Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Luận Văn: “Giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.77 KB, 51 trang )









Luận Văn
“Giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam”













PHẦN MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, Đảng ta luôn xác định thành
phần kinh tế nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân, điều tiết các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN. Cùng
với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, khu vực kinh tế nhà nước đã
được sắp xếp lại và có nhiều chuyển biến tích cực, giảm được gần một
nửa số doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp địa phương nhỏ bé


hoạt động không hiệu quả. Số lớn doanh nghiệp còn lại được tổ chức lại
và từng bước phát huy quyền tự chủ kinh doanh làm ăn năng động và có
hiệu quả. Nhìn chung, kinh tế nhà nước được đổi mới một bước cơ bản,
đã và đang phát huy vai trò chủ đạo với nội dung thực chất hơn theo yêu
cầu của cơ chế mới, góp phần thực hiện mục tiêu giữ vững ổn định và
từng bước phát triển kinh tế - xã hội do đại hội Đảng VI - VII và VIII đề
ra.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước vẫn còn
nhiều khó khăn, bên cạnh một số doanh nghiệp đã thích ứng với cơ chế
mới làm ăn có hiệu quả, có lãi. Còn lại hầu hết các doanh nghiệp đều
làm ăn thua lỗ, không tương xứng với số vốn mà nhà nước bỏ ra, nhiều
doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ bị phá sản gây gánh nặng cho
ngân sách nhà nước và ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế quốc dân. Do đó,
nhu cầu hiện nay cần phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu, tìm bước
khắc phục những hạn chế trên.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng
đắn của Đảng và nhà nước ta trong quá trình tổ chức sắp xếp lại các
doanh nghiệp nhà nước, nó không những khắc phục được những khó
khăn nêu trên mà còn có khả năng tạo ra môi trường cạnh tranh bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, đây là yếu tố cơ bản để phát triển
nềnkt thị trường. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đã được Đảng và
Nhà nước ta để ra từ rất sớm sau đổi mới (từ những năm 92) tới nay đã
được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực
hiện đã vấp phải nhiều khó khăn, khiến cho nó không tiến triển kịp với
yêu cầu và kế hoạch đề ra.
Việc bài viết này đưa ra đề tài “Giải pháp để đẩy nhanh tiến trình
cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam” với mục đích có
thể đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy nhanh bánh xe cổ phần hóa theo
đúng mục tiêu đã định - Một vấn đề bức bách đang đặt ra hiện nay.
Với kết cấu và nội dung như trên bài viết đề cập tới những nội dung

chủ yếu sau:
1. Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta từ khi đổi mới đến nay.
2. Phân tích những nguyên nhân dẫn tới thực trạng cổ phần hóa ở
nước ta diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn.
3. Kiến nghị một số giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
các doanh nghiệp nhà nước.


MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
1

NỘI DUNG
3

I/ Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) - những
vấn đề lý luận chung
3

I.1. Cổ phần hóa là gì 3

I.2. Điều kiện tiến hành cổ phần hóa DNNN 4

I.3. Khu vực kinh tế nhà nước trong kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay
6


I.3.1. Vai trò của kinh tế nhà nước trong việc điều tiết nền kinh
tế quốc dân
6

I.3.2. Thực trạng khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay. 7

I.4. Cổ phần hóa, biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả và đổi
mới khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta
9

II/ Thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện
nay
13

II.1. Cổ phần hóa DNNN - tốc độ chưa đáp ứng được nhu cầu 13

II.2. Vì sao cổ phần hóa DNNN lại diễn ra một cách chậm chạp
và khó khăn.
16

II.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở các nước trên thế giới và bài
học rút ra cho Việt Nam
18

II.3.1. Cổ phần hóa DNNN qua kinh nghiệm của các nước trên
18

thế giới.
II.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam 19


III/ Các giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các
DNNN ở nước ta hiện nay
21

III.1. Các giải pháp ở tầm vi mô 28

III.2. Các giải pháp ở tầm vĩ mô 33

III.3. Những kiến nghị của bản thân nhằm đẩy nhanh tiến trình
cổ phần hóa ở DNNN ở nước ta.
35

KẾT LUẬN
48


















B. PHẦN NỘI DUNG
I/ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC - NHỮNG VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I.1. Cổ phần hóa là gì?
Khái niệm cổ phần hóa: Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) là một công việc rất mới mẻ, đầy khó khăn và phức tạp đối với
chính phủ, nhà nước. Song đây lại là giải pháp cơ bản để cải cách xắp
xếp lại các DNNN ở nước ta hiện nay.
Khi bàn về vấn đề cổ phần hóa, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều
quan niệm khác nhau. Ta có thể khái quát thành ba nhóm ý kiến khác
nhau.
Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng: “Thực chất cổ phần hóa là tư nhân
hóa”. Theo quan điểm này họ cho rằng cổ phần hóa là quá trình chuyển
DNNN sang hình thức công ty cổ phần có sự tham gia của các thành
phần kinh tế khác”.
Nhóm ý kiến thứ hai lại cho rằng “Cổ phần hóa là nhằm xác định
chủ sở hữu cụ thể đối với doanh nghiệp”. Theo họ, trước đây khi doanh
nghiệp còn là DNNN thì việc xác định chủ sở hữu là không rõ ràng, khi
doanh nghiệp đó chuyển thành công ty cổ phần thì các cổ đông chính là
chủ sở hữu của công ty cổ phần.
Nhóm ý kiến thứ ba thì cho rằng “Thực chất cổ phần hóa là quá
trình xã hội hóa doanh nghiệp nhà nước”.
Nhìn chung, mỗi nhóm quan điểm trên đây đã đưa ra được một vài
khía cạnh nào đó về vấn đề cổ phần hóa.
Để có một cái nhìn tổng quan về vấn đề cổ phần hóa DNNN, ta có
thể hiểu “Cổ phần hóa DNNN là qua chuyển toàn bộ hoặc một phần tài
sản, vốn và quyền quản lý DNNN sang các thành phần kinh tế khác dưới
dạng công ty cổ phần”.
* Công ty cổ phần - hình thức kinh doanh phổ biến trong nền

kinh tế thị trường.
Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần gắn liền với quá trình
phát triển của nền sản xuất hàng hóa- nền kinh tế thị trường. Quá trình
hình thành và phát triển công ty cổ phần trải qua các giai đoạn sau:
Hình thái kinh doanh một chủ: Đây là hình thái phổ biến thống trị
trong nền sản xuất hàng hóa nhỏ và trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa
tư bản cạnh tranh tự do. Phương thức kinh doanh này có đặc điểm, người
sở hữu đồng thời là người lao động và người đó chỉ có thể làm giàu bằng
lao động của chính mình, do vậy sự phát triển sản xuất có được rất chậm
chạp, quy mô mở rộng từ từ tùy theo sự phát triển của thị trường địa
phương và khu vực.
Hình thái kinh doanh chung vốn. Khi sản xuất phát triển, quy mô
ngày càng mở rộng đòi hỏi cần có nguồn vốn đầu tư lớn dẫn tới sự ra đời
hình thức kinh doanh chung vốn. Xét về mặt lịch sử, đó là bước tiến hóa
trong chế độ tín dụng từ phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào vay
mượn sang phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào góp vốn. Vì vậy,
xét về mặt sở hữu, hình thái kinh doanh chung vốn là điểm xuất phát của
hình thái công ty cổ phần với tư cách là sự chung vốn của nhiều người
cùng tham gia kinh doanh, cùng chia xẻ lợi nhuận và rủi ro theo tỉ lệ góp
vốn.
Hình thái công ty cổ phần: Sự ra đời và phát triển ngày càng mạnh
mẽ của chế độ tín dụng, hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính đã dẫn
tới sự ra đời của công ty cổ phần, giúp cho các công ty này mở rộng và
xâm nhập ngày càng mạnh mẽ ra hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Sự ra đời và phát triển của các công ty cổ phần
đánh dấu sự chuyển hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu
qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài
chính. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn
vinh của thị trường này. Đối lại, sự thịnh vượng của thị trường tài chính
tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở.

Qua việc phân tích về quá trình hình thành công ty cổ phần ở trên ta
thấy sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của
sự phát triển nền kinh tế thị trường. Đổi lại, các công ty cổ phần đã
đóng vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát triển nền kinh tế thị
trường TBCN. Nó có vai trò cơ bản sau:
- Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập chung tư bản các công ty cổ
phần ra đời làm xuất hiện nhiều xí nghiệp có quy mô và nguồn vốn
khổng lồ mà với tư bản riêng lẻ không thể nào thiết lập được.
- Là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu, biểu hiện
ở mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Công ty cổ phần
ra đời cho phép mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng mà không bị giới
hạn bởi tích lũy của từng tư bản riêng biệt, đẩy nhanh quá trình xã hội
hóa sản xuất.
- Ngoài ra, sự phát triển của công ty cổ phần đã trực tiếp mang hình
thái tư bản xã hội, đối lập với tư bản tư nhân. Đó chính là sự thủ tiêu tư
bản với tư cách sở hữu tư nhân trong khuôn khổ của bản thân phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
I.2. Điều kiện tiến hành cổ phần ở các DNNN
Cổ phần hóa là một nội dung của đa dạng hóa sở hữu, xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần, là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của
một đơn vị kinh tế quốc doanh nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế cao hơn.
Cổ phần hóa kinh tế quốc doanh hiện nay đang trở thành bức thiết
và Nhà nước ta coi đó là chủ trương lớn trong chính sách cải cách kinh
tế đất nước.
Khái niệm chung về cổ phần hóa và mục tiêu của nó đã được giới
thiệu trên nhiều báo chí. Trong bài này, chúng tôi xin đề cập đến những
điều kiện và bước đi tiến hành cổ phần hóa.
Nói chung về nguyên tắc, các DNNN đăng ký kinh doanh theo nghị
định 388/HĐBT đều có thể tiến hành cổ phần hóa. Tuy nhiên trong điều
kiện nước ta hiện nay, với mục tiêu đã nêu ở trên, những doanh nghiệp

có đủ các yếu tố sau đây sẽ là đối tượng tốt để thực hiện cổ phần hóa.
Thứ nhất là, nhưng doanh nghiệp có quy mô vừa (không quá lớn,
mà cũng không quá nhỏ). Quá lớn khó tìm đủ cổ đông. Quá nhỏ mang
tính chất “không bõ công”. Thế nào là quy mô vừa? Việc phân loại ở
mức tương đối. Vận dụng kinh nghiệm của các nước vào nước ta cho
thấy để tiến hành cổ phần hóa có hiệu quả đối với các doanh nghiệp, cần
bảo đảm:
- Vốn cổ phần không dưới 500 triệ đồng
- Số người mua cổ phiếu (số cổ đông) cho phép bán hết cổ phiếu
của doanh nghiệp. Điều này đặt ra vấn đề khi tiến hành cổ phần hóa phải
dự tính được số lượng cổ phiếu bán ra cần thiết.
Thứ hai, các đơn vị kinh tế quốc doanh không nằm trong danh mục
nhà nước cần đầu tư 100% vốn.
Thứ ba, Những DNNN làm ăn có lãi thực, hoặc trước mắt tuy
không có lãi, gặp khó khăn, song có thị trường ổn định và phát triển, hứa
hẹn một tương lai tốt đẹp. Có mấy lý do để chọn đơn vị làm ăn có lãi và
có tương lai hứa hẹn để cổ phần hóa.
Một là nếu làm ăn thua lỗ thì sẽ không ai mua khi bán. Người mua
cổ phần hy vọng vào tính sinh lợi của đồng vốn trong tương lai của
doanh nghiệp. Tương lai đầy hứa hẹn sẽ có sức hấp dẫn đối với những
người muốn trở thành cổ đông của doanh nghiệp.
Hai là, để có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh hơn
nữa. hạn chế tối đa rủi ro đối với đồng vốn của những người lao động
nghèo góp lại.
Ba là, cho phép nhà nước thu hồi được vốn để đầu tư vào những
nhu cầu thiết yếu khác. Bởi vì doanh nghiệp có lãi mới có người bỏ tiền
ra mua. Nhờ đó nhà nước mới rút được vốn. Tức là thực hiện được cổ
phần hóa.
Cần phải thấy rằng, bước đầu thực hiện cổ phần hóa DNNN nên
xuất phát từ những doanh nghiệp làm ăn có lãi. Khi công việc này trở

nên bình thường thì yếu tố cơ bản nhất để thực hiện thành công cổ phần
hóa là những doanh nghiệp.
- Có phương án sản xuất - kinh doanh hiệu quả, đầy triển vọng, có
khả năng tạo ra được lợi nhuận cao (tính sinh lợi của đồng vốn cao).
- Giá bán phù hợp.
I.3. Khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay
I.3.1. Vai trò kinh tế của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế
quốc dân
Khu vực kinh tế nhà nước được hiểu là khu vực kinh tế bao gồm
“những doanh nghiệp do nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu
và nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định
của doanh nghiệp”
Kinh tế nhà nước có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và đã
trở thành một bộ phận quan trọng thiết thực trong cơ cấu kinh tế của mỗi
nước. Tuy nhiên, tùy đặc điểm của mỗi nước mà khu vực kinh tế nhà
nước có phạm vi và vài trò khác nhau.
Ở các nước tư bản phát triển. Dựa vào học thuyết kinh tế của
Keynes để thực hiện một hệ thống chính sách can thiệp của nhà nước
vào nền kinh tế nhằm điều tiết chukỳ phát triển. Khu vực kinh tế nhà
nước ở các nước tư bản phát triển tuy chỉ chiếm tỷ trọng thấp trong nền
kinh tế quốc dân nhưng đã có đóng góp quan trọng và duy trì được tốc
độ tăng trưởng ổn định trong thời kỳ dài của những năm 1960-1970.
Ở các nước xây dựng nền kinh tế XHCN. Theo mô hình kinh tế chỉ
huy và kế hoạch hóa tập trung đã vận dụng học thuyết Mác - Lênin để
thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà nhà nước là đại điện,
coi đó là nền tảng kinh tế để xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo, bất công
trong xã hội do cơ chế thị trường và chế độ tư hữu gây ra và xây dựng
một xã hội công bằng do nhân dân lao động làm chủ.
Ở các nước đang phát triển. Sau khi đã thoát khỏi chế độ thực dân

kiểu cũ và giành được độc lập về chính trị, thì sự can thệp trực tiếp của
nhà nước thông qua quốc hữu hóa các cơ sở kinh tế của tư bản nước
ngoài và xây dựng các cơ sở công nghiệp quốc doanh trở nên rất phổ
biến. Khu vực kinh tế nulà công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết vĩ
mô nền kinh tế chống lại sự phát triển mạnh mẽ của CNTB với chế độ tư
hữu được coi là nguyên nhân của sự nghèo khổ, bất bình đẳng, sự bóc lột
và áp bức thực dân.
Như vậy, sự tồn tại của kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế
giới và vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân chứng tỏ sự
cần thiết khách quan của khu vực kinh tế này trong bối cảnh kinh tế hiện
đại. Khi các hoạt động quản lý vĩ mô đòi hỏi nhà nước phải đóng vai trò
ngày càng lớn trong nền kinh tế. Có thể nói, khu vực kinh tế nhà nước
giữ vai trò như một công cụ kinh tế của nhà nước, vừa thực hiện chức
năng kinh tế vừa làm một phần chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự
tăng trưởng và ổn định nền kinh tế mỗi nước.
Ở nước ta, sau đại hội VI (1986) chúng ta đã chuyển từ cơ chế tập
trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Tuy nhiên Đảng ta luôn xác định kinh tế nhà nước là thành phần
kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
I.3.2. Thực trạng khu vực kinh tế nhà nước ở nước hiện nay
Cũng giống như các nước XHCN, trước đây chúng ta thực hiệ mô
hình kế hoạch hóa tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển kinh tế nhà
nước bao trùm tàon bộ nền kinh tế quốc dân, làm mục tiêu cho công
cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, khu vực kinh tế nhà
nước đã được phát triển một cách nhanh chóng rộng khắp trong tất cả
các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu
quả đích thực mà nó mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của
các doanh nghiệp do cấp địa phương quản lý. Theo số liệu thống kê, đến

ngày 1 tháng 1 năm 1990, cả nước có 12.084 doanh nghiệp nhà nước
trong đó có 1.695 doanh nghiệp do trung ương quản lý, 10.389 doanh
nghiệp do cấp địa phương quản lý. Khu vực kinh tế nucó số vốn trị giá
khoảng 10 tỷ USD, chiếm 85% tổng giá trị tài sản toàn xã hội. Tuy
nhiên, khu vực này chỉ mới tạo ra khoảng từ 30-38% giá trị tổng sản
phẩm xã hội (GDP) và thu nhập quốc dân khoảng 25-30%.
Hiện nay, tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong tổng sản phẩm xã hội
của từng ngành tương ứng là: xây dựng 76%; trồng rừng trong lâm
nghiệp 35%; nông nghiệp 3%, trong các ngành bưu chính viễn thông,
vận tải đường sắt, hàng không chiếm 100%, viễn dương chiếm 98%,
đường bộ 80%. Trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp: dầu khí, điện
than, khai thác quặng, hầu hết các ngành chế tạo, hóa chất cơ bản, xi
măng, thuốc lá Khu vực kinh tế nhà nước vẫn nắm chủ yếu.
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tín dụng, ngân hàng hầu hết là do
kinh tế nhà nước nắm giữ. Hàng năm, kinh tế nhà nước vẫn là nguồn thu
chủ yếu của ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 60% đến 70% tổng thu
ngân sách). Tuy nhiên, so với khối lượng vốn đầu tư và khoản trợ cấp
ngầm qua tín dụng ưu đãi của ngân hàng, cũng như phần khấu hao cơ
bản và một phần rất lớn thuế tiêu thụ đặc biệt cộng với các loại thuế gián
thu khác đánh vào người tiêu dùng mà nhà nước thu qua doanh nghiệp
thì mức độ đóng góp trên còn chưa tương xứng.
Các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được hình thành và phát triển
trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước và do đó tất cả
các hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước.
Do đó, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của các doanh
nghiệp dẫn tới hậu quả là hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt
động hết sức kém hiệu quả. Có thể minh hoạ nhận xét này, qua mấy chỉ
tiêu cụ thể sau:
- Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực
kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu

nhập quốc dân thường cao gấp hai lần so với kinh tế tư nhân.
Mức tiêu hao vật chất của các DNNN trong sản xuất cho một giá trị
đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao cấp 1,3 lần so với
mức trung bình trên thế giới.
- Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp nhà nước rất thấp và
không ổn định. Trung bình khu vực kinh tế nhà nước chỉ có khoảng 15%
đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 20% số sản phẩm kém chất lượng. Dó đó, hiện
tượng hàng hóa ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu
động của toàn xã hội.
- Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Ví dụ, hệ số
sinh lời của vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7%/năm trong đó ngành
giao thông đạt 2%/năm, ngành công nghiệp đạt khoảng 3%/ năm, ngành
thương nghiệp đạt 22%/năm.
- Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước hết
sức thấp. Cụ thể là trong mấy năm gần đây, hàng năm nhà nước giành
vốn 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho các doanh nghiệp nhà
nước, tuy nhiên chúng chỉ tạo ra được từ 34%-35% tổng sản phẩm xã
hội. Hơn nữa khu vực này lại sử dụng hầu hết lao động có trình độ đại
học, công nhân kỹ thuật.
- Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm tỉ trọng lớn. Theo số liệu thống
kê thì trong số 12.084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4.584 đơn vị sản xuất
kinh doanh thua lỗ, chiếm 34% tổng số các doanh nghiệp nhà nước.
Trong đó, quốc doanh trung ương có 501 cơ sở thua lỗ, bằng 29,6% số
cơ sở trung ương quản lý; Quốc doanh địa phương có 4.083 cơ sở thua
lỗ chiếm 39,95 số đơn vị do địa phương quản lý. Các số liệu trên cho
thấy việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước đã gây tổng thất
rất nặng nề cho ngân sách nhà nước và là một trong những nguyên nhân
gây ra việc bội chi ngân sách trong những năm qua. Nguyên nhân cơ bản
dẫn tới sự hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước là do
cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp mấy chục năm qua. Trước đây do

đất nước có chiến tranh, nền kinh tế được quản lý sẽ đảm bảo huy động
ở mức cao nhất mọi tiềm lực cho kháng chiến thắng lợi mà không cần
tính tới hiệu quả. Tuy nhiên, khi đất nước chuyển sang thời kỳ hòa bình
thì việc kéo dài quá lâu cơ chế quản lý này đã kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất và đẩy nền kinh tế tới khủng hoảng.
Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế nước ta đã thực sự bước sang
hoạt động theo cơ chế thị trường. Một số doanh nghiệp đã thích ứng
được với cơ chế thị trường làm ăn có hiệu quả, nhưng phần lớn các
doanh nghiệp nhà nước vẫn ở trong tình trạng làm ăn kém hiệu quả.
Nguyên nhân chủ yếu là do tư tưởng bao cấp trong đầu tư vẫn còn rất
nặng nề tất cả các doanh nghiệp được thành lập đều được cấp toàn bộ
vốn từ ngân sách nhà nước, hàng năm trên 85% vốn tín dụng với lãi suất
ưu đãi được giành cho các doanh nghiệp nhà nước vay. Dẫn tới thực
trạng là việc thất thu vốn cho nhà nước; vấn đề nợ nần vòng vo mất khả
năng thanh toán còn diễn ra khá nghiêm trọng; việc buông lỏng quản lý
của nhà nước dẫn tới nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra ở mức báo động,
đời sống của cán bộ công nhân chậm được cải thiện. Từ đó làm suy yếu
nghiêm trọng khu vực kinh tế nhà nước trước sự cạnh tranh ngày càng
gay gắt của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các cơ sở kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân và là công cụ đắc lực trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế của
nhà nước, yêu cầu khách quan đặt ra cần phải đổi mới, sắp xếp lại khu
vực kinh tế nhà nước.
I.4. Cổ phần hóa biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả và đổi
mới khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta.
Xuất phát từ những kinh nghiệm, thực tiễn và quá trình nghiên cứu
đặc điểm sản xuất kinh doanh của các DNNN ở nước ta. Chúng ta có thể
đưa ra 3 phương pháp khắc phục những yếu kém và nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các DNNN. Đó là:
- Tư nhân hóa

- Liên doanh với nước ngoài
- Cổ phần hóa
Tư nhân hóa, là việc chuyển các doanh nghiệp từ tay nhà nước
sang tay tư nhân thông qua bán. Như đã nói ở trên tư nhan hóa cũng là
một trong những giải pháp khắc phục tình trạng thua lỗ của các DNNN
và làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên qua kinh
nghiệm của một số nước đã tiến hành, thì việc tư nhân hóa đều gặp phải
những trở ngại sau:
Các chính phủ chỉ muốn bán những xí nghiệp hoạt động không có
hiệu quả, thua lỗ kéo dài với các điều kiện và giá cả do chính phủ đặt ra,
nên không hấp dẫn người mua, do đó việc thực hiện kế hoạch tư nhân
hóa gặp nhiều khó khăn và thường không đạt được dự tính mong muốn.
Trong xã hội, thường chỉ có một số ít người mới có khả năng mua
cỏ phần của các xí nghiệp hóa giá, vì vậy trong nền kinh tế vận động
theo cơ chế thị trường. Khi mà môi trường pháp lý cũng như môi trường
kinh doanh còn chưa hoàn thiện như ở nước ta thì thường dẫn tới tình
trạng độc quyền hóa của một số ít người.
Ở các nước đang phát triển, do sự hạn chế về nguồn vốn trong nước
nên các xí nghiệp hóa thường rơi vào các công ty tư bản độc quyền của
các nước tư bản phát triển, tạo điều kiện cho tư bản nước ngoài thâm
nhập sâu vào nền kinh tế làm cho nguồn tài nguyên, lao động bị vơ vét
và bóc lột.
Ngoài ra tư nhân hóa còn làm suy yếu đi khu vực kinh tế nhà nước.
Do đó, trong hoàn cảnh kinh tế nước ta, thì việc tư nhân hóa là khâu phù
hợp.
Liên doanh với nước ngoài là hình thức liên kết, hợp tác giữa các
doanh nghiệp trong nước với các nhà tư bản nước ngoài. ở nước ta từ khi
thực hiện chính sách mở cửa, hình thái này đã được phát triển nhanh
chóng và đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Tuy nhiếnno đã bộc lộ những măt hạn chế trong quá trình triển

khai. Ở nước ta, để thấy được ưu thế hơn hẳn của hình thức cổ phần hóa
với liên doanh với nước ngoài ta đi so sánh sự khác nhau của chúng.
Công ty cổ phần Công ty liên doanh
1. Trong trường hợp cổ đông
không đồng tình với phương án
làm ăn của công ty, họ có thể bán
cổ phần cho người khác, nhưng
điều đó không ảnh hưởng tới hoạt
động của công ty.
1. Nếu một trong hai bên liên
doanh vì lý do gì đó mà rút vốn thì
phương hướng kinh doanh của
công ty lập tức bị sụp đổ.
2. Hoạt động của công ty không có
thời gian hạn định. Đầu tư chỉ
2. Hoạt động của công ty có thời
hạn định. Hết hạn các bên ký kết
chấm dứt khi công ty bị phá sản. thu hồi vốn chấm dứt đầu tư.
3. Hội đồng quản trị do đại hội cổ
đông bầu ra. Hội đồng quản trị cử
ra ban giám đốc làm việc trực tiếp
với công ty
3. Hội đồng quản trị là đại diện của
hai bên liên doanh.
4. Mục đích đầu tư của cổ đông là
thống nhất, họ muốn làm ăn lâu dài
và muốn công ty ngày càng phát
triển.
4. Mục đích đầu tư liên doanh của
các bên là khác nhau. Các bên đều

muốn hoàn vốn nhanh, chấm dứt
liên doanh và chuyển vốn đầu tư
vào lĩnh vực khác.
Qua sự so sánh trên đây ta có thể thấy những ưu thế của cổ phần
hóa so với tư nhân hóa như sau:
- Cổ phần hóa có khả năng huy động vốn đầu tư và mở rộng sản
xuất kinh doanh.
- Có sự thống nhất về mục tiêu giữa những người cùng góp vốn.
- Có sự liên tục và không hạn định về thời gian hoạt động.
- Có sự phân tán cao độ rủi ro mạo hiểm.
Như vậy trong ba phương án trên, ta thấy cổ phần hóa là phương án
tối ưu vừa nâng cao hiệu quả sản xuất vừa củng cố vai trò của các doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, phù hợp với đường lối xây
dựng đất nước mà Đảng ta đã đề ra. Sở dĩ như vậy là vì cổ phần hóa
DNNN ở nước ta hiện nay có vai trò quan trọng như sau:
Nếu xét trên phạm vi doanh nghiệp:
Cổ phần hóa tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động và thu hút
vốn cho các DNNN. Các doanh nghiệp nhà nước hiện đang thiếu vốn
nghiêm trọng. Trong khi đó nhà nước đang bội chi ngân sách, không thể
và cũng không nên tiếp tục bao cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém
hiệu quả như vậy. Cổ phần hóa sẽ huy động các nguồn vốn quản lý trong
xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi
doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào
nơi có lợi nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hóa ngày càng
có nguồn vốn lớn để trang bị kỹ thuật, mở rộng sản xuất. Đồng thời
nguồn vốn ngày càng được sử dụng tốt lại tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục. Các doanh nghiệp khi đã cổ
phần hóa sẽ liên doanh được với các doanh nghiệp trong và ngoài nước
từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn hơn nữa.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN. Trước

đây, trong cơ chế quan liêu bao cấp, các DNNN được nhà nước bao cấp
hoàn toàn, hoạt động dưới sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước do đó
không phát huy được tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp dẫn
tới thực trạng là hầu hết các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Khi chuyển
sang cơ chế thị trường, trong các doanh nghiệp đã được hoạt động tự chủ
hơn nhưng do buông lỏng quản lý dẫn tới tệ nạn tham nhũng, lãng phí
ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, xã hội. Khi các doanh nghiệp nhà nước đã
chuyển sang các công ty cổ phần đã khắc phục được những khuyết điểm
trên. Để thấy rõ vấn đề ta thử xem xét cấu trúc quản lý và kiểm soát của
công ty cổ phần qua sơ đồ sau:














Qua sơ đồ trên ta thấy cơ cấu hoạt động của công ty cổ phần là rất
chặt chẽ, hội đồng quản trị sẽ bầu ra (hoặc đi thuê) ban giám đốc và thực
hiện giám sát trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có ban
kiểm soát hoạt động độc lập do đại hội cổ đông bầu ra. Do đó các công
ty cổ phần sẽ hoạt động một cách an toàn và hiệu quả.
- Cổ phần hóa tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ

doanh nghiệp. Trước đây do chưa coi trọng và chưa có cơ chế cụ thể để
người lao động thực hiện quyền làm chủ về kinh tế. Từ đó quyền làm
chủ chỉ dừng lại ở nguyên tắc, khẩu hiệu chứ không đi vào thực chất.
Với việc cổ phần hóa DNNN tất cả các cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp đều có thể tham gia mua cổ phần của công ty. Họ trở
Đại hội cổ đông

Ban kiểm soát Hội đồng quản trị

Giám đốc điều hành
Phó giám đốc
điều hành
Phó giám đốc
điều hành
Phó giám đốc
điều hành
Phòng
chuyên
môn
Phòng
chuyên
môn
Phòng
chuyên
môn
Phòng
chuyên
môn
thành người chủ thực sự của doanh nghiệp, có trách nhiệm rõ ràng cụ thể
thông qua lá phiếu biểu quyết tương ứng với số cổ phần sở hữu. Quyền

lợi của họ gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh do đó tạo điều kiện
thúc đẩy họ làm việc. Và điều quan trọng khác là họ có quyền trực tiếp
hoặc gián tiếp tham gia quản lý công ty. Đó là sự làm chủ thực sự của
người lao động.
Ngoài các vai trò trên của quá trình cổ phần hóa đối với hoạt động
của các doanh nghiệp. Xét trên phạm vi toàn xã hội, cổ phần hóa các
DNNN còn có vai trò quan trọng trong việc cấu trúc lại nguồn vốn đầu
tư của nhà nước, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia; thu hút tiềm
năng vốn nhàn rỗi trong dân chúng, thúc đẩy quá trình hoàn thiện quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa xuất phát từ vai trò to lớn đó ta có thể
khẳng định cổ phần hóa là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước
trong quá trình tổ chức sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta
hiện nay.
II/ THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY.
Kể từ khi có quyết định 202/CP của chính phủ ngày 8/6/1992 về
việc cổ phần hóa doanh nghiệp, đến nay đã được hơn 6 năm. Trong quá
trình cổ phần hóa có rất nhiều vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tuy nhiên,
trong phạm vi bài viết này, chỉ đi vào nghiên cứu tiến trình cổ phần hóa
DNNN và nêu ra các nguyên nhân dẫn đến tình trạng cổ phần hóa ở
nước ta diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn để từ đó đưa ra các
biện pháp phù hợp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN.
II.1. Cổ phần hóa DNNN ở nước ta - tốc độ chưa đáp ứng được
yêu cầu.
Tính tới ngày 1/9/1998, cả nước có 38 DNNN đã hoàn thành cổ
phần hóa
(*)
, trong đó có 12 công ty đã đi vào hoạt động hơn một năm, có
thể thấy, vốn điều lệ của các doanh nghiệp này tăng bình quân 19,06%,
doanh thu tăng bình quân 46%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng bình

quân 82%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu năm 1997 là 44% số
lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng 30%/năm, thu nhập của người
lao động tăng bình quân 14,3%/năm. Tuy nhiên nếu đem so sánh với số
lượng doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện nhà nước giữ lại 100%
vốn và mục tiêu chuyển 150 DNNN thành công ty cổ phần năm 1998 thì
quá trình này diễn ra quá chậm và không đồng đều giữa các ngành các
địa phương.
Để làm rõ vấn đề, chúng ta hãy xem xét tiến trình cổ phần hóa
DNNN từ tháng 6/1992 tới nay.
Quá trình cổ phần hóa DNNN được bắt đầu từ ngày 8/6/1992 khi
chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ) ban hành quyết
định 203/CT về danh sách DNNN được chọn để chỉ đạo thí điểm thành
công ty cổ phần gồm 7 doanh nghiệp:
- Nhà máy xà phòng miền Nam
- Nhà máy diêm thống nhất
- Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc
- Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình
- Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng
- Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội
- Xí nghiệp may mặc Legamex thành phố HCM

(*)
Theo số liệu của Thời báo kinh tế 26/9/1998
Kết quả sau 6 tháng triển khai thì chỉ có duy nhất xí nghiệp may
mặc Legamex chuyển thành công ty cổ phần vào tháng 12/1992. Còn lại
các doanh nghiệp khác thì hoặc là muốn rút lui hoặc là muốn chờ đợi,
nhưng chưa có nào có văn bản đề nghị chính thức. Nguyên nhân cơ bản
là do mục tiêu cổ phần hóa của doanh nghiệp của chính phủ chưa phù
hợp. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế chính sách chưa phù hợp. Một số
vấn đề về cơ chế chính sách chưa phù hợp với thực tế khách quan, chưa

khuyến khích được doanh nghiệp tham gia cổ phần hóa. Mặt khác có sự
không đồng tình từ phía lãnh đạo doanh nghiệp và công nhân do có sự
đụng chạm về quyền lợi, lợi ích vật chất và việc làm.
Sau năm 1992, quá trình cổ phần hóa vẫn tiếp tục được triển khai,
tuy nhiên tốc độ quá chậm. Trong 3 năm từ năm 1993-1995 chúng ta chỉ
cổ phần hóa được thêm 5 doanh nghiệp nữa là: Đại lý LH vận chuyển
(Tổng công ty hàng hải); Cơ điện lạnh (TP. HCM); Giầy Hiệp An (Bộ
Công nghiệp); CB hàng xuât khẩu Long An; Công ty chế biến thức ăn
gia súc (Bộ nông nghiệp). Từ năm 1996, tốc độ có tăng lên, năm 1996 ta
cổ phần hóa được 6 DNNN, năm 1997 ta cổ phần hóa được 4 DNNN
gồm khách sạn Sài gòn, CTCP Nam Đô (TP. HCM); xí nghiệp sơn Bạch
Tuyết (TP. HCM). Năm 1998 ta đã cổ phần hóa được 17 doanh nghiệp.
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai địa phương dẫn đầu về số
lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong cả nước. Cho tới năm 1998,
thành phố HCM có 662 DNNN, cùng với việc chuẩn bị sẵp xếp lại
DNNN việc cổ phần hóa một bộ phận DNNN cũng được đẩy mạnh. Từ
khi có nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của chính phủ về việc cổ phần
hóa DNNN thành phố cho thấy: ngoài hai công ty: cơ điện lạnh, công ty
ong mật đã thực hiện cổ phần hóa trong thời gian làm thí điểm, 7 doanh
nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần, 3 doanh nghiệp đang ở giai
đoạn thẩm tra giá trị doanh nghiệp, 15 doanh nghiệp đang xây dựng đề
án. Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội là nơi thực hiện
sớm nhất chương trình cổ phần hóa các DNNN. Trong 3 năm đầu thành
phố đã chọn xí nghiệp đồ mộc làm thí điểm. Từ cuối năm 1996 tới hết
năm 1997 khi chính phủ ban hành nghị định 28/CP, thành phố đã có 10
doanh nghiệp triển khai cổ phần hóa, trong đó 5 doanh nghiệp thuộc
ngành thương mại dịch vụ và 5 doanh nghiệp khác thuộc ngành sản xuất
và xây dựng. Sang năm 1998, các đơn vị: Công ty giầy Thụy Khuê, Xí
nghiệp cơ khí điện tử, nhà máy thực phẩm chùa Bộc cũng đang tích
cực triển khai các bước cổ phần hóa doanh nghiệp. Tuy nhiên trong tất

cả doanh nghiệp nói trên hiệ mới chỉ có 4 doanh nghiệp đã chuyển thành
công ty cổ phần là: Công ty đầu tư sản xuất thương mại, công ty cổ phần
khách sạn Phú Gia, CTCP Thành Công, XN sản xuất đồ mộc.
Như vậy so với mục tiêu năm 1998 thành phố HCM v 20 doanh
nghiệp và theo đánh giá của ông Đinh Hạnh - Phó chủ tịch UBND thành
phố Hà Nội thì tốc độ cổ phần hóa của hai thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí
Minh - hai thành phố được coi là địa phương đầu đàn về cổ phần hóa -
quá chậm chạp và chưa đáp ứng yêu cầu.
Qua thực tiễn hơn 6 năm thực hiện cổ phần hóa DNNN, bài viết xin
đưa ra một số đánh giá về những mặt được và chưa được trong thí điểm
cổ phần hóa một số DNNN.
- Thứ nhất, về mục tiêu lý tưởng và mục tiêu đạt được trong thực
tế. Về mục tiêu lý tưởng Đảng ta đưa ra ba mục tiêu cơ bản quá trình cổ
phần hóa. Một là, chuyển một phần sở hữu nhà nước thành sở hữu của
cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hai là, phải huy
động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu
tư cho sản xuất kinh doanh. Ba là, tạo điều kiện để người lao động thực
sự làm chủ doanh nghiệp. Kết quả thực tế là:
Về mục tiêu thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp đều đạt được mục
tiêu này, hiệu quả sản xuất được nâng cao, doanh thu tăng 146%, lợi
nhuận doanh nghiệp tăng 181%, nộp ngân sách nhà nước tăng 157%.
Ngoài ra, nhà nước còn có thể cổ tức của 18% vốn.
Về mục tiêu thứ ba, các doanh nghiệp được cổ phần đã huy động
được một khối lượng vốn trong nước. Tuy nhiên, hiện nay số vốn thu
mua từ các nhà đầu tư nước ngoài thông qua công ty cổ phần là rất ít do
đó cần phải có giải pháp để khuyến khích các cổ đông là người ngoại
quốc trong thời gian tới.
Về mục tiêu thứ ba, thì phần lớn các cổ đông ở các công ty cổ phần
là cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp cũ, họ làm chủ thực
sự công ty của họ, họ hoạt động không chỉ vì đồng lương mà còn vì lợi

tức hoạt động và giá trị cổ phần trong công ty.
- Thứ hai, về phương pháp cổ phần hóa. Do chưa có sự thống nhất
của cơ quan chỉ đạo cổ phần hóa nhà nước về sự cần thiết để lại cổ đông
nhà nước, mức độ để lại là bao nhiêu phần trăm, vì vậy các doanh
nghiệp cổ phấn hóa đều để lại một phần cổ đông của nhà nước. Nhưng
mức độ khác nhau. Việc xác định tỉ lệ phần trăm về bán cho ai? Cán bộ
công nhân trong doanh nghiệp, bán ra bên ngoài và để lại cổ đông nhà
nước thiếu sự quy định thống nhất.
- Thứ ba, về quyền lợi của người lao động trong các công ty cổ
phần hóa. Vấn đề này trong quá trình cổ phần hóa được thảo luận nhiều,
về sau đã có thông tư 09/LĐTB-XH của Bộ Lao động hướng dẫn. Tuy
nhiên khi về địa phương, các cơ quan quản lý lao động và bảo hiểm xã

×