặc cùng là con cháu, tại sao mình lại được hưởng ít hơn người em ruột…
- Xung đột nhóm: là xung đột xuất phát giữa nhiều cá nhân này với nhiều cá nhân khác về mặt nhu cầu, giá trị hoặc lợi ích xuất phát từ một tiêu chí, mục đích chung mà nhóm người này đã đặt ra. Để giải quyết vấn đề xung đột nhóm cần xác định lợi ích, mục tiêu mà nhóm đã đặt ra, sau đó cân bằng giữa nhu cầu, lợi ích, mục tiêu của cá nhân với nhóm, của các nhóm với nhau để nhận dạng xung đột và giải quyết xung đột.
- Xung đột tổ chức: là loại xung đột mà các cá nhân trong cùng tổ chức thấy quyền, lợi ích của mình xung đột với cá nhân khác trong tổ chức hoặc xung đột với chính tổ chức đó hoặc là loại xung đột giữa hai tổ chức với nhau trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">cùng hệ thống hoặc khác hệ thống. Với loại xung đột này thường xuất phát từ quan điểm cá nhân, quan điểm nhóm đối với mục tiêu cụ thể của tổ chức hoặc xuất phát từ chính những nhu cầu, quyền lợi của từng cá nhân trong tổ chức với nhau khi họ so sánh với những thứ mà bản thân họ có thể mang lại cho tổ chức khi gia nhập.
Nhận dạng được các loại xung đột giúp bạn có thể sử dụng các phương pháp giải quyết xung đột. Khi lựa chọn, bạn nghĩ đó là hướng giải quyết tốt nhất vấn đề bạn đang gặp phải. Bạn cũng có thể giải quyết các xung đột đó theo bản năng, kinh nghiệm của mình và học cách làm sao thay đổi phương pháp giải quyết nếu cần thiết khi được trang bị kiến thức về xung đột.
<b>2.2. Đề xuất biện pháp ngăn ngừa và giải quyết xung đột tập thể:</b>
Điều hòa các lợi ích cho phù hợp là một biện pháp quan trọng để phòng ngừa xung đột xảy ra. Xung đột có tác hại rất lớn đến nhóm và mỗi cá nhân. Khi nhóm có xung đột, bầu khơng khí của nhóm bị phá vỡ. Mơi trường sống n bình của cá nhân bị đảo lộn làm người ta sống trong trạng thái căng thẳng, khơng có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Sau mỗi lần xung đột cá nhân phải mất thời gian thể nghiệm lại bản thân nên vừa mất thời gian vừa bị phân tán tư tưởng trong cơng việc.
Do đó, những người bị lôi kéo vào xung đột sẽ làm việc kém hiệu quả và dễ gây tai nạn vì khơng tập trung. Đối với tồn nhóm, khi có xung đột, nhóm khơng thể thống nhất ý kiến và hành động nên năng suất lao động sẽ giảm đi, mọi người dễ nghi kị nhau. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng có những xung đột mang tính tích cực, thơng thường đó là xung đột đơn thuần về ý kiến, phương thức hoạt động, không phải là các xung đột lợi ích. Các xung đột được gọi là tích cực có thể đem lại một động lực mới cho sự phát triển của một nhóm. Dạng xung đột này có thể giúp nhóm thốt khỏi trạng thái ỳ, khi các cá nhân đồng thuận đến mức bị động.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">2.2.1. Biện pháp ngăn ngừa xung đột
Về cơ bản phải phòng ngừa xung đột; không nên để xung đột xảy ra rồi mới giải quyết. Muốn phòng ngừa xung đột cần xác định rõ bản chất của xung đột và có biện pháp phịng ngừa.
- Trước hết, người lãnh đạo nhóm phải điều hịa lợi ích trong nhóm sao cho thỏa đáng, khơng nên để có sự chênh lệch q lớn về lợi ích giữa các thành viên hoặc giữa các bộ phận.
- Cần có phương pháp lãnh đạo khoa học và phù hợp với tính chất và đặc điểm của đơn vị mình phụ trách.
- Giải toả các mâu thuẫn nhỏ, khơng để cho thâu thuẫn nhỏ tích tụ sẽ dẫn đến mâu thuẫn lớn đến mức bùng nổ không thể ngăn chặn.
- Khi xung đột xảy ra thì phải nhanh chóng xác định mâu thuẫn của mỗi bên và tác động để giảm mâu thuẫn đó.
Có thể trong nhóm có kẻ phá hoại gây mất ổn định trong nhóm hoặc có người cố tình khơng chấp nhận những chuẩn mực của nhóm. Phương pháp giải quyết là thuyết phục các bên ngồi lại và hịa giải với nhau. Khi khơng làm được việc đó thì có thể dùng các biện pháp hành chính như: chuyển cá nhân xung đột sang đơn vị khác, hoặc kỉ luật kẻ gây rối... Dưới đây là một số phương pháp giải quyết xung đột cụ thể.
2.2.2. Phương pháp giải quyết xung đột a) Phương pháp cạnh tranh
Đây là phương pháp giải quyết xung đột bằng cách các bên đều giữ vững lập trường của mình. Họ cạnh tranh với nhau để dành quyền lợi tốt hơn và cố gắng dành chiến thắng (nếu đối phương khơng có quan hệ thân thiết với họ). Hình thức giải quyết xung đột này chứa đựng nhiều yếu tố gây hấn và có thể khiến cho đối phương bị tổn thương hay bị xúc phạm.
Hình thức này phù hợp với kỹ năng giải quyết xung đột khi:
• Vấn đề cần được giải quyết nhanh chóng hoặc khơng quan trọng; • Người quyết định biết chắc mình đúng;
• Vấn đề nảy sinh xung đột không phải lâu dài và định kỳ. Hình thức này khơng phù hợp với giải quyết xung đột khi:
</div>