Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.82 MB, 122 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Chuyên ngành: Luật Hién pháp Ma số: 60380102
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Tơ Van Hịa
HÀ NOI - 2016
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">LỜI CAM ĐOAN
<small>Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhán tơi. Các tài</small>
liệu, s6 liệu trình bày trong Luận văn là trung thực. Luận văn là tập họp các nhận xét, đánh giả của tơi trên cơ sở nhìn nhận các khía cạnh thực té một
<small>cách khách quan cũng như tham khảo chon lọc các sách chun khảo, các</small>
cơng trình khoa học, luận văn, luận án, báo chí...đã nghiên cứu và dé cap
<small>trước do.</small>
TAC GIA LUAN VAN
<small>Xác nhận của giao viên hướng dan</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Tòa án nhân dân tối cao <small>Uỷ ban lâm thời</small>
Ủy ban kinh tế
<small>Uỷ ban pháp luật</small>
<small>Uỷ ban tư pháp</small>
<small>Viện kiêm sát nhân dân tôi cao</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>MỤC LỤC</small>
MO DAU oie 5... |
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu dé tài...--¿- 2-5 s+s+c+£ezxexszxee l 2. Tình hình nghiên cứu của dé tài...-- - 2 2s *+E£EE+E£EE£EE£EeEEzEerkerxrxee 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của dé tài...-- - 2-5 s+s+ts+xs+seẻ 4 <small>4. Câu hỏi nghiên cứu của luận văn...-- - - - c2 c1 33+ E+sevxeeseerresss 5</small> 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài...-- --s- 5 6. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu để tài... acc co cn set erererersea 6 7. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn ...---2- - 2 ++s+x++se¿ 7 8. Cơ cầu của luận văn...----cs s33 SE E113 11 111111115151 5111511E151555523 5E xeE 8 Chương 1. CO SỞ LY LUẬN VE TÔ CHỨC VA HOAT DONG CUA HỘI DONG DAN TOC, CAC ỦY BAN CUA QUOC HỘI... 9
1.1. Khái niệm, tinh chất Tổ chức HDDT, các Ủy ban của Quốc hội... 9
1.1.1. Khái niệm Tổ chức HDDT và các Uy ban của Quốc hội... 9
1.1.2. Dac điểm Tổ chức của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội... 12
1.2. Khái niệm, đặc điểm Hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc <small>10) AI... 17</small>
1.2.1. Khái nệm Hoạt động cua HDDT và các Ủy ban của Quốc hội... 17
1.2.2. Đặc điểm hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội... 20
1.3. VỊ trí, vai trị của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội... 26
1.4. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội. .eeeeeceecceseccsesesececsesvsesececscsvsusececsvsvsucacarsvsusucacavaveusecaraveveecacaraveee 29 1.5. Yêu cầu tô chức va hoạt động của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội trong điều kiện hiện nay...--- - c5 SE E*EEEEEEEEEEEEEE11111111 111.111 1x 34 Kết luận chương 1 ...- - - 6 SE SE E11 181111111111111111 1x11 tk. 42 Chương 2. ĐÁNH GIA CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VE TO CHỨC, HOAT ĐỘNG CUA HOI DONG DÂN TỘC, CÁC UY BAN CUA QUOC <small>HỘI GIAI DOAN HIEN NAY 0... .occccsscssssssesssssesssssssssessessesssssesseesecseaseanenses 43</small> 2.1. Đánh giá các quy định của pháp luật về tổ chức của HDDT và các Ủy <small>nu 8900109810027... ... 44</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">2.1.2. Đánh giá Luật Tổ chức Quốc hội 2014 trên phương diện cụ thé hóa,
phù hợp, đồng bộ quy định về tổ chức HDDT và các Uy ban của Quốc hội
trong Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật khác có liên quan.. 48
2.2. Đánh giá các quy định pháp luật về hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay ...--- 2-5 2 k+E+E+keEeEzEererxeree 54
2.2.1. Những điểm mới trong quy định về hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992... 54
2.2.2. Đánh giá Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 trên phương diện cụ thé
hóa, phù hợp, đồng bộ quy định về hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật khác có
Kết luận chương 2...---- 5-56 ST x E E1 1EE11111111211111111111111 111111. 67 Chương 3. HỒN THIỆN TƠ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI DONG DAN TỘC, CÁC ỦY BAN CUA QUOC HỘI TRONG GIAI
<small>DOAN HIEN NAY 000. o.ccccccecccccscsssssssessssessssscsesscescsesesasscsesecasseseacscseseacaess 68</small>
3.1. Một số han chế trong tổ chức và hoạt động của HDDT, các Ủy ban của
<small>QUOC hội...-- - - -- G5 011111122311 1111112311 11111001111 11H 111 TH 1 ng kg 68</small>
3.1.1. Về tổ chức của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội... 68 3.1.2. Về hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội... 74 3.2. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện cơ cau tổ chức và hoạt động của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội re 87
3.2.1. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức HDDT, các Uy ban
của Quốc hộii...---- tk E111 1111 111111111111111111111151 111111... 87 3.2.2. Phuong hướng, giải pháp hoàn thiện hoạt động của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội ...--- «tk k9 SEESE+E#EEEEEEEEEEEEEEEEESEEEEEEEEEkrkrrrrkrkekred 91 Kết luận chương 30... cccceseceesessceessecsessceessassesscevsvsassvsucavsvsusetsseanevees 97 KET LUẬN ...-- - -c-S St 1E E11 1111111111111 11110111111 11110111111 1xx re. 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
<small>PHỤ LỤC</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyén lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Quốc hội là co quan có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tẾ - xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu về tô chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ
xã hội, hoạt động của công dân; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với một
số hoạt động của Nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, bởi vì theo quy định của Hiến pháp, ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa nhân dân là người chủ của quyền lực nhà nước.
Quốc hội là cơ quan nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của nhân dân.
Chính vì vai trị của Quốc hội là hết sức quan trọng nên việc phân chia cơ cấu
tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội sao cho Quốc hội hoạt động hiệu quả là vẫn đề luôn được quan tâm. Quốc hội Việt Nam đang trong quá trình từng bước kiện toàn về tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 thay thế Hiến pháp năm 1992 cùng với sự ra đời của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 đã đánh dấu những bước “Chuyển mình”, những sự hồn thiện trong tơ chức, hoạt động của Quốc hội. Tuy
nhiên, thực tiễn hoạt động của Quốc hội trong thời gian qua cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn ton tại nhiều nhiều bất cập trong hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội hoạt động chưa phát huy được tối đa hiệu quả xuất phát từ nhiều
<small>nguyên nhân chủ quan và khách quan. Một trong những nguyên nhân chính</small>
phải kế đến là sự chưa hiệu quả trong hoạt động của HDDT và các Ủy ban
của Quốc hội, các cơ quan giúp việc cho Quốc hội, được ví như là cánh tay
<small>phải của Quôc hội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">công tác lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Thể hiện qua việc Quốc hội ban hành được một số lượng lớn các đạo luật,
<small>giám sát có hiệu quả hoạt động của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC và</small>
quyết định nhiều van dé quan trọng của đất nước. Hoạt động của HDDT va các Ủy ban của Quốc hội là một trong những yếu tơ chính đảm bảo hiệu quả
hoạt động của Quốc hội.
Hơn nữa, đặc điểm trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam hiện nay cho thấy rất nhiều hạn chế. Vì vậy cải tơ, bơ sung, hồn thiện tơ chức
và hoạt động các cơ quan chuyên môn của Quốc hội là một trong các biện
pháp khắc phục những hạn chế đó. Như vậy, việc xây dựng HĐDT, các Ủy
ban của Quốc hội thực sự trở thành những cơ quan đầy đủ năng lực, trách
nhiệm đề thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ tư vấn, tham mưu về chun mơn
cho Quốc hội, đóng vai trị là một trong những trụ cột chính của Quốc hội hiện nay, vừa là yêu cầu về chính trị, pháp lý, vừa là yêu cầu mang tính khách quan trong tiễn trình đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội nói riêng cũng như trong việc day mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Đúng như nhận định của W.Wilon' cách đây hơn 100 năm:
“Quốc hội phiên tồn thể là phiên trình diễn, Quốc hội trong các Ủy ban
là Quốc hội làm việc”.
Do vậy hoạt động của Quốc hội trên thực tế được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của các cơ quan của Quốc hội. Vì thế, muốn nâng cao vai trị cũng như hiệu quả chức năng giám sát của Quốc hội thì cần phải nâng
cao vai trị, hiệu quả giám sát của các cơ quan của Quốc hội, trong đó có
HĐDT và các Ủy ban thường trực của Quốc hội.
Trong khuôn khô của một luận văn thạc sy, tác gia chon dé tài “Tổ chức và hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội theo Hiến pháp 2013”
<small>! Thomas Woodrow Wilson (28 tháng 12 năm 1856-3 tháng 2 năm 1924), là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 28.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">làm đề tài nghiên cứu, để tham gia bàn luận một góc nhỏ của vẫn đề quan
trong và cấp thiết nay, hy vọng có thé bồ sung được nguồn thơng tin có giá trị cho cơng tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy, đồng thời góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
<small>Trong thời gian qua, cùng với chủ trương lớn được nêu trong các văn</small>
kiện của Đảng về đôi mới tô chức và hoạt động của Quốc hội, trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, nhiều van dé lý luận và thực tiễn
liên quan đến chất lượng hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội đã
được nhiều nhà khoa học, các vị đại biéu Quốc hội, các chuyên gia quan tâm
dé cập đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến chủ đề luận văn. Phải kế đến một số cơng trình nổi bật và mới nhất ké từ khi Hiến
pháp năm 2013 ra đời như Dé tài cấp bộ: “Cơ sở I) luận và thực tiên doi mới tổ chức và hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội”, (2013) do TS.
Trần Thị Quốc Khánh làm chủ nhiệm”; Đề tài cấp bộ: “Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động báo cáo, giải
trình tại HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta hiện nay”, (2014) do PGS.TS Dinh Xuân Thảo làm Chủ nhiệm”. Về tình hình nghiên cứu ở nước
ngồi, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về các Ủy ban của Nghị viện có giá
<small>trị xuyên thời gian. Tuy nhiên, do dung lượng có hạn tác giả chỉ liệt kê vài</small>
cơng trình trong thời gian gần đây nhất như cơng trình nghiên cứu của tập thé
tác giả nước ngồi với tên gọi “Báo cáo nghiên cứu điều trần tại các Ủy ban của Nghị viện và khả năng áp dụng tại Việt Nam”, NXB Hồng Đức, (tài liệu
tham khảo, lưu hành nội bộ) xuất bản năm 2012 với 2 tác giả nước ngoài (John Patterson và Kit Dawnay) và các tác giả trong nước (Nguyễn Đức Lam, Hoàng Minh Hiếu); cơng trình của William Mckay và Charles W.Johnson <small>(2012): “Parliament and Congress: Representation and Scrutiny in the</small>
<small>? Tran Thị Quốc Khanh (Chủ nhiệm đề tai) (2013), Cơ cở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt độngcủa HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội, Đề tài cấp bộ, Viện nghiên cứu lập pháp chủ quản.</small>
<small>3 Đinh Xuân Thảo (Chủ nhiệm đề tài) (2014), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện quy định củapháp luật về hoạt động báo cáo, giải trình tại HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta hiện nay.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">viện Anh và Hoa Kỳ. Về mặt lý luận, mỗi cơng trình, bài viết đều có những quan điểm, cách trình bày, phân tích, lý giải riêng của mình va đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức, hoạt động của HDDT và các Ủy ban của
Quốc hội. Luận văn của tác giả đi sâu nghiên cứu về khía cạnh lý luận về sự tương đồng, sự cụ thể hóa giữa Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc
<small>hội năm 2014 vừa có hiệu lực. Khơng những luận án, luận văn, nghiên cứu</small>
khoa học, sách, tạp chí trong nước quan tâm đến vẫn đề này mà nó cịn được
quan tâm, nghiên cứu nhiều ở nhiều quốc gia khác nhau, nhiều ngôn ngữ khác
nhau trên thế giới. Tuy nhiên, về hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của
Quốc hội Việt Nam, theo khảo cứu sơ bộ tại địa chỉ website của Liên minh thế giới (IPU) cho thấy hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề
này song các cơng trình nghiên cứu về Quốc hội, Nghị viện nói chung và các
Ủy ban của Nghị viện nói riêng có giá trị tham chiếu trong quá trình nghiên cứu đề tài Luận văn. Luận văn của tác giả có sự học hỏi, vận dụng các kiến
<small>thức từ các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước đó.</small>
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Là một đề tài thuộc chuyên ngành luật Hiến pháp - hành chính, những vấn đề được nêu ra trong luận văn được khái qt thơng qua việc phân tích,
tong hợp những nội dung liên quan đến việc quy định của pháp luật về cơ cau
tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn, quy chế thành viên và hoạt động xây dựng pháp luật, thẩm tra và giám sát của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội theo Hiến
<small>pháp năm 2013 và các quy định pháp luật hiện hành liên quan trên cơ sở so</small>
sánh đối chiếu với các QPPL trước đã hết hiệu lực, rút ra bài học kinh nghiệm
cũng như đánh giá những ưu điểm tiến bộ. Trọng tâm của đề tai tập trung làm rõ những điểm mới trong quy định của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992; đánh giá sự cụ thé hoá Hiến pháp năm 2013 đối với Luật Tô chức
Quốc hội năm 2014 và sự phù hợp của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 so
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">với Hiến pháp năm 2013 và đánh giá sự đồng bộ, thống nhất với các văn ban
pháp luật khác liên quan. Luận văn cũng trình bày khái quát, sơ lược về thực tiễn triển khai thi hành Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội trong tổ chức hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội.
<small>4. Câu hỏi nghiên cứu của luận văn</small>
Tổ chức và hoạt động của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội theo quy
định của Hiến pháp năm 2013 có những điểm mới nào so với Hiến pháp năm 1992? Những điểm mới đó đã khắc phục được những hạn chế của Hiến pháp
năm 1992 về tổ chức, hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội hay
chưa? Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 ra đời thay thé Luật Tổ chức Quốc
hội năm 2001 sửa đổi năm 2007 cụ thé hóa Hiến pháp năm 2013 về tơ chức hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội như thế nào? Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2014 có xung đột, mâu thuẫn, chồng chéo với Hiến pháp năm
<small>2013 và các văn bản pháp luật khác có liên quan?</small>
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài dựa trên các quan điểm chính thức của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hệ thống chính trị, về tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Nội dung của đề tài được trình bày trên nền tảng lý luận được nghiên cứu tong hợp từ Hiến pháp năm 2013, các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 1992
sửa đổi bố sung năm 2001, các văn bản pháp luật Việt Nam liên quan như Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và
hội đồng nhân dân năm 2015 và các tài liệu pháp lý khác. Đề tài được thực
<small>hiện trên cơ sở nghiên cứu của bản thân và sự đóng góp của giáo viên hướng</small>
dẫn, có tham khảo và chọn lọc phù hợp các tài liệu, các tham luận và báo cáo
khoa học, cũng như sách chuyên khảo về lĩnh vực Hiến pháp cụ thể là lĩnh vực Tổ chức và hoạt động của Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội.
Dựa trên phương pháp luận của triết học Mac-Lénin và tư tưởng H6 Chí
Minh, các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">nghiên cứu được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp rà soát, tập hợp.... Đây là những phương pháp được sử dụng chủ đạo, ngồi ra đề tài cịn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu có tính đặc thù của
khoa học xã hội như phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh giữa lý luận và thực tiễn dé giải quyết các van dé được đặt ra trong nội dung khoa học này.
6. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
<small>6.1. Mục đích của luận văn</small>
Mục đích của đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội - thực trạng và dé ra giải pháp hồn thiện. Dé đạt được mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu về nguồn
gốc, tính chất, vai trị, tổ chức và chức năng của HDDT va các Ủy ban của Quốc hội, nhăm chi ra những tồn tại, đề xuất những giải pháp để tiếp tục đổi
mới hoạt động đặc biệt là hoạt động thẩm tra và hoạt động giám sát nhằm góp phần phát huy vai trò của Quốc hội trong quá trình xây dựng nhà nước Việt
<small>Nam XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.</small>
<small>6.2. Nhiệm vụ của Luận văn</small>
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu Sau: - Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của HDDT và các Ủy ban trong
Quốc hội nước ta.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống Ủy ban của Quốc hội; phương thức hoạt động của hệ thống Ủy ban của Quốc hội; các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động của HDDT, các Ủy ban trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
- Đánh giá những điểm mới trong tô chức hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội năm
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">2014 so với Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2003 sửa đồi bố sung năm 2007.
- Đánh giá sự cụ thê hóa, sự phù hợp Hiến pháp năm 2013 về tổ chức hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả có đưa ra một số đề xuất phương
hướng và giải pháp khả thi góp phan nâng cao hiệu quả hoạt động của HDDT
và các Ủy ban của Quốc hội trong thời gian tới. 7. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn góp phan làm sáng tỏ và sâu sắc hơn các van đề pháp lý về tổ
chức hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội, như:
- Lần đầu tiên dé cập đến Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 trong vấn dé cụ thê hóa Hiến pháp năm 2013 về tổ chức, hoạt động của HĐDT và các Ủy ban
của Quốc hội cũng như sự tương thích của Luật Tổ chức năm 2014 với các
luật khác có liên quan đến van dé này.
- Luận văn cũng nhận diện những yêu cau đặt ra trong tô chức của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn hội nhập, mở cửa và xây dựng Nhà nước pháp quyền). Van đề hoạt động của HDDT các Uy ban của Quốc hội được nói đến khá nhiều tuy nhiên tổ chức của các Ủy ban này sau khi Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 ra đời lại chưa được đưa ra bàn luận đề cập nhiều.
- Luận văn còn đưa ra đánh giá về sự thay đổi phát triển trong tổ chức hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 so với
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001.
- Luận văn cũng trình bày những quan điểm và giải pháp kiện toàn hoạt
động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực cho đến nay; đồng thời tập trung chủ yếu vào việc nhận diện,
phân tích, làm rõ được những hạn chế trong tô chức, hoạt động của các cơ
quan nay dé có cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng quan điểm, đề xuất các giải
pháp cụ thé.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">điều kiện Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Ban hành văn bản QPPL, năm 2015, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015...ra
<small>đời và vừa có hiệu lực.</small>
8. Cơ cau của luận van
Khóa luận bao gồm ba phan: phan mở dau, phần nội dung va phan kết
Phan nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tô chức và hoạt động của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội
Chương 2: Đánh giá các quy định pháp luật về tô chức, hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay
Chương 3: Hoan thiện tổ chức và hoạt động của HDDT va các Ủy ban của
Quốc hội trong giai đoạn hiện nay
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>Chương 1</small>
CƠ SỞ LÝ LUẬN VE TO CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CUA HOI DONG DAN TỘC, CÁC ỦY BAN CUA QUOC HỘI
1.1. Khái niệm, tính chất tổ chức HDDT, các Uy ban của Quốc hội 1.1.1. Khái niệm tổ chức HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội
Khái niệm “Tổ chức” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Khoa học quản lý nghiên cứu tô chức với tư cách là hệ thống con người — xã hội với
những quá trình, hiện tượng và hoạt động của con người”. Dé có một quan niệm khoa học về tơ chức cần phải nhận thức nó ở hai góc độ: Tổ chức với tính
cách là một thực thé (Danh từ) và tổ chức với tính cách là một hoạt động (Động
từ). Tổ chức, dưới góc nhìn là một thực thé được hiéu là một đơn vị xã hội bao gồm nhiều thành viên cùng gia nhập vào đơn vị xã hội đó dé hoàn thành mục tiêu chung và mục tiêu cá nhân. Hay nói một cách đơn giản, tơ chức là sự liên kết của nhiều người theo một cách thức nhất định và có cùng mục đích chung. Tổ chức với tư cách là một hoạt động (chức năng tổ chức) được hiểu là quy trình thiết kế bộ máy, sắp xếp, bó trí, sử dụng và phát triển các nguồn nhân lực
nhằm thực hiện các mục tiêu chung. Theo từ điền tiếng việt trực tuyến”, tổ chức
có nghĩa là sắp xếp, bố trí cho thành một chỉnh thé, có một cấu tạo, một cấu trúc và những chức năng chung nhất định. Luận văn của tác giả nghiên cứu tổ chức của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội dưới cả hai góc độ là các cơ quan bộ phận của Nhà nước thuộc cơ cầu của Quốc hội và dưới góc độ cách thức thiết kế, sắp xếp bố trí HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội nhằm phát huy được tối đa vai trò hỗ trợ Quốc hội thực hiện các chức năng của mình.
Quốc hội nước ta được tổ chức theo mơ hình là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan qun lực nhà nước cao nhất”. Mơ hình đó được
<small>* Bộ nội vụ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước, tại dia chi:</small>
<small> (truy cập ngày 16/6/2016).</small>
<small>> Từ điển Tiếng Việt, tại địa chỉ: (truy cập ngày 17/6/2016).° Điều 69 Hiến pháp năm 2013</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">hình thành và phát triển dựa trên yêu cầu chủ trương phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân. Tat cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và đảm bảo dé nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình. Các bước hồn thiện tổ chức của Quốc hội qua từng thời kỳ cũng là sự thé hiện trong thực tế chủ trương của Đảng về hoàn thiện, đôi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước ở nước ta. Với đặc điểm Quốc hội được tô chức
theo cơ cầu một viện đã đảm bảo được Quốc hội là nơi tập trung, thống nhất ý
chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đảm bảo tính thực qun, khơng chia cắt và tránh tình trạng tranh luận sng như ở hai viện của Nghị viện tư
sản”, Cũng như đặc tính chung của Quốc hội nước khác, với tính chất là cơ
quan hoạt động theo chế độ hội nghị, trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta cần phải có day đủ các cơ cau cần thiết. HDDT và các Ủy ban của
Quốc hội là một trong những cơ cầu cần thiết của Quốc hội. Chính vì vậy tơ chức HĐDT, các Uy ban của Quốc hội có hợp ly hay không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Quốc hộiŸ. Hiện nay, các cơ quan của Quốc hội nước ta có HĐDT (trước đây là Ủy ban dân tộc của Quốc hội) và 9 Uy ban”. Mặc dù việc thành lập HDDT, các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam được quy định
trong Hiến pháp nhưng lại không quy định cụ thể số lượng Ủy ban thường
trực cũng như tên gọi cụ thể của từng Ủy ban này. Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định cụ thể việc thành lập HDDT và các Ủy ban của Quốc hội với các tên gọi và nhiệm vụ quyền hạn khác nhau. HDDT gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực, Ủy viên chuyên trách và các Ủy viên khác. Ủy ban của Quốc hội gồm có
Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm, Ủy viên thường trực, Ủy viên chuyên trách va các Ủy viên khác. Chủ tịch HDDT, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội do
<small>7 Đại học quốc gia Hà Nội, Trần Văn Thuân, Hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội nước cộng hòaXHCN Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Hà Nội-2015, tr.36,37.</small>
<small>® Đỗ Thi Như Hảo, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội - Thựctrạng và hướng hoàn thiện, tr.1-7, tai địa chỉ:</small>
<small> cập ngày17/6/2016).</small>
<small>? Điều 66 Luật Tổ chức quốc hội năm 2014</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Quốc hội bầu. Các Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực, Ủy viên chuyên trách và các Ủy viên khác của HĐDT; các Phó Chủ nhiệm, Ủy viên thường trực, Ủy viên chuyên trách và các Ủy viên khác của Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc
hội phê chuẩn. Thường trực HDDT, Thường trực Ủy ban của Quốc hội giúp
HĐDT, Ủy ban của Quốc hội giải quyết các công việc thường xuyên của Hội đồng, Ủy ban trong thời gian Hội đồng, Ủy ban không họp. Thường trực
HĐDT gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên thường trực. Thường
trực Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên
thường trực. HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội thành lập các tiêu ban để
nghiên cứu, chuẩn bị các van đề thuộc lĩnh vực hoạt động của Hội đồng, Ủy
ban. Trưởng tiểu ban phải là thành viên của Hội đồng, Ủy ban, các thành viên khác có thể khơng phải là thành viên của Hội đồng, Ủy ban hoặc không phải là
Đại biểu Quốc hội”. Các tiểu ban này không phải là thành phần cứng nằm
trong Ủy ban thường trực mà là các bộ phận lâm thời có chun mơn sâu, được
các Ủy ban thành lập nhằm cung cấp kiến thức, thông tin chuyên sâu về một số lĩnh vực nào đó để giúp Ủy ban giải quyết một công việc cụ thể của mình.
Nhiệm vụ chủ yếu của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội là thâm tra dự án luật, dự án pháp lệnh, các dé án, báo cáo khác do Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội lay y kién vé chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát và kiến nghị những van đề thuộc quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo lĩnh vực đã được phân
công trong Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 và các văn bản pháp luật khác `".
Do Hiến pháp không quy định giới han số lượng các Ủy ban thường trực
mà Quốc hội được phép thành lập, cho nên Quốc hội hồn tồn có quyền quyết định số lượng các Ủy ban này. Tuy nhiên, bởi vì số lượng, tên gọi cũng
như nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các Ủy ban thường trực quy định cụ thê
trong luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, nên trong trường hợp Quốc hội thấy
<small>'* Điều 67 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014!' Điều 75,76 Hiến pháp năm 2013</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">cần thiết phải thành lập thêm hoặc bớt chỉ có thé thực hiện thơng qua việc sửa
đổi Luật Tổ chức Quốc hội.
Từ tính chất hoạt động của Quốc hội và yêu cầu công tác cán bộ, Hiến pháp năm 2013 quy định về các cơ quan của Quốc hội có sự đơi mới theo sự phân cấp quản lý cán bộ. Xuất phát từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội (theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 nay được thay thế bởi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015), một thiết chế mới được quy định trong Hiến pháp năm 2013,
đó là UBLT của Quốc hội “. Từ Quốc hội khóa XI đến nay có khá nhiều van đề mới Quốc hội phải thành lập các đoàn giám sát (thực chất là UBLT) để xử
lý. Phần lớn các vụ việc đó là các vụ án oan, sai hoặc các van dé kinh tế cịn sai sót nghiêm trọng. Vì vậy Hiến pháp năm 2013 có hăn một quy định về
UBLT để nghiên cứu, thấm tra một dự án hoặc điều tra một van đề nhất định. 1.1.2. Đặc điểm tổ chức của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội
Ở nước ta, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội cũng được tơ chức theo mơ hình các Ủy ban của Nghị viện, điển hình của các quốc gia khác nhau trên thé giới. Có rất nhiều tiêu chí khác nhau trong việc phân biệt các loại hình Ủy ban. Dựa vào thời gian ton tại và mức độ hoạt động, tính chất các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, có thể phân loại các hình thức Ủy ban đang tồn tại một cách khá
phô biến trong Quốc hội, Nghị viện các nước hiện nay, như: các Ủy ban thường
trực, các Ủy ban đặc biệt, hay có thé cịn được gọi là Ủy ban tạm thời, UBLT... Ngoài các Ủy ban nêu trên, các loại hình Ủy ban khác như Ủy ban hỗn hợp, Ủy ban hội nghị thường được tổ chức ở những nơi Quốc hội (hay Nghị viện) được tơ chức theo mơ hình lưỡng viện, với thành viên là nghị sỹ của cả hai viện, báo cáo kết quả hoạt động của Ủy ban được trình ra cả hai viện. Hệ thống các Ủy ban thường trực là mơ hình tơ chức các Uy ban được hình thành một cách khá ổn
<small>'? Điều 78 Hiến pháp năm 2013</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">định xét về cả mặt cơ cấu tô chức và thâm quyền, thường là kéo dài và có vai trị liên tục xun suốt một hoặc nhiều nhiệm kỳ của Quốc hoi’.
Ở nước ta hiện nay, các Ủy ban của Quốc hội được tô chức theo hai mơ
hình đó là mơ hình Ủy ban thường trực và mơ hình UBLT. Ủy ban thường
trực của Quốc hội là những Ủy ban hoạt động thường xuyên bao gồm HDDT và các Ủy ban của Quốc hội (9 Ủy ban theo quy định của pháp luật hiện hành). Nhiệm vụ của các Ủy ban này là nghiên cứu, thâm tra những dự án
luật, dự án pháp lệnh và những dự án khác, những Báo cáo được Quốc hội
hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền
giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những van đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban.
Tùy theo từng lĩnh vực hoặc từng nhóm vấn đề nhất định, Quốc hội
thành lập các Ủy ban thường trực. Hiện nay theo Hiến pháp năm 2013 và Luật
Tổ chức Quốc hội năm 2014 thì Quốc hội có 9 Ủy ban thường trực, đó là:
<small>. Uỷ ban pháp luật;</small>
<small>. Uỷ ban tư pháp;</small>
. Ủy ban kinh tế;
. Ủy ban tài chính, ngân sách; . Ủy ban quốc phịng và an ninh;
h Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng: . Uy ban về các van dé xã hội;
. Ủy ban khoa học, công nghệ và mơi trường:
Luật Tổ chức Quốc hội cịn quy định mỗi Ủy ban phải có một số thành
viên làm việc theo chế độ chuyên trách.
Với vị trí là cơ quan thường trực của Quốc hội, HDDT và các Ủy ban của Quốc hội hoạt động thường xuyên, liên tục trong suốt nhiệm kỳ của mình và
<small>'3 Văn phịng Quốc hội và chương trình phát triển Liên hợp quốc (2005): Thiét chế Nghị viện-Những khái</small>
<small>niệm cơ bản, Chương trình Dự án VIE/02/2007 “Tăng cường năng lực các cơ quan dân cử ở Việt Nam”, HàNội, tr.25.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">đóng vai trò là các cơ quan của Quốc hội, hỗ trợ Quốc hội trong các lĩnh vực thuộc chức năng của Quốc hội. Các cơ quan trong bộ máy hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự giám sát của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội. Các dự an luật, báo cáo của cơ quan nhà nước khác trước khi trình Quốc hội đều phải được HĐDT và các Uy ban của Quốc hội thâm tra. HDDT và các Ủy ban của Quốc
hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao có quyền kiến nghị về các vẫn dé liên quan đến việc hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước va
các chính sách biện pháp giải quyết các vẫn đề kinh tế - xã hội của đất nước. Tóm lại HĐDT, các Ủy ban của Quôc hội (9 Ủy ban nêu trên) là cơ quan
thường trực do Quốc hội thành lập, giữ vai trò như một cơ quan giúp việc, thư ký cho Quốc hội, giữ vai trò là đầu mối liên hệ giữa Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội và cơ quan nhà nước khác trong việc giải quyết công việc của Quốc hội một cách thường xuyên liên tục.
Gọi HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội là các “Ủy ban thường trực” là vì sự tồn tại qua nhiều nhiệm kỳ của thiết chế này cũng như để phân biệt với “UBLT”. Xuất phát từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội (theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 nay đã được thay thế bởi Luật hoạt động giảm sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015), một thiết chế mới được quy định trong Hiến pháp năm 2013, đó là UBLT của Quốc hội ”. Từ Quốc hội khóa XI đến nay có khá nhiều vấn dé mà Quốc hội phải thành lập các đoàn giám sát (thực chất là UBLT) để xử lý. Phần lớn các vụ việc đó là các vụ án oan, sai hoặc các van đề kinh tế cịn sai sót nghiêm trọng. Vì vậy Hiến pháp năm 2013 có hắn một quy định về UBLT
để nghiên cứu, thâm tra một dự án hoặc điều tra một van đề nhất định.
UBLT là những Ủy ban được Quốc hội lập ra khi xét thầy cần thiết để
nghiên cứu thấm tra một dự án hoặc điều tra về một van đề nhất định. Sau khi
hoàn thành nhiệm vụ, Ủy ban này sẽ giải thé. Vi dụ: Ủy ban sửa đổi Hiến
pháp, Ủy ban thâm tra tư cách đại biéu Quốc hội... Đặc điểm của các vụ việc
mà UBLT giải quyết là những vụ việc có tính chất bất thường, đặc biệt và
<small>'* Điều 78, Hiến pháp năm 2013</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">khơng có tính thường xuyên, định kỳ. Những vụ việc bất thường khơng chỉ thuộc một lĩnh vực cơ định. Ví dụ, trong lĩnh vực lập pháp có thé có những
nhiệm vụ đặc biệt không thường xuyên như hoạt động thâm tra về nhu cầu
<small>hay xem xét dự thảo của một dự luật hoặc một dự án ngân sách có tính</small>
chun sâu và đặc biệt mà các Ủy ban thường trực khó có thể thực hiện hiệu
quả. Trong lĩnh vực giám sát hành pháp, mặc dù các Ủy ban cố định đảm nhiệm phần lớn công việc giám sát nhưng với những vụ việc cụ thể, đòi hỏi nhu cầu giám sát đặc biệt vẫn cần các UBLT. Vụ việc có tính chất bất thường, đặc biệt và khơng có tính thường xuyên, định kỳ, Uy ban thực hiện có thé được coi là UBLT. Khi thực hiện xong nhiệm vụ này Ủy ban sẽ giải tán hay nhiệm ky của thành viên Ủy ban là không cố định. Những vụ việc bất thường không chỉ thuộc một lĩnh vực cố định. Ví dụ, trong lĩnh vực lập pháp vẫn có
thê có những nhiệm vụ đặc biệt, không thường xuyên như hoạt động thâm tra về nhu cầu hay xem xét dự thảo của một dự luật hoặc một dự án ngân sách có tính chun sâu và đặc biệt mà các Ủy ban cố định khó có thể thực hiện hiệu quả. Trong lĩnh vực giám sát hành pháp, mặc dù các Ủy ban cố định đảm
nhiệm phần lớn công việc giám sát nhưng với những vụ việc cụ thể, đòi hỏi
nhu cầu giám sát đặc biệt vẫn cần các UBLT. Ngoài lĩnh vực lập pháp và giám sát hành pháp, vẫn có thể có những nhiệm vụ cần thành lập UBLT. Ví dụ, thành lập các Ủy ban điều tra, xem xét các van dé có ảnh hưởng lớn đến
xã hội (đói nội hoặc đối ngoai) hoặc điều tra các tô chức xã hội, hoặc các cơ
quan không thuộc hành pháp. Việc thực hiện nhiệm vụ này nhằm cung cấp thông tin cho các đại biéu Quốc hội trong việc thực hiện chức năng đại diện
và lập pháp đồng thời kiến nghị với hành pháp trong hoạt động quản lý.
<small>'S Đỗ Minh Khôi, UBLT-những vấn dé lý luận và thực tiễn/ Đỗ Minh Khơi// Nghiên cứu lập pháp, Vănphịng Quốc hội, Số 17/2013, tr.55-64.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Một điều cũng cần lưu ý là phan ứng với những nhiệm vụ đặc biệt va bat thường bang việc thiết lập các UBLT là cần thiết trong điều kiện chuyển đổi và hoàn thiện thé chế nhưng việc thành lập UBLT và sự di động của tư cách thành viên trong các Ủy ban này dễ dẫn đến sự chồng chéo nhiệm vụ, chức
năng giữa các Ủy ban. Mặt khác, với những nước đang trong quá trình chuyển
đổi như Việt Nam, thành lập UBLT là cần thiết nhưng phải dự liệu cau trúc Ủy ban theo lộ trình thể chế hố cao và giảm bớt việc thành lập UBLT.
Điều 88 Luật số 57/2014/Quốc hội 13 (Luật Tổ chức Quốc hội năm
<small>2014) ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2014 quy định:</small>
1. UBLT được Quốc hội thành lập trong các trường hợp sau đây:
a) Tham tra dự án luật, dự thảo nghị quyết hoặc báo cáo, dự án khác do
Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội hoặc có nội dung liên quan đến
lĩnh vực phụ trách của HDDT và nhiều Ủy ban của Quốc hội; b) Điều tra làm rõ về một van dé cụ thé khi xét thấy cần thiết.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định thành lập UBLT theo đề nghị của HDDT, Ủy ban của Quốc hội hoặc ít nhất một phan ba tổng số Đại biéu Quốc hội.
UBLT gồm có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các ủy viên, số Phó
Chủ nhiệm và số ủy viên Ủy ban do Quốc hội quyết định. Chủ nhiệm Ủy ban do Quốc hội bầu trong số các Đại biểu Quốc hội, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Số thành viên hoạt động chuyên trách do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định (Khoản 1 Điều 89 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014).
UBLT có nhiệm vụ báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội về
kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được Quốc hội giao. Báo cáo kết quả
điều tra của UBLT phải được HĐDT hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm tra. Quốc hội xem xét và ra nghị quyết về kết quả điều tra của UBLT.
UBLT là một loại Ủy ban khá phố biến ở các Nghị viện trên thế giới,
<small>được thành lập, thực hiện nhiệm vụ theo vụ việc và bị giải tán khi hồn thành</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">xong cơng việc như: UBLT của Hạ nghị viện Vương quốc Anh, Hệ thong
<small>UBLT của Nghị viện Cộng hòa liên bang Đúc, UBLT của Nghị viện Hoa Ky.</small>
Điểm chung là các nước thành lập UBLT dé điều tra một vụ việc cụ thể nào đó theo yêu cầu của Nghị viện nhằm mục đích làm rõ tất cả các tình tiết, yếu tơ thuộc về thực tiễn khách quan của vụ việc, qua đó đề xuất ý kiến xác định
<small>trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan, và thực hiện chức năng</small>
giám sát của Nghị viện. Trong bối cảnh ở Việt Nam, các Ủy ban càng cần
phải có vai trị trung tâm hơn bởi những lý do sau: 7 nhát, phần lớn các đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm, không phải là đại biểu chuyên trách, chuyên
nghiệp; Thi hai, trình độ các đại biéu chưa cao va khong đồng đều; Thi ba, Quốc hội không họp thường xuyên. Mặc dù vậy, so với Ủy ban, Nghị viện các nước, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam có vị trí, vai trò khiêm tốn trên cả phương diện pháp luật và thực tiễn. Trên thực tiễn, ở Việt
Nam, HDDT và các Ủy ban của Quốc hội được coi là các cơ quan giup việc
cho Quốc hội, chứ chưa thực sự là những cơ quan độc lập về tô chức và hoạt động. Những điểm trên dẫn đến những hạn chế trong cơ cấu tô chức, chức năng của các Ủy ban của Quốc hội nước ta.
Với tính chất đa dạng phải thực thi các nhiệm vụ chức năng của mình, Quốc hội Việt Nam cũng như Quốc hội, Nghị viện của các quốc gia trên thế giới, mặc dù đã thành lập các Ủy ban thường xuyên, mà được gọi là các Ủy ban chuyên trách thường trực, nhưng vẫn cần thiết phải thành lập các UBLT dé giúp Quốc hội xem xét trước các van dé cần phải giải quyết, quyết định. Đó cũng là quy luật của khách quan, mà việc tô chức và hoạt động của Quốc hội ý.
1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội 1.2.1. Khái niệm hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội
Vậy hoạt động của Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội nên được hiểu thế
<small>nào? Vé góc độ ngơn ngữ, hoạt động có thê được hiéu là: “Làm những việc</small>
<small>16 Sở Cơng thương Bình Định, Hội thảo Khoa học “Phát huy vai trò của UBLT trong việc thực hiện các chức</small>
<small>năng cơ ban của QUOC Hội, tại địa chỉ: truy cập ngày 14/7/2016.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">khác nhau với mục dich nhất định trong đời sống xã hội”, là “vận động, van
hành đề thực hiện chức năng nao đó hoặc gây tac động nao đó; hay hoạt động
là việc “Thực hiện một chức năng nào đó trong một chỉnh thể”, “tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm mục đích chung, trong một lĩnh vực nhất định”. Trong hoạt động của Quốc hội, Nghị viện nói chung, như đã đề cập ở trên, hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội có thể là toàn
<small>bộ các hoạt động do các cơ quan này thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm</small>
vụ được pháp luật quy định; hoạt động này phản ánh đặc thù của Ủy ban với vị trí là các cơ cau được thành lập bên trong Quốc hội (thuộc cơ cấu của Quốc
hội); ở nhiều nước, hoạt động của các Ủy ban là điểm trung tâm của hoạt động lập pháp và giám sát. Mặc dù có những nét khác biệt về mặt thâm quyên, song về bản chất, Ủy ban không phải là một thiết chế ra quyết định, trừ một số trường hop cu thé liên quan đến phạm vi quy trình, thủ tục bên trong của Quốc hội; các báo cáo, kết luận của Ủy ban từ kết quả hoạt động, từ
việc thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban trình Quốc hội thường di
kèm với các khuyến nghị Nghị viện về việc đưa ra các quyết định nhất định ”.
Tương tự vi trí, vai trị như hệ thống Ủy ban trong Quốc hội các nước, vị
trí, vai trị của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta cũng chủ yếu được nhìn nhận và thé hiện thông qua hoạt động của các cơ quan này trong lĩnh vực
lập pháp, giám sát. Bên cạnh đó, HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội nước ta còn thực hiện thêm hoạt động kiến nghị, mặc dù trên thực tế hoạt động này
phần lớn gắn liền, phát sinh từ hoạt động lập pháp, giám sát của Hội đồng, Ủy ban. Ngoài ra, do đặc thù cụ thê ở Việt Nam, hoạt động của hệ thống cac co quan trong co cầu tô chức của Quốc hội Việt Nam còn được thê hiện ở đặc
<small>thù trong lĩnh vực dân tộc, với việc thành lập và hoạt động cua HDDT. Khác</small>
với nhiều nước, là một cơ quan của Quốc hội, song HDDT còn được Hiến pháp, pháp luật quy định một cách nhân mạnh, có một số nét nổi trội hơn,
theo đó, Chủ tịch HDDT được mời tham dự phiên họp của Chính phủ ban về
<small>W Đại học Quốc gia Hà Nội, Trần Văn Thuân, Hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội nước Cộng</small>
<small>hòa XHCN Việt Nam, Luận án Tiên sỹ Luật học, Ha Nội-2015, tr.44-45.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">việc thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lay ý kiến của HĐDT (Điều 75 Hiến pháp năm 2013). La một đất nước với sự đa dang về dân tộc (trên 50 dân tộc anh em), phải đối mặt với âm mưu chia rẽ, gây mâu thuẫn giữa các dân tộc với các thế lực thù địch, việc thiết lập và vận hành cơ quan này trong lịch sử hoạt động của Quốc hội những năm qua thể hiện tầm quan trọng, sự coi trọng chính sách đại đồn kết dân tộc, quan tâm hơn đến dân tộc ít nguoi trong thực tiễn dau tranh giành độc lập, xây dựng va bảo vệ Tổ quốc. Trong
khi hoạt động của HDDT can dự tới hầu như tất cả các hoạt động liên quan đến chính sách dân tộc của Quốc hội, Chính phủ, thì hoạt động của các Ủy
ban có xu hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực. Ngồi các phương tiện hoạt
động mang tính chất gắn bó, phục vụ trực tiếp cho hoạt động của Quốc hội nêu trên, HDDT, các Ủy ban của Quốc hội còn thực hiện một số hoạt động
<small>khác theo quy định của pháp luật, nhận trách nhiệm tham gia vào hoạt động</small>
bảo vệ Hiến pháp, đề nghị Quốc hội, Uy ban thường vụ Quốc hội về việc lay ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp, các đại biểu Quốc hội về dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết hoặc về các vấn đề quan trọng khác; đề nghị đưa vấn đề thuộc lĩnh vực mình phụ trách ra thảo luận tại phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc kỳ họp của Quốc hội; quyết định và tổ chức thực hiện chương trình hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế hàng năm của
mình; kiến nghị với cơ quan hữu quan về các van đề tổ chức và hoạt động đối ngoại thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách; tiễn hành hợp tác với cơ
quan hữu quan của Quốc hội các nước, cơ quan hữu quan khác của nước ngoài, tổ chức quốc tế Š.
Từ đó, có thé hiểu hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta là VIỆC các cơ quan này tiễn hành các công việc cụ thể nhằm thực hiện chức
năng thâm tra, giám sát, kiến nghị của các Ủy ban của Quốc hội đã được pháp
luật quy định, với mục đích phục vụ, tư van về chuyên môn cho Quốc hội, Ủy
<small>'3 Đại học quốc gia Hà Nội, Trần Van Thuan, Hoạt động của HĐDT, Luận án Tiến sỹ luật học, Hà Nội-2015,</small>
<small>tr.44.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">ban thường vụ Quốc hội hoặc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác được
<small>pháp luật quy định.</small>
1.2.2. Đặc điểm hoạt động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội
Từ nhận thức về khái niệm hoạt động của Hội đồng, Ủy ban như đã nêu trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm trong hoạt động của các cơ quan này, cụ
thể như sau:
Tủ nhất, tinh chất hoạt động thường xuyên. Tính chất “thường xuyên” hay “thường trực” của các Ủy ban được quy định về mặt pháp lý lần đầu tiên
trong Hiến pháp năm 1980 (tại Điều 92 Hiến pháp năm 1980) và tiếp tục được ghi nhận tại Điều 46 Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng nha nước năm 1981.
<small>Hiện nay, trong pháp luật hiện hành khơng cịn sử dụng thuật ngữ này; song</small>
có thể hiểu gián tiếp về đặc điểm “thường trực” của Hội đồng, các Ủy ban bởi
ngay sau khi quy định cụ thé về việc thành lập HDDT, 9 Ủy ban của Quốc hội, Luật Tổ chức Quốc hội đã có một điều quy định về việc Quốc hội thành
lập UBLT. UBLT là một trường hợp ngoại lệ của tính chất “thường xun”,
“thường trực”. Như thế, có thé nói rang mặc dù khơng hồn tồn giống nhau về thuật ngữ, nhưng sự tồn tại bền vững của thiết chế Hội đồng, Ủy ban trong suốt nhiệm kỳ của Quốc hội so với UBLT, thì yếu tố thường xuyên trong hoạt động của thiết chế này rõ ràng là điều khó có thể phủ nhận. Tính chất thường xuyên trong hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội trong những
năm gần đây mang những đặc điểm riêng. Vậy đặc điểm riêng đó được thể
hiện như thế nào? Thứ nhất tính chất hoạt động thường xuyên chỉ đúng với hoạt động của bộ phận thường trực của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội.
Bộ phận thường trực bao gồm những thành viên mà tuyệt đại đa số déu là hoạt động chuyên trách, thường xuyên trong HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội. Ngoài những thành viên chuyên trách của bộ phận thường trực, đa SỐ các
thành viên khác của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội vẫn hoạt động kiêm
nhiệm, trên thực tế là họ đang đảm nhiệm chức danh, thực thi các nhiệm vụ ở
<small>nhiêu lĩnh vực, thuộc các cơ quan nhà nước, các tơ chức, đồn thê, đơn vi... ở</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">trung ương, địa phương và việc thực hiện các nhiệm vụ này thực tế mới là
<small>nhiệm vụ chính của họ. Chính vì sự kiêm nhiệm trong hoạt động của những</small>
thành viên này mà tính chất “thường xun” khơng được phản ánh một cách đầy đủ, trọn vẹn như nghĩa của nó. Về mặt pháp lý, được lý giải bởi điều kiện
thực tế và phù hợp với đặc thù đa số thành viên hoạt động kiêm nhiệm của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội, nên thường trực HDDT, các Ủy ban của
Quốc hội đã được pháp luật trao cho khơng ít những thẩm quyền trong hoạt
động thâm tra, giám sát... Ở khía cạnh này và xét trên phương diện lý thuyết, có thé nói cách tiếp cận như vậy vơ hình trung sẽ làm cho đặc điểm thường
xun trong hoạt động của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội khơng cịn
ngun nghĩa; đặc điểm thường xun, thay vi ton tại như là một đặc tính của cả một hệ thống Ủy ban, trên thực tế và về mặt pháp lý đã trở thành đặc điểm
hoạt động của một bộ phận trong hệ thống Ủy ban - bộ phận thường trực. Nếu xem xét dưới góc độ hệ thơng và chỉnh thể, việc duy trì q lâu đặc tính này sẽ không khai thác, phát huy day đủ các yếu tố năng lực, chuyên môn...nhăm giúp cho hoạt động của Quốc hội theo chiều hướng hiệu quả hơn của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội với ý nghĩa toàn thể chứ không phải là những bộ phận, dù là tỉnh túy, của các thiết chế này. Về nguyên lý, điều này vơ hình trung sẽ dẫn đến khả năng có thể làm xói mịn, suy giảm ngun tắc làm việc tập thé, quyét định theo đa s6...v6n tạo nên “sức mạnh” tham mưu, tư van cho Quốc hội của các Ủy ban của Quốc hội nói chung.
Như vậy hoạt động thường xuyên là một đặc điểm quan trọng trong hoạt
động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội cần được phát huy duy trì. Vi tính chất “thường xuyên” góp phần quyết định tạo nên sự hiệu quả hay không hiệu quả trong hoạt đông của các Ủy ban của Quốc hội. Nếu tính chất hoạt
<small>động “thường xuyên” chỉ phản ánh đúng hoạt động của một bộ phận (Bộ phận</small>
thường trực) trong HDDT và các Ủy ban của Quốc hội sẽ có thé gây ra những
<small>hậu quả khác như tình trạng q tải trong cơng việc của bộ phận này cũng như</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">làm méo mó mai một di các nguyên tắc hoạt động then chốt của Quốc hội nước ta như làm việc theo tập thé và quyết định theo da sé.
Thứ hai, tính chất tham mưu, tư vấn sâu về chun mơn. Tính chất này thể hiện rõ nét ở hoạt động tư vấn, tham mưu trực tiếp về chuyên môn cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội. Quốc hội là một tập thé lớn gồm hàng trăm đại biểu, với nhiệm vụ, quyền hạn to lớn, liên quan đến tất cả các mặt của đời song chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại...của một Quốc gia. Chính vì vai trò quan trọng, phạm vi và lĩnh vực hoạt động rộng nên Quốc hội cần tới sự tham mưu,
tư vấn sâu của các cơ quan chuyên môn. Các Ủy ban cung cấp cho các đại biểu Quốc hội kiến thức chun sâu, các thơng tin được phân tích, chứng minh, lập luận để từ đó, đại biểu Quốc hội có cơ sở trong việc hình thành quan điểm, ý kiến cá nhân, từ đó phát biểu, thảo luận và cuối cùng thé hiện chính kiến đối với các dự án luật, dự thảo nghị quyết và các van đề thuộc
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Dù ở bất kỳ quốc gia nào, hoạt
động của các Ủy ban của Quốc hội về nguyên tắc phải góp phần và hướng đến việc giúp Quốc hội xây dựng và ban hành các đạo luật tốt, các chính sách cơng tốt, được thực thi có hiệu quả trong cuộc sống. Điều này cũng cịn có nghĩa là hoạt động của các Ủy ban đóng vai trị là một khâu trong quá trình hoạt động của Quốc hội; đây là khâu chuẩn bị quan trọng đối với các dự án, các vấn đề trước khi được đưa ra bàn thảo, xem xét quyết định tại Quốc hội. Có thê nói đây là đặc điểm mang tính chủ đạo, xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội.
Tính chất tham mưu, tư vấn sâu về chun mơn trong hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội còn được thể hiện ở chỗ mọi hoạt động
của các Ủy ban của Quốc hội khơng đóng vai trị quyết định, khơng trực tiếp quyết định các vẫn đề, nội dung trong dự án, dự thảo...; không quyết định
thay cho hoạt động của Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Về cơ bản, các Ủy ban
<small>cua Quoc hội là cơ quan chuyên môn do Quôc hội lập ra, giúp Quôc hội về</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">những lĩnh vực nhất định để Quốc hội thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, trong đó nhiệm vụ quan trọng là thấm tra các dự án; các báo cáo luật
quy định và thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định. Về mặt pháp lý cũng như thực tế, Quốc hội, đại biéu Quốc hội hồn tồn có thé lựa chọn quyết định khác với ý kiến của các Ủy ban của Quốc hội.
Hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội ở Việt Nam có tác động
rất lớn đến hoạt động của Quốc hội nói chung. Nhờ sự tham mưu, tư van sâu về chuyên môn của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội mà các khía cạnh chính sách của dự án luật, dự thảo nghị quyết. ..được soi sáng; các Dai biểu Quốc hội có được những nguồn thơng tin mang tính đánh giá, phản biện một cách tồn diện đối với các nội dung do cơ quan trình dự án đề xuất; sức nặng của các nhận định, đánh giá, kiến nghi...trong các báo cáo của Ủy ban đối với Quốc hội mà cụ thé là đối với cá nhân các vị đại biểu Quốc hội là rất lớn.
Có thé nói xuất phát từ vị tri, tinh chất, phạm vi thâm quyền của Quốc
hội, nên các hoạt động của Quốc hội có phạm vi rất rộng, liên quan đến hầu như toàn bộ các vấn đề quốc kế dân sinh, hoạt động của HDDT, các Ủy ban là
những giải pháp về mặt thể chế phân công lao động nội bộ mà nhờ đó Quốc
hội có thể xem xét, thông qua các dự án luật, dự thảo nghị quyết, thực hiện quyền giám sát tối cao, quyết định những vấn đề quan trọng thuộc quốc kế
dân sinh và những nội dung có liên quan thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Hoạt động của Hội đồng, Ủy ban có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của Quốc hội nói chung cũng như từng đại biểu Quốc hội nói riêng và đặc điểm hoạt động kiêm nhiệm của đa số đại biéu Quốc hội càng nhấn mạnh thêm ý
nghĩa và tầm quan trọng trong hoạt động của các cơ quan này.
Thứ ba, hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội mang tính phản biện sâu sắc. Nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước ta là quyền lực nha nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyên lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vậy tính chat “Phản biện” trong Hoạt đơng của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội liệu có
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><small>~99 6</small>
“phá vỡ”, “mâu thuẫn” nguyên tắc này? Điều cần lưu ý là phản biện ở đây khơng có nghĩa là đối lập, mà là sự phản biện mang tính chất xây dựng. Chính vì vậy tinh chất phản biện trong hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội vẫn đảm bảo nguyên tắc tổ chức quyền lực trên của Nhà nước ta. Cơ sở của tính chất phản biện này xuất phát từ vị trí của Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của HĐND, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Do vậy, hoạt động mang tính chất phản biện của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội giúp Quốc hội hình dung ra bức tranh
tổng thể, toàn diện và những chiều cạnh hợp lý, chưa hợp lý của vấn đề được
đưa ra bàn thảo. Yếu tô phản biện ở đây cũng cần có những u cầu địi hỏi
nhất định như phải là phản biện tích cực, phải thể hiện được tinh thần “Nhìn thang vào sự thật, đánh gia đúng sự thật, nói rõ sự thật”; phan biện khơng nên
và khơng bao giờ chỉ được hiểu ở khía cạnh phê phán, mà điều quan trọng
nữa phải hướng đến mục tiêu xử lý tình huống, tìm ra giải pháp cụ thê để giải
quyết cơng việc, những khó khăn, thách thức mà thực tiễn cuộc sống đặt ra đòi hỏi phải giải quyết được thơng qua hoạt động của Quốc hội ... Có như vậy thì mới có thể tránh được hậu quả dé lọt những chính sách chứa đựng yếu tố “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ” trong hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Ở khía cạnh này, hệ thống các Ủy ban của Quốc hội đóng vai trị như
những chiếc “van” an tồn, thé hiện một phần nội dung kiểm sốt các van dé
về chính sách được trình ra Quốc hội, góp phần đảm bảo mọi quyết định của Quốc hội thực sự phù hợp với thực tiễn khách quan, xuất phát từ ý chí, nguyện vọng, từ lợi ích của nhân dân. Xét đến cùng, đây cũng chính là mục tiêu tồn tại và hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội 2,
<small>Dai học quốc gia Hà Nội, Trần Văn Thuan, Hoạt động của HDDT, Luận án Tiến sỹ luật học, Hà Nội-2015,</small>
<small>tr.46.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Thi tw, hoạt động của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội tuân thủ những nguyên tắc nhất định mang đặc trưng của chế độ Nghị viện, đó là nguyên tắc làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 68 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, “làm việc theo chế độ tập thê và
quyết định theo đa số” đã trở thành một nguyên tắc trong hoạt động của
HĐDT, các Ủy ban. Thực tiễn lịch sử lập Hiến cho thấy, tập trung dân chủ với ý nghĩa là một nguyên tắc nền tảng cho hoạt động của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước đã được các bản Hiến pháp của Nhà
nước ta quy định. Bắt đầu từ Hiến pháp năm 1959 (Điều 4), Hiến pháp năm 1980 (Điều 6), Hiến pháp năm 1992 (Điều 6) và đến Hiến pháp năm 2013 (Điều 8), việc Nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã là một
nguyên tắc Hiến định. Mặt khác, xuất phát từ tính chất tham mưu, tư vấn về
chun mơn cho hoạt động của Quốc hội là nhiệm vụ trung tâm của Ủy ban
đây là điểm khác biệt rất lớn so với hệ thống Ủy ban ở Quốc hội một số nước
-các Ủy ban của Quốc hội nước ta không có thâm quyền mang tính quyết định, dù là thủ tục; không phải thuộc dạng thức hoạt động của “Ủy ban mạnh” như một số nước; việc quy định nguyên tắc làm việc tập thé, quyết định theo đa số trong hoạt động của Ủy ban cần được nhìn nhận ở khía cạnh giúp các chủ thể khác thấy được mức độ đồng thuận trước những van đề đặt ra trong hoạt động của Ủy ban, hồn tồn khơng phải là các thành viên không thuộc ý kiến đa số khơng có tiếng nói. Ở Việt Nam Luật Ban hành văn bản QPPL đã đề cập trường hợp một Ủy ban không đạt được sự thông nhất trong một vấn đề nào đó,
trong trường hợp này, những thành viên khơng đồng ý với ý kiến da số có thể
thêm ý kiến của mình vào bản báo cáo của Ủy ban. Việc quy định như vậy đảm
bảo sự thận trọng, toàn diện về nội dung của báo cáo thấm tra. Việc vận hành
nguyên tắc này cũng nhằm tránh trường hợp chân lý có thể khơng đứng về phía đa số trong Ủy ban; vì rõ ràng, hồn tồn khơng thể loại trừ những trường hợp Quốc hội có thể quyết định có sự khác biệt hồn tồn với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban. Nếu quan niệm hoạt động của Hội đồng, Ủy ban hướng tới
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">sự đồng thuận, vừa phát huy trí tuệ tập thể cũng như từng thành viên, thì tập trung dân chủ sẽ là nguyên tắc có nhiều ý nghĩa và tiếng nói tự thân. Cùng với các ý nghĩa đó, xét một cách thực chất, cùng với nguyên tắc làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số, tập trung dân chủ cần được nhận diện như thực tế bản chất vốn có của nó với vị trí là một trong những nguyên tắc cốt lõi trong hoạt động của Hội đồng, Ủy ban’”.
1.3. Vị trí, vai trò của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội
Ở nước ta, HDDT, các Ủy ban là những bộ phận cầu thành tô chức của
Quốc hội, được quy định trong Hiến pháp và có sự định danh cụ thể, rõ ràng hơn trong các văn bản pháp luật, nhất là các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
Tìm hiểu về vị trí, vai trị của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội cũng
chính là việc tìm hiểu tại sao lại có sự ra đời của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội? Các co quan này ra đời nhăm mục đích gì? Mục đích mà các co quan này được ra đời là giúp việc cho Quốc hội. Với vị trí là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội ngày càng có vị trí quan trọng trong q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và trong tiến trình hội nhập kinh tế thế
giới. Tuy nhiên, trong thời kỳ mới, Quốc hội Việt Nam đang đứng trước một
số thách thức. Thách thức thứ nhất là sự phân công lao động. Quốc hội Việt Nam là diễn đàn quá lớn mà tại phiên tồn thể, với thời gian ngăn người ta khơng thé tiễn hành tat cả khối lượng lớn các công việc đòi hỏi sự chỉ tiết, kỹ thuật và những vấn đề có tính chun mơn cao. Vì vậy, sự ra đời của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội như một giải pháp nhằm chia nhỏ các công việc của Quốc hội. Thành viên của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội là những cá
nhân có trình độ chun mơn cao, tiến hành nghiên cứu và trình lên phiên
thảo luận toàn thể. Phuong án này giúp tiết kiệm tối đa chi phí và thời gian của Quốc hội. Thách thức thứ hai là nhu cầu cung cấp thông tin. Để quyết
<small>định một vân đê quan trọng thuộc thâm quyên của Quôc hội, các đại biêu cân20 Dai hoc Quéc gia Hà Nội, Trần Van Thuan, Hoạt động của HDDT, các Ủy ban của Quốc hội nước cộng</small>
<small>hòa XHCN Việt Nam, Luận án tiên sỹ luật học, Hà Nội-2015, tr.62-66.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">phải được cung cấp thông tin chun mơn, đơi khi là thơng tin mang tính chun ngành hẹp. Các Ủy ban thường trực gồm các đại biểu có năng lực chuyên sâu là giải pháp tối ưu giúp thu thập thông tin từ các nguồn thông tin khác nhau, xử lý và cung cấp cho Quốc hội cũng như các đại biểu Quốc hội. Thách thức thứ ba là sự địi hỏi về tính chun nghiệp. Trong xu thế tồn cầu
hóa và đời sống kinh tế, văn hóa xã hội ngày càng phát triển, hoạt động của
Quốc hội ngày càng địi hỏi tính chun nghiệp cao. Tuy nhiên, Quốc hội Việt
Nam hoạt động không thường xuyên, đa số đại biéu Quốc hội làm việc kiêm nhiệm. Vì vậy, Quốc hội cần phải thành lập ra các cơ quan giúp việc thường
trực, hoạt động thường xuyên chuyên trách giúp Quốc hội thực hiện tốt chức
năng của mình. Thách thức thứ tư là sự địi hỏi tính kịp thời trong các quyết
định của Quốc hội. Trong nhiều tình huống các quyết định của Quốc hội vừa đòi hỏi sự cấp thiết, vừa địi hỏi sự chính xác. Các Ủy ban với cơ cầu gọn nhẹ,
thành phần gồm các chuyên gia tinh thông về nghiệp vụ, am hiểu về lĩnh vực
chuyên môn sẽ giúp Quốc hội đưa ra các quyết định một cách sáng suốt nhất `. Với những lý do nêu trên, có thể thấy, HĐDT và các Ủy ban thường trực là những co quan giúp việc khơng thể thiếu trong tổ chức của Quốc hội, đóng vai trò quyết định tới hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Vi trí này của HDDT va các Ủy ban thường trực của Quốc hội đã được khẳng định một cách rõ
<small>ràng trong các văn bản QPPL hiện hành.</small>
Về cơ bản, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội là các cơ quan chuyên môn do Quốc hội lập ra, giúp Quốc hội về một số lĩnh vực để Quốc hội thực
hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Do đó, là các cơ quan của Quốc hội,
với tính chất là cơ quan chuyên môn, Hội đồng, Ủy ban không phải là các “Quốc hội thu nhỏ”, không quyết định thay Quốc hội, không quyết định thay từng đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu, mà về bản chất, chỉ cung cấp cho các đại biểu Quốc hội những thơng tin, phân tích, đánh
<small>giá mang tính chun mơn sâu sắc, các kiên nghị, đê xt...đê Qc hội xem?! Đồn Thị Thu Huyền (2010), Hồn thiện tô chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐDT, các Ủy ban</small>
<small>thường trực của Quôc hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ, tr.8-13.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">xét, quyết định. Nhu vậy với vi tri, vai trò tham mưu, tư van về chuyên mơn
trong hoạt động của HĐDT, các Ủy ban có tính khách quan, là hệ quả của
việc phân công lao động trong hoạt động của Quốc hội.
Trong dòng chảy chung, sự hình thành, phát triển về số lượng, cơ cấu tơ
chức và xu thế ngày càng mở rộng về phạm vi, nghĩa vụ, quyền hạn của
HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội là những minh chứng thực tiễn về ý nghĩa,
vai trò và tầm quan trọng của cơ quan này trong hoạt động của Quốc hội nước ta. Xét đến cùng, đại biểu Quốc hội về bản chất mới là trung tâm trong mọi hoạt động của Quốc hội, nhưng từng cá nhân đơn lẻ đại biểu Quốc hội khi phải đối diện với những vấn đề bề bộn của Quốc gia đại sự và cần phải phát biểu, cần phải biểu quyết, quyết định nếu thiếu vắng, khơng có kết quả tham mưu, tư vẫn của Hội đồng, Ủy ban thì sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội nói riêng của Quốc hội nói chung”. Mặt khác, một trong
những lý do để Quốc hội thành lập các Ủy ban là nhiệm vụ, quyền hạn của
Quốc hội nếu được giải quyết bằng cách tập trung tất cả các đại biểu Quốc hội thì nhiều khi khơng những khơng có hiệu quả cao mà cịn tốn kém. Về khía cạnh thực tế, với số lượng khoảng 500 đại biểu như những năm gần đây, thì
rõ ràng, như có ý kiến đã nhận định: một đại biểu thì ít q, mà cả Quốc hội
thì lại q nhiều. Đó là nguyên nhân vì sao các Ủy ban là hình thức hoạt động hiệu quả ở Quốc hội trong trường hợp liên quan đến chun mơn.
Như vậy, có thể nói việc xác lập và vận hành cơ cầu tô chức bên trong Quốc hội hay bất kỳ một thiết chế nào khác là nhu cầu có tính chất quy luật,
phát huy được trí tuệ, kinh nghiệm của các nhóm đại biểu Quốc hội về những
lĩnh vực chuyên môn cụ thể. HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội chính là những cơng cụ, phương thức tổ chức dé Quốc hội nói chung và Đại biểu Quốc hội nói riêng thực hiện một cách có hiệu quả các chức năng nhiệm vụ của mình. Tiếp
<small>cận từ khía cạnh này, xét vê vi trí, vai trị, vê cơ bản, HDDT và các Uy ban của</small>
<small>“Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2007), Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học</small>
<small>Quốc gia Hà Nội, tr.235.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Quốc hội là những cơ quan chuyên môn do Quốc hội lap ra, giúp Quốc hội về một số lĩnh vực để Quốc hội thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
1.4. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của HDDT và các Ủy ban
của Quốc hội
Ở nước ta, ké từ năm 1946 cho tới nay, Quốc hội nước ta đã trải qua 13 nhiệm kỳ. Lich sử hình thành và phát triển chưa đầy thé kỷ của Quốc hội gắn
liền với những dấu ấn vĩ đại trong lịch sử đất nước. Quốc hội nước ta đã đồng hành cùng dân tộc trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc chồng giặc ngoại xâm, thong nhất đất nước, xây dựng va bảo vệ Tổ quốc cũng như trong
quá trình đây mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới đất nước. Mặc dù Quốc hội đã trải qua 13 khóa hoạt động, nhưng co quan chuyên môn (gồm HDDT và
các Ủy ban) lại mới chỉ ra đời và hoạt động từ năm 1960 đến nay.
Nếu tính từ khi chính thức được định danh trong Hiến pháp (Hiến pháp năm 1959), Hội đồng và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam đã trải qua 55
năm hình thành và phát triển. Đây là quãng thời gian không phải dài nếu so
sánh với lịch sử hình thành và phát triển của một quốc gia, dân tộc. Tuy
nhiên, khoảng thời gian đó cho thấy, hệ thống các cơ quan này đã trải qua một quá trình phát triển liên tục, gan liền với hoạt động của Quốc hội qua các thời
kỳ. Ngay ở Khóa Quốc hội thứ nhất (1946-1960), khi chưa có Luật Tổ chức Quốc hội và Hiến pháp năm 1946 cũng không quy định về việc thành lập và hoạt động của các Ủy ban của Nghị viện nhưng Ban thường vụ Nghị viện - cơ
quan thường trực của Nghị viện - đã thành lập ba tiêu ban chuyên môn giúp
việc, gồm Tiểu ban pháp chế, Tiểu ban Tài chính - Kinh tế và Tiểu ban kiến
<small>nghị, có nhiệm vụ giúp Ban thường vụ Nghị viện nghiên cứu xem xét các báo</small>
cáo của Chính phủ, dự án sắc luật. Sau ngày miền Bắc được giải phóng năm 1954, Ban thường vụ Nghị viện đã thành lập mười hai tiểu ban chuyên môn giúp cơ quan này thấm tra các dự án luật, dự án sắc lệnh, các báo cáo của
Chính phủ đệ trình Nghị viện, kiến nghị với Nghị viện những vấn đề thuộc
<small>lĩnh vực mà tiêu ban phụ trách. Vé ban chat, đây là các tiêu ban có chức năng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">giúp việc cho Ban thường trực Quốc hội, nên không được xem như các Ủy ban thường trực đầu tiên của Quốc hội. Tuy nhiên, các tiêu ban này có thể được coi là mầm mống của các Ủy ban thường trực sau này vì nhiệm vụ của các tiêu ban và các Ủy ban sau này có nét tương đồng.
Từ năm 1960, theo Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã thành lập những Ủy ban đầu tiên là Ủy ban dự án pháp luật, Ủy ban kế hoạch và ngân sách và những Ủy ban khác mà Quốc hội có thé thành lập nếu xét thấy cần thiết. Trên thực tế Quốc hội khóa II (1960-1964) lúc đầu chỉ thành lập hai Ủy ban là Ủy
ban dự án pháp luật và Ủy ban tài chính, ngân sách hiện thời. Năm 1961,
Quốc hội thành lập thêm Ủy ban dân tộc theo Nghị quyết tại kỳ họp ngày 20
tháng 4 năm 1961 và đến năm 1963 thành lập thêm Ủy ban thống nhất theo Nghị quyết ngày 30 tháng 4 năm 1963. Đến Quốc hội khóa II (1964-1971), ở
khóa này, Quốc hội đã thành lập năm Ủy ban trong đó có bốn Ủy ban đã được
thành lập trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa II và có thêm một Ủy ban mới là Ủy ban văn hóa, xã hội theo Nghị quyết của Quốc hội ngày 3/7/1964.
Quốc hội khóa IV (1971-1975) có thêm Ủy ban đối ngoại theo Nghị quyết của Quốc hội ngày 9 tháng 2 năm 1974 và mơ hình gồm sáu Ủy ban này được tơn tại cho đến Quốc hộ khóa V (1975-1976).
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VI (1976-1981), nước nhà thống nhất, Ủy ban thống nhất hồn thành nhiệm vụ, chấm dứt vai trị lịch sử của mình. Ủy ban văn hóa, xã hội đã được tách thành hai Ủy ban là Ủy ban văn hóa và giáo dục và Ủy ban y tế và xã hội.
<small>Trong hai nhiệm ky khóa VII (1981-1987) và khóa VIII (1987-1992),</small>
Quốc hội hoạt động theo Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng nhà nước năm
1981, lần đầu tiên Quốc hội thành lập các hội đồng là Hội đồng quốc phịng và HĐDT. Ở hai khóa này, Quốc hội thành lập 8 Uy ban, bao gồm HĐDT và
7 Ủy ban (UBPL, Ủy ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách, Ủy ban văn hóa, giáo dục, Ủy ban khoa học và kỹ thuật, Ủy ban y tế và xã hội, Ủy ban thanh
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">niên, thiếu niên và nhi đồng, Ủy ban đối ngoai). Ngoài ra, Quốc hội có thê thành lập các Ủy ban thường trực khác xét khi thấy cần thiết.
Quốc hội khóa IX (1992-1997) và khóa X (1997-2002), các cơ quan chun mơn của Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992, số lượng vẫn là 8 (gồm HĐDT và 7 Ủy ban) nhưng có sự
sáp nhập, đổi tên và thành lập mới. Uy ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách
được đổi thành Ủy ban kinh tế và ngân sách, Ủy ban y tế và xã hội được đổi
thành Uy ban về các van dé xã hội; Uy ban khoa học và kỹ thuật đôi thành Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường: sáp nhập 2 Ủy ban (Ủy ban văn hóa
và giáo dục và Ủy ban thanh niên, thiếu niên, nhi đồng) thành Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi dong; thành lập mới Ủy ban quốc
<small>phịng và an ninh.</small>
Quốc hội Khóa XI (2002-2007) và Khóa XII (2007-2012), các cơ quan chuyên môn của Quốc hội được tô chức và hoạt động theo Luật sửa đôi, bố sung một số điều của Luật tổ chức của Quốc hội (Luật số 83/2007/Quốc hội 11 ngày 11-4-2007) với 7 co quan giữ nguyên tên gọi trước đây và 3 Ủy ban
mới là UBTP, Ủy ban kinh tế và Ủy ban tài chính, ngân sách (trên cơ sở tách UBPL thành UBTP và UBPL; tách Ủy ban kinh tế ngân sách thành Ủy ban
kinh tế và Ủy ban tài chính, ngân sách).
Đến năm 2007, do “Cơ cau tơ chức của các cơ quan của Quốc hội vẫn chưa hoàn thiện, số lượng Đại biéu Quốc hội chuyên trách còn hạn ché, trong khi khối lượng công việc tang lên gấp bội, tinh trạng quá tải công việc đã xuất
hiện trong nhiều năm” cùng với mục tiêu gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới vào những năm 2005, 2006, Quốc hội khóa XI quyết định tách UBPL
thành UBTP và UBPL; Ủy ban kinh tế và ngân sách thành Ủy ban kinh tế và
Ủy ban tài chính và ngân sách.
Ngày 06/8/2011, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, đã thông qua Nghị quyết số 06/2011/Quốc hội 13 thành lập Uy ban dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 gồm 30 thành viên, do đồng chí Nguyễn Sinh Hùng - Chủ tịch
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Quốc hội làm Chủ tịch Ủy ban. Sau thời gian 9 tháng (từ 01 đến 9/2013) triển khai lay ý kiến góp ý của nhân dân cả nước và người Việt Nam ở nước ngoài, ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII chính thức thơng qua
Hiến pháp nước Cộng hịa XHCN Việt Nam - Hiến pháp năm 2013. Ngày
08/12/2013, Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014. Ngày 20/11/2014, Quốc hội
khóa XII, kỳ hop thứ 8 đã thông qua Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 thay thế Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, sửa đổi bổ sung một số điều năm 2007. Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 thay thế Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ
sung năm 2001, sự ra đời của Luật Tổ chức Quốc hội mới dẫn tới một số thay đổi trong cơ cau tô chức của Quốc hội nói chung và HĐDT các Ủy ban của
Quốc hội nói riêng. Như vậy, hiện nay Quốc hội có HĐDT và chín Ủy ban
của Quốc hội, bao gồm: UBPL; UBTP; Ủy ban kinh tế; Ủy ban tài chính, ngân sách; Ủy ban quốc phịng an ninh; Ủy ban văn hóa giáo dục, thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng: Ủy ban về các vấn đề xã hội; Ủy ban khoa học, công
nghệ và môi trường: Ủy ban đối ngoại”.
Khung pháp luật tổng thể hiện hành về vị trí, nhiệm vụ và quyền hạn cụ
thé của HĐDT và các ủy ban của Quốc hội bao gồm Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân năm 2015, Quy chế hoạt động của HDDT và các Ủy
ban của Quốc hội năm 2004 và các văn bản khác như Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015, Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2004, Quy chế làm việc của từng Ủy ban.
Nhìn tổng thê lịch sử hình thành và phát triển của Quốc hội Việt Nam, có thê thay ở thời kỳ đầu của lich sử lập Hiến, với việc mới giành được chính
quyên lại phải đương đầu với việc giữ chính quyền non trẻ, vai trị của Uy ban chưa được nhìn nhận rõ. Từ sau Hiến pháp năm 1959, khi Việt Nam đã giành
<small>®Đbỗ Thị Như Hảo, Luận Văn thạc sỹ luật học, Hoạt động của HDDT và các Ủy ban của Quốc hội - Thực</small>
<small>trạng và hướng hoàn thién,tr.1-7, tai dia chi:</small>
<small> (truy cập ngày17/6/2016).</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">được chủ quyền nhất định đối với lãnh thổ, vai trò của Ủy ban ngày càng được nâng cao, biểu hiện ở chỗ số lượng và mức độ chun mơn hóa giữa các Ủy ban ngày càng tăng. Điều này được giải thích là do nhu cầu thực tiễn của công cuộc xây dựng đất nước, do sự phát triển của kinh tế cùng với sự phát triển và áp dụng thành tựu khoa học công nghệ làm nảy sinh nhiều vấn đề trong lĩnh vực mới, đòi hỏi Quốc hội phải giải quyết. Vì lẽ đó, Quốc hội phải
thành lập các Ủy ban trong từng lĩnh vực và ngày càng có xu hướng tương
ứng với từng lĩnh vực của cán bộ của Chính phủ, thể hiện sự chun mơn hóa ngày càng cao của Ủy ban của Quốc hội.
Vấn đề dân tộc có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Hiến
pháp năm 1959 chưa nói đến việc thành lập HĐDT mà chỉ quy định việc thành lập các Ủy ban của Quốc hội. Tiếp đó, theo Nghị quyết ngày 20 tháng 4
năm 1961 Quốc hội đã thành lập Ủy ban dân tộc của Quốc hội để giúp Quốc
hội nghiên cứu, thâm tra va dé ra các dự án về van dé dân tộc. Hiến pháp năm
1980 đã nâng Ủy ban dân tộc của Quốc hội thành HDDT cho xứng với tam quan trọng của vấn đề dân tộc ở nước ta. Đến Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 đã được sửa đôi, bô sung năm 2007, vi trí, vai trị của HDDT được dé cao, nhiệm vụ quyền hạn được tăng cường. Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992”.
Như đã phân tích ở trên, trong lịch sử phát triển của Quốc hội Việt Nam, không phải tất cả các cơ quan của Quốc hội được thành lập ngay từ Quốc hội đầu tiên. Tuy nhiên, trước yêu cầu phải có cơ quan đảm nhiệm nhiệm vụ nhất
định, giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình thì các cơ
quan của Quốc hội mới lần lượt được thành lập và ngày càng có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Theo thời gian,
cùng với sự phát triển và hồn thiện cơ cấu tơ chức và hoạt động của Quốc
<small>hội, tô chức của các Uy ban của Qc hội ln được quan tâm chú trọng.“Đồn Thi Thu Huyền (2010), Hoàn thiện tổ chức va nâng cao hiệu quả hoạt động của HDDT và các Uy ban</small>
<small>thường trực của Quôc hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội-2010, Tr.5.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">Quốc hội khóa II có 4 Uy ban thì đến nay Quốc hội khóa XIII có HĐDT và 9 Ủy ban. Như vậy, có thể thấy rằng, yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội đã dẫn đến yêu cầu hoàn thiện về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội.
1.5. Yêu cầu tổ chức và hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội trong điều kiện hiện nay
<small>Hoạt động của HDDT, các Uy ban cua Quoc hội có vi trí, vai trị quan</small>
trọng trong tồn bộ tơ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta. Sự vận hành mang tinh thường xuyên của một hệ thống cơ quan của Quốc hội chuyên sâu về
các lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều kiện Quốc hội hoạt động
không thường xuyên, đa số đại biểu Quốc hội hoạt động khơng chun trách. Đề có thé làm tốt vị trí, vai trò là các cơ quan tư vấn, tham mưu về chuyên môn cho Quốc hội ở những lĩnh vực cụ thể, hoạt động của HDDT, các Uy ban của Quốc hội ln phải đáp ứng những u cầu, địi hỏi nhất định. Có thê có những quan niệm khác nhau về những yêu cau, đòi hỏi đặt ra trong hoạt động của HDDT, các Uy ban của Quốc hội, song, đặt trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta, phù hợp với yêu cầu đổi mới tô chức và hoạt động của Quốc hội thời gian tới, xuất phát từ nền tang Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn đất nước, bước đầu, xin nhận diện các yêu cầu đối với hoạt động của HĐDT, các Uỷ ban của Quốc hội qua các nội dung sau:
Thế nào là Nhà nước pháp quyền? Nhà nước pháp quyên, với định nghĩa căn bản nhất là khơng có ai ở trên luật hay ngoài luật, mà tất cả phải tuân theo pháp luật. Một nguyên tắc bắt nguồn một cách logic từ ý tưởng cho răng sự thật, cũng như luật, đều dựa trên những nguyên tắc căn bản có thé được phát hiện ra nhưng không thể được tạo ra theo ước muốn. Có lẽ ứng dụng quan trọng nhất của pháp quyền là nguyên tắc rằng chính quyền chỉ thực thi quyền hành một
<small>cách hợp pháp theo các luật được soạn thảo ra và phát hành rộng rãi. Những luậtđó được thơng qua và thực thi theo đúng các bước được gọi là thủ tục pháp lý.</small>
Nguyên tắc này nhằm mục đích ngăn ngừa sự cai trị độc đốn dù cho đó là lãnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">đạo chuyên quyền hay quan chúng lãnh đạo. Chính vì vậy, pháp quyền chống lại cả chế độ độc tài lẫn tình trạng vơ chính phủ. Samuel Rutherford là một trong những tác giả đương đại đưa ra nguyên tắc đó những nền tang lý thuyết trong cuốn Lex, Rex (1644), và sau này là Montesquieu trong cuốn Tinh thần Pháp luật xuất bản năm 1748. Ở Châu Âu đại lục và tư tưởng pháp lý, pháp quyền
<small>thường, nhưng không phải luôn ln, có liên hệ với Rechtsstaat (Nhà nước pháp</small>
quyền - Đức). Theo tư tưởng những người châu Mỹ Anglo, pháp quyền có quan
hệ mật thiết với tam quyền phân lập, tính chắc chắn của pháp lý, nguyên tắc ước
muốn hợp pháp và bình đăng của mọi người trước pháp luật”.
Nhà nước pháp quyên là vị thé pháp lí hay một hệ thống thé chế, nơi mỗi
người đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền.
Tiếp thu tinh than của thế giới về nhà nước pháp quyền cũng như xây
dựng nhà nước pháp quyền phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta hiện nay, Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam 2013 quy định:
1. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN
<small>của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.</small>
2. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tang là liên minh giữa giai cấp cơng
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
<small>tư pháp.</small>
Như chúng ta đã thấy, nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thừa
nhận nhà nước pháp quyền là phương châm lãnh đạo, hoạt động của mình.
Nhà nước pháp quyền như vậy liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các quy phạm, tôn trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền
<small>? Khái niệm và đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN, Diễn đàn nghiên cứu wattpad, tại địa chỉ:</small>
<small> </small>
<small>1i-ni⁄4E1%BB%87m-%C4%91%EI%BA%B7c-%C4%9 1i%EI %BB%83m-nn-ph%C3%A | p-quy%E1%BB%81n-xhen (ngày truy cập 8/6/2016).</small>
</div>