Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án nhân dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.45 MB, 75 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYEN THỊ THANH HUE

Chuyén nganh: Luat Kinh té Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Thúy Lâm

HÀ NOI - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, được xuất

phát từ yêu cầu phát sinh trong cơng việc đề hình thành hướng nghiên cứu. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình

<small>bày trong luận văn thu thập được trong quá trình nghiên cứu là trung thực,</small>

chưa từng được ai công bố

<small>Học viên</small>

Nguyễn Thị Thanh Huệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thúy Lâm đã <small>hướng dẫn tơi thực hiện q trình nghiên cứu luận văn của mình.</small>

Cũng xin gửi lời cảm ơn tới q thầy cơ giáo trong suốt khóa học đã

đem lại cho tơi những kiến thức bổ trợ vơ cùng có ích trong những năm học <small>qua.</small>

<small>Xin cảm ơn Ban Giám hiệu, Phong Dao tạo, Khoa Sau đại học Trường</small> Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tơi trong q trình học tập

và hồn thành luận văn này. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã ln bên tơi, động viên khuyến khích và giúp đỡ tơi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

<small>Học viên</small>

Nguyễn Thị Thanh Huệ

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

LOT MỞ ĐẦU: ...-- 2 22s E21 212112122121111112111211 1111111111111 re. l CHƯƠNG I: MỘT SO VAN DE LÝ LUẬN VÉ TRANH CHAP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHAP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TOA ÁN...- 5 s t2 Ek 1E 1111111 11111111111 11111111111. 5

1.1. Tranh chấp lao động cá nhân...- ¿2+ +22 £E+E+E£E£ESEEzErEererrxrsred 5

<small>INNNC ,,ni.an0dfâắaO.... 5</small> 1.1.2. Dau hiệu của tranh chấp lao động cá nhân ...--- - 2 s=s+s+csce2 9 1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án va sự cần thiết phải

giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án ... 2 - 2552 12

<small>ZZN nen... 12</small> 1.2.2. DGC GIGI nhh.Ặ.uaa... 12 1.2.3. Sự can thiết phải giải quyết tranh chap lao động cá nhân tai Tòa án... L4 1.3. Điều chỉnh pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án... 15 CHƯƠNG II: GIẢI QUYÉT TRANH CHÁP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH Ở <small>VIỆT NAM... 5c 1 1 2s 1 E1 1211121215 11111111 1111212111111 a0 20</small>

2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án... 20

2.1.1. Nguyên tắc giải quyết TCLĐ một cách kịp thời, nhanh chóng và có sự <small>tham gia của đại điện cơng đồn và đại điện cua NSDLT)... .-«‹ 20</small> 2.1.2. Nguyên tắc tôn trọng quyết định và tự định đoạt của các bên... 20 2.1.3. Nguyên tắc thương lượng, hòa giải, trọng tài...----ccscs+cssa 21 2.1.4. Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh ... 22 2.1.5. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia... 22 2.1.6. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể...--- + + +s+E+E‡ESEEeEsrsrerrrsed 22 2.1.7. Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ <small>12/N//12985)/1//58//1/ n8... ad... 22</small> 2.1.8. Nguyên tắc xét xử trực tiếp, liên tục và bằng lời nói:...--.--- 23

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2.1.10. Nguyên tắc mọi cơng dân déu có qun dùng tiếng nói, chữ viết của <small>dân tộc Minh trWỚC TOA ẲH'...-- - 5c cv 355535 24</small> 2.1.11. Nguyên tắc đảm bảo quyên tranh luận trong tơ tụng dân sự... 24

2.2. Tham quyền của Tịa án trong việc giải quyết tranh chấp lao động cá

<small>)JR/248 0 NHda... 26</small>

2.2.2. Thẩm quyên giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án theo 2.2.3. Thẩm quyên giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án theo 00/0... 28 2.2.4. Tham quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án theo <small>SU lựa CRON CUA NGUYEN (ẨOPH... E311 9 111111 v1 vn ren 29</small> 2.2.5. Chuyển vụ việc cho Tòa án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm

;02 RERRREEERERERERRR.... 29 2.3. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân... 31 2.4. Trinh tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án... 32 2.4.1. Giải quyết vụ án lao động theo thủ tục sơ thẩm. ...----:- + 32 2.4.2. Giải quyết vụ án lao động theo thủ tục phúc thẩm ...--:- 5+ 43 2.4.3. Giải quyết vụ án lao động theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ... 45 CHUONG III: THỰC TIEN GIẢI QUYẾT TRANH CHAP LAO DONG CÁ NHÂN TAI TOA ÁN NHÂN DAN VÀ MỘT SO KIEN NGHỊ... 51

3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tai TAND...-- 51

3.1.1. Kết quả đạt đẪƯỢC... 5-5 5S SE SEEEEEEEEE5EE111151511111115111 1x11 re. 51 E42 in nổ nnằ‹«c... 52

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và hiệu quả thực thi pháp

luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án...-. --- 56 3.2.1. Yêu câu của việc hoàn thiỆn ...- +: Set St SE SE SEE2E2E2EEE E255 Exeg 56

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>AONG tai TAND ĐI... :ư:ư--+ƠƠƠƠƠỊƠỎ 58</small> 3.2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân...---- - - 62 KET LUẬN...-- 5-52 SE 1E E1 151511 32111512111111115111111111111111111 EU 1k0 66 DANH MỤC TAI LIEU THAM KHẢO...---- 2-5 2 2 x+s+xzEzzrees 68

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong cơ chế thị trường sức lao động là hàng hóa đặc biệt quan trọng, đặc biệt vị thế yếu thường thuộc về phía người lao động, để ngăn ngừa tình

<small>trạng lạm dụng q đáng từ phía người sử dụng lao động, Luật lao động đã có</small>

những quy định dé bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, đồng thời bao vệ quyền và lợi ích của người sử dụng lao động. Một trong các quy định đó là các chế định về việc giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án. Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là nội dung cơ bản của pháp luật lao động, vì vậy Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần sửa đổi, bố sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Năm 2012 Bộ luật Lao động được sửa đôi, bé sung và thay thế cho Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi bổ sung qua các năm 2002, 2006, 2007) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 05 năm 2013. Năm 2004 Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua đã thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động đã đưa ra một diện mạo mới đối với thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Năm 2010 Bộ luật Tố tụng dân sự được sửa đôi, bỗ sung. Như vậy với sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật lao

động việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tịa án đã có nhiều thay đổi. Bên cạnh đó tình hình thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án trong

thời gian gần đây cho thấy Tòa án là một trong những cơ quan có thâm quyền trong việc giải quyết tranh chấp lao động tuy nhiên các số vụ tranh chấp lao động đưa đến tịa án cịn hạn chế. Tình trạng này phát sinh do nhiều nguyên nhân như: thủ tục hòa giải tại cơ sở còn nhiều vướng mắc, sự hiểu biết pháp

luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động của người lao động còn hạn chế,

các tổ chức tư vấn cho người lao động chưa phát huy hiệu quả... Tỷ lệ các vụ án của tòa án cấp sơ thâm phải sửa tương đối cao, một số vụ án phải kéo dài, có vụ tới ba hoặc bốn năm do phải hủy để xét xử lại; quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khơng được khơi phục kịp thời. Những hạn chế đó đã gây những tác động tiêu cực đến quan hệ lao động đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay. Do vậy, lựa chọn nghiên cứu van đề "Gidi quyết tranh chap

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

luận văn hy vọng sẽ đóng góp được một phần vào việc nghiên cứu và hồn thiện van dé này dé phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước va môi trường kinh tế quốc tế.

<small>2. Tình hình nghiên cứu</small>

Là một trong những vấn đề cơ bản của pháp luật lao động nói chung và

pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động nói riêng, van đề giải quyết tran chấp lao động cá nhân tại Tòa án đã được các nhà khoa học, luật gia quan tâm nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Đã có những cơng trình, bài viết khoa học về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án hoặc liên quan đến giải quyết tranh chấp lao động tại Tịa án đã được cơng bố như: Giáo trình Luật Lao

động Việt Nam của Khoa luật, Đại học Xã hội và Nhân văn quốc gia, 2000; <small>Giáo trình Luật lao động Việt Nam của Trường Dai học Luật Hà Nội, 2010;</small>

Thủ tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự của Phạm

Cơng Bảy, Nxb Chính trị quốc gia, 2006; Luận văn Thạc sỹ luật học. Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân - một số vấn đề lý luận và thực tiễn do Vũ Thị Thu Huyền thực hiện năm 2002; Luận văn Tiến sĩ luật học.

<small>Tài phán lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam do Lưu Bình</small> Nhưỡng thực hiện năm 2002;... các bài viết: Những điểm mới về tranh chấp

lao động và giải quyết tranh chấp lao động theo luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Bộ luật lao động năm 2006 của Nguyễn Xuân Thu, Tạp chí Luật học, số 7 /2007; Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án - Một số bất cập và hướng hoàn thiện của Lê Thị Hoài Thu; Giải quyết tranh chấp lao động tại

Tòa án nhân dân - từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến nghị của Phạm Cơng Bảy, Tạp chí Luật học số 9/2009...

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về giải

quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án, cơ chế giải quyết tranh chấp lao

động cá nhân tại Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp

dụng, từ đó chỉ ra những bất cập để đề xuất những kiến nghị và giải pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Tòa án trên thực tế. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc giải quyết

tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án, cụ thê là:

- Nghiên cứu khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân <small>tại Tòa an.</small>

- Nghiên cứu thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

<small>theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.</small>

- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án <small>ở Việt Nam hiện nay.</small>

- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án. <small>4. Phạm vi nghiên cứu</small>

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết

tranh chấp lao động cá nhân tại Tịa án dưới góc độ của luật lao động đồng thời đề cập đến một số quy phạm của luật tố tụng dân sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng giải quyết các tranh chấp lao động tại

<small>Tòa án trong giai đoạn từ năm 2005-2013.</small>

<small>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu</small>

Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các

quan điểm của Đảng. Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, từ tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người và quyền công dân trong xã hội, những luận điểm khoa học trong các cơng trình nghiên cứu và các bài viết đăng trên tạp chí của

một số nhà khoa học Việt Nam. Luận văn sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cụ thé dé làm sáng tỏ về mặt khoa học từng van đề tương ứng, đó <small>là các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp luận, so sánh, phân tích,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tổng hợp, thống kê, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề

- Nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn vận hành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án.

- Luận văn chỉ ra những ton tại của hệ thống các quy định và thực tiễn

hoạt động giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án của Việt Nam

<small>trong thời gian qua.</small>

- Luận văn đưa ra kiến nghị về một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, tăng cường khâu tổ chức và hoạt động của giải quyết tranh chấp lao động <small>cá nhân tại Tòa án của nước ta.</small>

Với những vấn đề nêu trên, tác giả của luận văn hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc hồn thiện hệ thống và tổ chức vận hành có hiệu quả các loại hình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tịa án nhằm đảm bảo qun, lợi ích của các bên trong mối quan hệ pháp luật lao động, đảm bảo lợi ích Nhà nước và xã hội, thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề <small>ra.</small>

7. Cau trúc của luận van.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: M6t số vấn dé lý luận về tranh chấp lao động cá nhân và giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Chương 2: Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án theo

<small>quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam</small>

Chương 3: Thực tién giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa

<small>ún và một sô kiên nghị</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

DONG CA NHAN VA GIAI QUYET TRANH CHAP LAO DONG CA NHAN TAI TOA AN

1.1. Tranh chấp lao động cá nhân <small>1.1.1. Khai niệm</small>

<small>Quan hệ lao động (QHLĐ) là một loại quan hệ xã hội phát sinh trong</small> hoạt động lao động và sản xuất, thé hiện mối quan hệ về phân công lao động, trao đối hợp tác, thuê mướn, sử dung lao động giữa những chủ thé tham gia

lao động. Tranh chấp lao động (TCLD) là một hiện tượng kinh tế xã hội, phát

sinh và gắn liền với quá trình hình thành và phát trién QHLĐ.

<small>QHLD là quan hệ xã hội hình thành trong quá trình sử dụng sức lao độnggiữa một bên là người lao động (NLD) với một bên là người sử dụng lao động</small>

(NSDLĐ). Trong nền sản xuất hàng hóa, sức lao động được coi là một loại

<small>hàng hóa mang những đặc tính của hàng hóa là giá trị và giá trị sử dụng. Khi</small>

tham gia QHLĐ, các bên đều có mục đích của mình từ việc th và cho thuê sức lao động. Đề có thé đạt được mục đích của minh, ngay từ khi xác lập QHLD các bên đều cố gang dé dat duoc những cam kết hoặc thỏa thuận có lợi cho mình. Và khi QHLĐ đã được xác lập, trong suốt quá trình thực hiện

QHLĐ đó các bên vẫn mong muốn làm thé dé đạt được mục đích tối đa. Mục tiêu của bên làm thuê là làm thế nào dé có tiền cơng cao, cịn mục tiêu của bên th là làm thé nào dé giảm chi phí cho lao động và khai thác được càng

nhiều giá trị sử dụng của sức lao động. Vì vậy, sự mâu thuẫn về lợi ích của

<small>NLD và NSDLD trong QHLD là hiện tượng khó tránh khỏi. Tuy nhiên, mâu</small> thuẫn mới chỉ biểu hiện một mặt nào đó của QHLD, sự mâu thuẫn đó chỉ là sự

phản ứng tức thời tuy là phản ứng có ý thức nhưng chưa thé hiện rõ nét mục

đích của chủ thể. Chính vì thế, trong nhiều trường hợp mặc dù các bên không

chủ động giải quyết nhưng mâu thuẫn cũng có thé tự mat đi. Chỉ khi mâu thuẫn, xung đột đạt đến một mức độ nhất định, có sự can thiệp của yeu tơ lí trí

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

hiện tranh chấp. Lúc này các bên trong quan hệ tranh chấp sẽ thể hiện sự bất

đồng của mình với bên kia bằng hành vi xử sự cụ thê, hành vi đó có thê là Sự phản đối (lời nói hoặc văn bản), bằng yêu cầu đối với bên kia, bang việc khiếu

nại, hoặc yêu cầu chủ thé thứ ba hỗ trợ, can thiệp vào tranh chấp.

Nhằm mục đích hướng tới sự ồn định trong QHLD, mỗi thể chế Nhà

nước lại có sự khác nhau trong quy định của pháp luật về TCLĐ. Tại Vương quốc Anh, Đạo luật Công nghiệp 1919 định nghĩa: “Tranh chấp lao động là bat cứ tranh chấp nào giữa NSDLĐ và NLD, hoặc giữa NLD với nhau — vốn gan với việc tuyển dung hay không được tuyển dụng hoặc diéu khoản tuyển dụng, hoặc diéu kiện lao động”. Luật lao động của Vương quốc Campuchia 1997 không đưa ra định nghĩa chung về TCLĐ mà phân chia TCLĐ thành

TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thể. Theo đó đoạn thứ nhất Điều 300 luật này

quy định: “M6t tranh chấp cá nhân phát sinh giữa NSDLĐ và một hoặc nhiễu NLD hoặc người học nghé liên quan đến việc giải thích và thực thi các diéu khoản của hợp đông lao động hoặc hợp đông thử việc, hoặc các quy định của một thỏa thuận tập thể cũng như những quy định hay luật có hiệu lực”, và

Điều 302 định nghĩa về TCLD tập thé: “M6t vụ TCLD tập thể là bất kì tranh

chấp nào phát sinh giữa một hoặc nhiều NSDLĐ và một số lượng nhân viên nhất định của họ về các diéu kiện làm việc, thực hiện các quyên được công nhận của các tô chức nghệ nghiệp, việc công nhận của các tô chức nghề nghiệp trong doanh nghiệp, va các vấn dé có liên quan đến quan hệ giữa NSDLĐ và NLD, và tranh chấp này có thé gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động <small>của doanh nghiệp hoặc yên bình của xã hoi” [4, tr.10].</small>

Ở Việt Nam, dưới chế độ cũ, Bộ luật lao động của chế độ Việt Nam <small>Cộng hòa được ban hàng ngày 15/7/1952 của vua Bảo Đại đã không sử dụng</small>

<small>cụm từ TCLD mà sử dụng khái niệm “phân tranh lao động”. TCLD được</small>

chính thức ghi nhận lần đầu tiên theo pháp luật Việt Nam là tại Pháp lệnh về hợp đồng lao động (30/8/1990), Điều 27 định nghĩa: “TCLĐ là bat dong nảy

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

đất nước ta mới bước sang giai đoạn phát triền nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa vì thế những QHLĐ chưa phát triển và cịn đơn giản

do đó mà những TCLĐ diễn ra cịn ít và chưa có kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết TCLĐ. Sau này, khi những QHLĐ ngày càng phát triển và những

TCLĐ cũng xảy ra nhiều hơn với tính chất phức tạp hơn, đồng thời nảy sinh

các van dé mới trong QHLD thì Pháp lệnh về hop đồng lao động năm 1990 đã được sửa đổi, bố sung cho phù hợp với yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội đất nước.

Bộ luật lao động (BLLĐ) 1994 ra đời thay thế cho Pháp lệnh về hợp

đồng lao động đưa ra định nghĩa về TCLĐ, Điều 157 quy định: “TCLD la những tranh chấp về quyên và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương và các diéu kiện lao động khác, về việc thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước tập thé và trong quá trình học nghé”. So với định nghĩa tại Pháp lệnh về hợp

đồng lao động 1990 thì định nghĩa này không sử dụng phương pháp khái quát

mà sử dụng phương pháp liệt kê các loại tranh chấp: tranh chấp về việc làm, tiền lương, các điều kiện lao động, tranh chấp về thỏa ước tập thể, tranh chấp

trong quá trình học nghề. Nhưng sử dụng phương pháp liệt kê như định nghĩa

này thì TCLĐ chưa được liệt kê đầy đủ, không bao hàm được hết các tranh chấp được coi là TCLĐ như: tranh chấp về bảo hiểm, tranh chấp về bồi

thường thiệt hại... Dé sửa đôi nội dung nay, BLLĐ sửa đổi, bd sung năm 2006 đã đưa ra một định nghĩa hoàn thiện hơn về TCLĐ: “7CLĐ là những tranh

chấp về quyển và lợi ich phát sinh trong quan hệ lao động giữa NLP và

NSDLĐ”. Đây là định nghĩa có sự thay đổi quan trong, đó là sử dụng phương

pháp khái quát các dấu hiệu về phạm vi đối tượng tranh chấp và dấu hiệu về chủ thé của quan hệ tranh chấp. Thêm vào đó, Luật sửa đơi b6 sung năm 2006 cũng có sự phân loại TCLĐ thành TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thê. Hai loại tranh chấp này có sự khác nhay về quy mơ, mức độ ảnh hưởng và có cơ chế

giải quyết riêng. Theo Điều 157 BLLĐ sửa đổi, bổ sung 2006 thì “TCLD cá

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

TCLĐ xảy ra giữa tập thé lao động với NSDLD”.

<small>BLLĐ 2012 được thông qua ngày 18/6/2012 va có hiệu lực từ ngày</small>

01/5/2013 đã có rất nhiều quy định về QHLĐ được thay đổi. Trong đó, quy định về giải quyết TCLĐ được ban hành trong Chương XIV của Bộ luật.

BLLD 2012 vẫn ghi nhận cách định nghĩa về TCLĐ giống như BLLĐ 1994

(sửa đối bố sung năm 2006; 2007) tuy nhiên đã tách định nghĩa về TCLD tai Điều 3 — Giải thích từ ngữ của bộ luật chứ không quy định chung trong chương Giải quyết tranh chấp lao động như trước kia. Thêm vào đó, BLLĐ 2012 đã có sự thay đổi để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cũng như QHLD tai thời điểm này khi quy định về TCLD. Khoản 7 Điều 3 của Bộ luật quy định: “TCLĐÐ là tranh chấp về quyên, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động”. Sở đĩ có sự thay đơi trong việc quy định phạm vi chủ thể của TCLĐ là do quan hệ cho thuê lại lao động giữa ba bên:

<small>doanh nghiệp cho thuê lại lao động — bên thuê lại lao động — người lao động</small>

thuê lại lần đầu tiên được ghi nhận trong BLLD 2012. Dé đảm bảo các quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của các chủ thể này khi tham gia vào QHLĐ nên khi

định nghĩa về TCLĐ cụm từ “giữa các bên trong QHLĐ” đã được thay thế

<small>cho “giữa NSDLD va NLD”.</small>

Khoản 7 Điều 3 cũng quy định: “TCLD bao gom TCLĐ cá nhân giữa

NLD với NSDLĐ và TCLĐ tập thé giữa tập thể NLD với NSDLĐ”. Hiện nay,

pháp luật lao động quy định cơ chế giải quyết TCLĐ thành hai cơ chế, đó là

cơ chế giải quyết TCLĐ cá nhân và cơ chế giải quyết TCLĐ tập thể, vì thế

việc xác định TCLD thuộc loại nao là rat quan trọng. Dé phan biét TCLD ca nhân và TCLD tập thé không thé chi dua vào dau hiệu chủ thé tham gia tranh

chấp, vì trên thực tế cũng như trong nghiên cứu khoa học, để phân biệt hai loại tranh chấp này cần căn cứ vào những đặc điểm khác như: nội dung tranh chấp, mục đích của các bên trong tranh chấp, và lĩnh vực thường phát sinh

tranh chấp. Thông thường TCLĐ cá nhân thường phát sinh trong q trình

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

tính đơn lẻ, riêng rẽ, khơng có tính tổ chức. Nội dung của TCLĐ cá nhân

thường chỉ liên quan đến quyền và lợi ích của cá nhân trong quan hệ lao động. Trường hợp một nhóm NLĐ cùng tranh chấp với NSDLĐ nhưng họ có

yêu cầu riêng rẽ, khác biệt nhau và chỉ quan tâm đến lợi ích của cá nhân thì cũng được coi là TCLD cá nhân. Vi dụ: Cùng một thời điểm, trong doanh nghiệp có nhiều NLĐ cùng tranh chấp với NSDLĐ về vấn đề trả lương chậm nhưng giữa họ khơng có sự liên kết với nhau và yêu cầu họ đưa ra là vì lợi ích của chính bản thân mình thì tranh chấp này được xác định là TCLĐ cá nhân.

Có thé khái quát TCLĐ cá nhân như sau: TCLĐ cá nhân là tranh chấp về

quyên, lợi ích, nghĩa vụ phát sinh giữa cá nhân NLD với NSDLD, giữa cá

nhân NLĐ hoặc NSDLD với các chủ thể khác trong QHLĐ cũng như trong

các quan hệ liên quan đến QHLĐ.

1.1.2. Dấu hiệu của tranh chấp lao động cá nhân

TCLĐ cá nhân với bản chất là một TCLĐ phản ánh những xung đột,

mâu thuẫn của các bên trong quan hệ lao động về quyên và lợi ích, đồng thời nó cịn phản ánh những xung đột về giá trị tỉnh thần của đời sống xã hội.

Chính vì thế, TCLĐ cá nhân ngồi những đặc điểm của một TCLĐ còn mang

những đặc điểm riêng biệt.

Thứ nhất, về mặt chủ thể.

TCLD cá nhân thường là tranh chấp giữa một NLD cụ thé với bên sử dụng lao động hoặc là một nhóm NLĐ với NSDLĐ. Nhưng cũng cần lưu ý

với hiện tượng vụ tranh chấp lao động chỉ có sự xuất hiện của một NLĐ đại

diện cho tập thé lao động. Khơng phải vì có sự tham gia của một NLD mà vội kết luận rằng đó là tranh chấp lao động cá nhân. Cũng có thê vụ tranh chấp có

nhiều cá nhân NLĐ tham gia. Về mặt số lượng có vẻ như vụ tranh chấp đó là

tranh chap tập thé. Nhưng hồn tồn khơng thé suy luận như vậy. Số lượng

chỉ là một trong các dấu hiệu cơ bản dé phân biệt giữa TCLĐ tập thé và

<small>TCLD cá nhân và nó chỉ có ý nghĩa khi phù hợp với mục dich của người tham</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

gia vụ tranh chấp đó. Chính vì vậy, trong vụ tranh chấp có đơng NLĐ tham

gia mà mỗi người chỉ quan tâm tới quyền lợi của bản thân mình thì đó khơng

thể là tranh chấp lao động tập thẻ. Thứ hai, về mặt nội dung.

Nội dung của TCLĐ cá nhân chỉ liên quan đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ

của một cá nhân NLD và thường nảy sinh trên cơ sở hợp đồng lao động.

<small>TCLĐ cá nhân thường phát sinh trong việc áp dụng các quy định của</small> pháp luật vào từng quan hệ lao động cụ thé, nghĩa là tranh chấp về những van đề mà pháp luật quy định cho các bên được hưởng hay phải thực hiện hoặc những vấn đề mà các bên thỏa thuận từ trước trong hợp đồng lao động như: việc làm, tiền lương, dạy nghé, điều kiện học nghề, thời giờ làm việc,thời giờ

nghỉ ngơi, địa điểm làm việc, thời gian hợp đồng, bảo hiểm xã hội... Do đó, tranh chấp lao động cá nhân thường phát sinh trong trường hợp có sự vi phạm

<small>pháp luật.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Thứ ba, về mặt tinh chat.

TCLD cá nhân khơng có tinh tổ chức, quy mô, phức tap như TCLD tập thê mà bao giờ cũng mang tính chất đơn lẻ cá nhân. NLĐ tham gia tranh chấp

đòi hỏi quyền lợi riêng cho cá nhân mình và giữa những cá nhân NLD thường

khơng có sự liên kết, gắn bó, thống nhất ý chí với nhau. Do vậy, TCLĐ cá

nhân khơng mang tính tổ chức và sự ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - chính

trị - xã hội cũng chỉ ở mức độ nhất định. Song TCLĐ cá nhân có thể là nguyên nhân dẫn tới TCLD tập thé trong trường hợp mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp trở nên căng thắng, ứng xử của các bên có thê tạo ra sự lan truyền

sang tập thé, gây tâm ly bức xúc dẫn đến những phản ứng mang tính tập thê

và từ đó mang châm ngòi cho một vụ TCLĐ tập thể. Một khả năng khác có

thé làm cho vụ việc TCLĐ cá nhân chuyền hóa thành TCLD tập thé đó là khi

quyên, lợi ich của cá nhân NLD có liên quan hoặc đồng thời cũng là quyền, lợi ích của tập thé lao động nhưng mới chi phát sinh tranh chấp giữa cá nhân

NLD và NSDLD. Tuy nhiên, hầu hết các TCLĐ cá nhân chỉ dừng lại ở việc

giải quyết TCLĐ giữa NLD và NSDLD vi vậy mức độ ảnh hưởng tới các <small>quan hệ giữa chủ sử dụng lao động với những người lao động khác cũng như</small>

các quan hệ kinh tế - xã hội không quá nặng nề so với TCLĐ tập thể.

Thứ tư, về sự tham gia của các tô chức đại điện cho các bên trong TCLĐ

<small>cá nhân.</small>

Sự hình thành và tham gia của các tô chức đại diện của các bên là xuất

phát từ nhu cầu khách quan của quan hệ lao động, nhu cầu liên kết với nhau

dé hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau. Trong quan hệ lao động, NLD là bên yếu thé so với NSDLD, do đó pháp luật các nước đều quy định tổ chức cơng đồn được

thành lập dé trở thanh tổ chức đại điện của NSDLD hình thành chủ yếu là dé đáp ứng nhu cầu liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh, với các hình thức tơ chức khác nhau như: hiệp hội, hội ngành, nghè, lĩnh vực hoặc theo địa

bàn lãnh thô. Tuy nhiên, chỉ khi nào NLD liên kết với nhau ở phạm vi rộng,

và tổ chức đại diện cho NLĐ lớn mạnh, thì nhu cầu liên minh của NSDLĐ mới được đặt ra nhằm tạo sự cân băng về lợi thé trong quan hệ với NLD.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Sự tham gia của tô chức đại diện của các bên vào các cơ quan, tô chức

giải quyết TCLĐ không chỉ đơn thuần là bảo đảm để các quyết định giải quyết tranh chấp của các cơ quan, tổ chức có thầm quyền phù hợp với địi hỏi thực tế của quan hệ lao động. Với tư cách là người đại diện của các bên trong

quá trình giải quyết TCLD, tổ chức đại diện chỉ có quyền làm đại diện trong các tranh chấp liên quan đến quyên, lợi ích của tập thể các thành viên thuộc tổ

chức minh; còn trong các tranh chấp giữa cá nhân với nhau, tổ chức đại diện chỉ có quyền tham gia với tư cách là người được ủy quyền. Ngoài tư cách đại diện cho thành viên, tổ chức đại diện có quyền tham gia trong suốt q trình giải quyết tranh chấp dé bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên là thành viên của tổ chức mình.

1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án và sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

<small>1.2.1. Khái niệm</small>

<small>Tòa án là “cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt</small>

Nam” (Hiến pháp 1992), bởi vậy việc Tòa án giải quyết các TCLĐ nói chung, TCLĐ cá nhân nói riêng là hồn tồn phù hợp. Khi giải quyết TCLĐ tại Tịa

án thì Tịa án cũng như người tham gia tố tụng phải tuân theo các thủ tục tố tụng chặt chẽ, do đó khả năng bảo vệ quyền lợi của các bên là rất cao. Các phán quyết của Tòa án được đảm bảo cưỡng chế thi hành băng quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, việc giải quyết TCLĐ tại Tòa án vẫn đảm bảo quyền thương lượng, hòa giải tại phiên tòa của các bên trước khi hội đồng xét xử đưa ra phán quyết. Chính vì những ưu điểm này nên Tịa án trở thành một cơ

quan tài phán quan trọng và các TCLĐ được giải quyết ở Tòa án là hết sức

cần thiết.

Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là những hoạt động được tiễn hành tại Tòa án theo thủ tục t6 tung chặt chẽ nhằm giải quyết các tranh chấp lao động, bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao động, cũng như các chủ thể có liên quan đến tranh chấp lao động.

1.2.2. Đặc điểm

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Thứ nhất, giải quyết TCLD tại Tòa án là phương thức giải quyết TCLD

cuối cùng sau khi các bên tranh chấp đã sử dụng các phương thức giải quyết

<small>khác mà không đạt.</small>

Xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là quan hệ mua bán sức lao

động dựa trên sự tự do thỏa thuận nên khi xảy ra TCLĐ, hai bên tranh chấp có thể gặp nhau để bàn bạc, thương lượng trực tiếp hoặc giải quyết tranh chấp thơng qua hịa giải. Việc các bên tự dàn xếp, thỏa thuận thông qua thương lượng hoặc hòa giải sẽ giúp các bên hiểu nhau hơn, do vậy sẽ làm hạn chế và không phát sinh những mâu thuẫn tiếp theo. Trong trường hợp hai bên không

tự thương lượng hoặc một bên từ chối thương lượng hay khơng tự hịa giải

được, khơng chấp nhận phương án hịa giải thì họ có quyền khởi kiện yêu cầu

TAND giải quyết. Như vậy, phương thức giải quyết TCLĐ tại Tòa án chỉ

được tiến hành sau khi các phương thức giải quyết TCLĐ khác: thương lượng, hòa giải, trọng tài đã được sử dụng nhưng không đạt kết quả.

Thứ hai, giải quyết TCLD tại TAND là phương thức giải quyết TCLD

được thực hiện bởi cơ quan tài phán mang quyền lực Nhà nước đặc biệt.

Tòa án là một cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp, Tòa án

tiến hành xét xử nhân danh Nhà nước và mang quyền lực Nhà nước dé giải

quyết các tranh chấp nói chung và các TCLĐ nói riêng. Việc giải quyết

<small>TCLD tại Tịa án phải tn theo các trình tự, thủ tục chặt chẽ. Mặc dù thủ tục</small> giải quyết TCLĐ thơng qua hịa giải hay trọng tài cũng bao gồm những trình tự nhất định nhưng thủ tục giải quyết TCLĐ tại TAND phức tạp và chặt chẽ

hơn. Ở từng giai đoạn giải quyết vụ án tại Tòa án, mọi trình tự đều được quy định cụ thể và chặt chẽ. Tuy những quy định của pháp luật làm giảm tính linh hoạt và quyền tự quyết định của các bên trong việc giải quyết tranh chấp nhưng nó đóng vai trị quan trọng đảm bảo cho Tịa án ra những phán quyết đúng pháp luật, công bằng. Các cán bộ tư pháp tại Tòa án là những người có phẩm chat đạo đức tốt, có trình độ chun mơn nghiệp vụ, có kinh nghiệp xét

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

xử và độc lập với các bên tranh chấp, do vậy, việc giải quyết TCLĐ tại Tịa án <small>hồn tồn mang tính khách quan.</small>

Thứ ba, các phán quyết của Tịa án trong q trình giải quyết tranh chap

được đảm bảo thi hành băng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.

Các bản án, quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết TCLĐ khi có hiệu lực pháp luật đều được đảm bảo thi hành bằng sức mạng cưỡng chế <small>của Nhà nước bởi Tòa án là cơ quan Nhà nước có chức năng xét xử. Việc thi</small> hành bản án, quyết định của Tòa án do các cơ quan thi hành án thực hiện. Quyền lợi, nghĩa vụ của các bên sau khi tranh chấp được giải quyết sẽ được

đảm bảo thực hiện một cách triệt đẻ.

So với phương thức hịa giải hoặc giải quyết TCLĐ thơng qua trọng tài

thì đây là một trong những đặc điểm thê hiện rõ ưu thế của phương thức giải quyết TCLD tại Tịa án. Bởi lẽ, kết qua của q trình hịa giải TCLĐ hoặc giải

quyết TCLĐ thơng qua trọng tài là biên bản hòa giải thành hoặc quyết định của cơ quan trọng tài về việc giải quyết TCLĐ không có tính chất bắt buộc thi hành như phán quyết của Tịa án. Điều này được hiểu là khơng có một biện pháp cụ thể nào được Nhà nước áp dụng dé buộc các bên phải thực hiện biên

bản hòa giải thành hoặc quyết định của cơ quan trọng tài, mà hoàn toàn phụ

thuộc vào sự tự nguyện của cac bên. Điều này dẫn đến các quyên lợi và nghĩa vụ của các bên trong tranh chấp không được giải quyết triệt dé.

1.2.3. Sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa

Một là, việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại TAND góp phần giải quyết dứt

điểm TCLD, từ đó góp phần 6n định quan hệ lao động, bảo vệ quyền và lợi

ich hợp pháp của các bên tranh chấp, 6n định sản xuất kinh doanh tại doanh <small>nghiệp.</small>

<small>Một trong những nguyên nhân phat sinh TCLD là do cách xử sự không</small>

đúng của các chủ thé trong QHLD. Điều này có thé do nhận thức và hiểu biết pháp luật của các chủ thể còn hạn chế hoặc tâm lý xem thường pháp luật mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>họ có những địi hỏi u sách khơng chính đáng xâm phạm lợi ích của nhau</small> dẫn đến tranh chấp. Xét xử là phương thức đặc biệt do Tòa án tiến hành theo

những nguyên tắc tố tụng được quy định trong các văn bản pháp luật. Kết quả của việc giải quyết TCLĐ tại Tòa án là các bản án, quyết định được tun

trong đó lợi ích hợp pháp của các bên được thi hành một cách triệt dé nhất.

Những mâu thuẫn trong quan hệ lao động được giải quyết dứt điểm, kịp thời,

đảm bảo sự hài hòa về lợi ích giữa các bên sẽ là động lực thúc đây sự phát triển của QHLD trong xã hội.

Hai là, việc giải quyết TCLĐ tại TAND do những cán bộ chun mơn <small>được dao tạo va có kinh nghiệm, do đó dam bảo tính khách quan, chính xác,đúng pháp luật.</small>

Việc giải quyết TCLĐ tại TAND do những người có trình độ chun mơn nghiệp vụ, am hiểu pháp luật và có kinh nghiệm xét xử thực hiện. Đây là

những người hoàn toàn độc lập với các bên tranh chấp và độc lập với vụ tranh

chấp. Dựa trên các quy định của pháp luật và những thỏa thuận của các bên

<small>phù hợp với quy định của pháp luật, những cán bộ tư pháp giúp Tòa án ra</small> những phán quyết khách quan, chính xác, đúng pháp luật đem lại sự công bằng cho các bên. Tuy rằng hệ thống nhiều cấp xét xử có hạn chế là làm cho thời gian giải quyết vụ TCLĐ kéo dài nhưng nó là một trong những đảm bảo

lớn nhất cho tinh chính xác, đúng pháp luật những phán quyết của Tòa án. Ba là, việc giải quyết TCLĐ tại Tịa án góp phần tun truyền và giải <small>thích pháp luật.</small>

Các phiên tịa thường được xét xử cơng khai, việc giải thích để đi đến

việc áp dụng các trách nhiệm của các bên tranh chấp có tác dụng giúp các bên

hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời giúp các chủ thể có ý thức hơn trong việc thực hiện pháp luật, từ đó góp phần hạn chế những TCLĐ

<small>xảy ra trong tương lai.</small>

1.3. Điều chỉnh pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Việc xét xử bang tòa án là biện pháp cuối cùng các bên tranh chấp lựa chọn dé giải quyết TCLD. Bởi vậy, quyết định của Tòa án thường là quyết định cuối cùng. Mơ hình tơ chức, nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp

lao động tại Tịa án khơng hồn tồn giống nhau ở các nước trên thế giới. Tuy

nhiên các nội dung cơ bản đều được các nước thừa nhận chung bao gồm: các quy định về mơ hình, cơ cấu, t6 chức Tịa án quốc gia; các nguyên tắc hoạt động của tòa án; các quy định về thấm quyền của Tòa án; các quy định về Thâm phán, Hội thẩm; các quy định về tố tụng Tòa án.

Sự khác biệt lớn nhất trong việc pháp luật điều chỉnh về giải quyết

TCLD cá nhân tại Toa án giữa các quốc gia có lẽ là hình thức tổ chức của Tịa

án cũng như pháp luật tố tụng điều chỉnh thủ tục tiến hành giải quyết tranh

Về hình thức tổ chức của Tịa án có hai xu hướng trong quy định của pháp luật các quốc gia: Thứ nhất, các quốc gia thành lập Tòa Lao động hoạt động riêng biệt và độc lập với các Tòa dân sự, đồng thời Tòa Lao động tiễn hành xét xử theo một thủ tục tố tụng lao động riêng được quy định trong Luật Tòa án Lao động; Thứ hai, các quốc gia thành lập Tòa Lao động nam trong hệ

thống Tòa dân sự chung, và hoạt động xét xử theo những quy tắc tố tụng

trong Bộ luật Tố tụng dân sự.

e - Thứ nhất, các quốc gia thành lập Tòa Lao động hoạt động riêng biệt và độc lập với các Tòa dân sự, đồng thời Tòa Lao động tiễn hành

xét xử theo một thủ tục tố tụng lao động riêng được quy định trong

<small>Luật Tòa án Lao động</small>

Tiêu biểu cho hình thức tổ chức Tịa án lao động độc lập là pháp luật lao động Đức. Ở Đức, từ năm 1926, một đạo luật được Nghị viện Đức thơng qua làm cơ sở cho các “tịa án lao động”. Các HĐXX có cơ cầu với một đại diện

<small>của NSDLĐ, một đại diện của NLD và một chủ tọa trung lập là một luật sư.</small> Đại diện của các bên do các hiệp hội giới chủ và cơng đồn đề cử và do Bộ trưởng Bộ Lao động cử cho nhiệm kì 04 năm. Các tịa lao động ton tại ở cấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

địa phương. Ở cấp vùng có các tịa phúc thâm lao động, ở cấp Liên bang có Tịa án Lao động Liên bang - nơi chỉ quyết định về các trường hợp phúc thâm dựa trên các sai sót. Các tịa án lao động ở 3 cấp độc lập so với các tịa án

<small>thơng thường [8, tr.47].</small>

Việc có một hệ thống tài phán lao động riêng được coi là hữu ích bởi các tịa sẽ có khả năng đạt được được thỏa hiệp giữa các bên trong đa số các trường hợp, và do hai bên đều có đại diện trong HDXX nên các phán quyết dễ được bên thua kiện chấp nhận hơn. Thêm vào đó, các thâm phán có kiến thức chuyên sâu về pháp luật lao động và kinh nghiệm đặc biệt trong quan hệ lao động. Các hội thâm có cơ hội đóng góp những kinh nghiệm liên hệ thực tiễn và kiến thức cơ bản về pháp luật lao động vào việc tranh tụng tại tòa. Thủ tục tố tụng được xây dựng riêng cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ

<small>quan hệ lao động, nên sẽ phù hợp với những đặc trưng của quan hệ lao động</small>

và đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhanh chóng, kịp thời của các tranh chấp <small>lao động.</small>

e Thứ hai, các quốc gia thành lập Tòa Lao động nằm trong hệ thống Tòa dân sự chung, và hoạt động xét xử theo những quy tắc tố

tụng trong Bộ luật Tó tụng dân sự.

Tịa án Lao động được thành lập theo hình thức này tương đối phố biến

trên thế giới. Các quốc gia quy định Tòa án Lao động nằm trong hệ thống Tòa dân sự hoặc Tòa tư pháp có thé ké đến như Thái Lan, Việt Nam, Nhật Ban...

Vi dụ, tại Thái Lan, hệ thống Tòa án Thái Lan bao gồm: Tòa Hiến pháp, Tòa Tư pháp, Tịa Hành chính và Tịa Qn đội (Hiến pháp 1997). Tòa Lao động thuộc hệ thống Tòa Tư pháp. Tòa Tư pháp gồm hai bộ phận: Hành chính và xét xử. Về thâm quyền xét xử, Toa Tư pháp có thâm quyền thụ lý và xét xử các vụ án hình sự, dân sự, phá sản và các vụ án khơng thuộc thâm quyền xét xử của các Tịa khác. Nếu có sự xung đột về thẩm quyền thụ ly và xét xử giữa

các Tịa án thì Uy ban Tư pháp — đứng đầu là Chánh án Tòa án Tối cao có

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

thâm quyền quyết định theo quy định của Hiến pháp. Quyết định nay là chung

Các Tòa Tư pháp được phân thành ba cấp: Tòa sơ thâm, Tòa Phúc thâm và Tòa Tối cao. Tòa sơ thâm gồm Tòa xét xử chung và Tòa chuyên biệt. Hiện nay ở

<small>Thái Làn có năm Tịa chun biệt: Tịa Gia đình và VỊ thành niên, Tịa Lao động,</small> Tịa Thuế, Tịa Sở hữu trí tuệ và Thương mại quốc tế, Tòa Phá sản. Việc thành lập Tòa chuyên biệt nhằm đảm bảo các vụ kiện thuộc từng lĩnh vực được giải quyết bởi các thâm phán phù hợp. Thâm phán tại Tịa chun biệt phải là người có kiến thức <small>chuyên môn phù hợp với lĩnh vực xét xử của Tịa đó.</small>

Thanh phan xét xử của Tịa Lao động bao gồm một thâm phán chuyên nghiệp

và bồi thâm viên được lựa chọn trong số những NSDLD va NLD. Số lượng thâm

phán và bơi thâm viên tại một Tịa Lao động do Văn phòng tư pháp quyết định. Đặc biệt số lượng bồi thâm viên đại diện cho NLD và bồi thâm viên đại diện cho

NSDLD phải ngang nhau. Thực tế, hiệp hội giới chủ và cơng đồn sẽ đệ trình danh <small>sách những ứng viên là thành viên đại diện cho hai giới trên đủ khả năng tham gia</small> Tòa Lao động dé lựa chọn và bé nhiệm.

Về các bước tiễn hành giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án có sự tương đồng tương đối lớn trong pháp luật lao động của các quốc gia. Ban dau, các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án nhân dân dưới hình thức văn bản hoặc trình bày miệng tại

trụ sở Tòa án, hoặc một số trường hợp xét xử tại tòa án chịu sự tác động của cơ

quan nhà nước. Theo Đạo luật quan hệ lao động của Singapore, nếu như tranh chấp lao động có ảnh hưởng quan trọng đến lợi ích cộng đồng, Bộ trưởng Bộ Nhân lực sẽ sử dụng quyền hạn của minh dé quyết định tranh chấp đó sẽ phải trực tiếp xét xử

tại Tịa án [5, tr.25]. Các bên cũng có thé lựa chọn Tòa án nơi làm việc của NLD dé khởi kiện hoặc ngun đơn có thê khởi kiện tại Tịa án nơi mình cư trú hoặc nơi cư

trú của bị đơn nếu họ chứng minh được với Tòa án điều đó thực sự là thuận lợi đối với họ (Điều 3 Luật tổ chức và hoạt động của Tòa án lao động Thái Lan; Điều 35; Điều 36 Bộ luật Tổ tụng dân sự Việt Nam 2004).

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Nếu vụ việc đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án, Chánh án Tịa án sẽ phân cơng Tham phan thụ lý vụ việc. Tham phán phụ trách sẽ định ngày dé xét xử

<small>và thông báo cho nguyên đơn, bị đơn.</small>

Trước khi tiến hành xét xử, Tịa án có trách nhiệm hịa giải dé các bên có thể

thỏa thuận về vụ việc. Nguyên đơn, bị đơn hoặc luật sư hoặc người đại diện bắt buộc phải có mặt tại phiên hòa giải theo giấy triệu tập. Phiên hòa giải bắt buộc này được tô chức dé hai bên thỏa thuận toàn bộ van đề về tranh chấp, theo tinh than tự do đánh giá mọi khía cạnh của vấn đề. Tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia quy định mà phiên hòa giải được tiến hành một hoặc hai lần: pháp luật Thái Lan,

pháp luật Đức không quy định về số lần tổ chức hòa giải, pháp luật Philippines quy

định bắt buộc phải được tô chức hai lần [2, tr. 16-18-19]. Nếu sau q trình hịa giải hai bên không thỏa thuận được với nhau về giải pháp của vụ tranh chấp hoặc một

trong hai bên văng mặt thì Tịa án sẽ đưa vụ tranh chấp ra xét xử chính thức.

Tịa án dựa trên các chứng cứ mà các bên cung cấp và những chứng cứ, nhân chứng do Tòa án tự thu thập để đưa ra phán quyết giải quyết tranh chấp. Tòa án phải tiến hành tố tụng một cách nhanh chóng, trong thời hạn nhất định. Pháp luật Thái Lan quy định Tòa án khơng được trì hỗn việc tiến hành tố tụng, trong trường

hợp cần thiết thời gian kéo dài không quá 7 ngày; trong khi pháp luật Singapore quy

định Tòa trọng tài phải ban hành một phán quyết trong thời hạn 3 tuần kể từ khi việc xét xử các tranh chap và các vấn đề liên quan được hoàn tat (trừ khi tong thong có quy định khác) [5,tr.34]. Các thủ tục cụ thé trong quá trình tố tụng được pháp luật các nước quy định riêng biệt, phù hợp với điều kiện pháp luật của từng quốc <small>gia.</small>

Trong trường hợp không đồng ý với ban án hoặc quyết định của Tịa án, các

bên có quyền kháng cáo quyết định của Tòa lên Tòa án Tối cao (theo pháp luật Thái Lan), hoặc Ủy ban quan hệ lao động quốc gia (theo pháp luật Philippines), hoặc Tòa cấp trên trực tiếp của Tòa sơ thẩm (theo pháp luật Việt Nam).

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

CHUONG II: GIẢI QUYẾT TRANH CHAP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN

HÀNH Ở VIỆT NAM

2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

Khi xét xử vụ TCLD tại TAND theo thủ tục tố tụng dân sự thì phải tuân

thủ các nguyên tắc giải quyết TCLĐ quy định trong BLLĐ cũng như các nguyên tắc cơ bản trong t6 tung dan su, cu thé:

2.1.1. Nguyên tac giải quyết TCLĐ một cách kịp thời, nhanh chóng và

<small>có sự tham gia của đại diện cơng đồn và đại diện của NSDLD</small>

Nguyên tắc này xuất phát từ đặc thù của quan hệ lao động với sự tham gia của hai bên có lợi ích đối lập nhau. Do quan hệ lao động có đặc thù ảnh hưởng lớn tới đời sống của người lao động, sản xuất và toàn xã hội nên địi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp lao động. Để làm được điều đó địi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải khách quan, công khai va đúng pháp luật. Đại diện của các bên thường là những người am hiểu pháp luật, hiểu điều kiện của các bên vì vậy có thé giúp co quan có thẩm quyền

đánh giá về tranh chấp chính xác hơn, từ đó đưa ra được các phương án giải

quyết phù hợp.

Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 194 BLLĐ và là nguyên tắc giải

quyết TCLĐ nói chung cần được đảm bảo ở mọi giai đoạn, mọi q trình giải quyết TCLĐ.

2.1.2. Ngun tắc tơn trọng quyết định và tự định đoạt của các bên

Nguyên tắc tôn trọng quyết định và tự định đoạt của các bên được ghi nhận tại Điều 194 BLD và Điều 5 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011,

nội dung của ngun tắc này là: tồn bộ quy trình tố tụng đều bắt nguồn từ việc khởi kiện của các bên; đối tượng và phạm vi khởi kiện do các bên quyết định, Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp trong phạm vi đơn kiện; các bên có

quyên rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện, có quyền tự hòa giải với nhau.Việc ghi nhận nguyên tắc này là hoàn toàn phù hợp với quan hệ lao

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

động trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện

nay. Khi các bên có quyền lợi hợp pháp bị xâm hại hay tranh chấp, họ có

quyền quyết định khởi kiện hay không khởi kiện. Khi một trong hai bên đã khởi kiện, các hành vi tố tụng tiếp theo cũng do các bên tự quyết định như

đưa ra yêu cầu, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu, tự hòa giải, kháng cáo... Tuy

nhiên, mọi hành vi tự định đoạt của các bên nằm trong quy định của pháp luật

<small>và thực sự là ý chí tự nguyên của họ.</small>

2.1.3. Nguyên tắc thương lượng, hòa giải, trọng tài

Việc giải quyết tranh chấp lao động phải chú trọng và đưa lên hàng đầu

các phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài trên cơ sở tơn trọng quyền

và lợi ích của hai bên tranh chấp, tơn trọng lợi ích chung của xã hội, khơng

trái pháp luật. Trong trường hợp thông qua các phương thức đó mà tranh chấp

giữa các bên khơng thé giải quyết được hoặc các bên không đồng ý với kết quả giải quyết thì có quyền sử dụng phương thức tiếp theo, đó là kiện ra tịa

án hoặc tiến hành đình cơng (đối với tập thé lao động).

Ngun tắc hịa giải trong t6 tụng dân sự được ghi nhận ở Điều 10 BLTTDS. Theo đó Tịa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự nhằm đảm bảo tích cực và chủ động

của Tịa án trong hịa giải, góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ lao động, nâng cao năng lực hiểu biết pháp luật của các chủ thé giúp họ nhanh chóng giải quyết TCLD mà không nhất thiết phải thành

lập phiên tòa. Nội dung của nguyên tắc: trước khi mở phiên tòa xét xử TCLĐ, hòa giải là thủ tục bắt buộc mà Tịa án phải thực hiện. Bắt kì thời điểm nào

trong các giai đoạn tiếp theo của quá trình giải quyết TCLĐ tại Tịa án, nếu có

kha năng hịa giải thành thi Tòa án phải tiễn hành hòa giải. Sự thỏa thuận của các đương sự nếu hòa giải thành được Tịa án cơng nhận bằng quyết định <small>cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

2.1.4. Nguyên tac cung cấp chứng cứ va nghĩa vu chứng minh

Khi đương sự đã có quyền quyết định và tự định đoạt trong việc khởi kiện để yêu cầu tịa án bảo vệ qun, lợi ích hợp pháp của minh thì đương

nhiên họ cũng phải có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu

của mình là có căn cứ, trừ một số trường hợp do pháp luật quy định thì Tịa án

thu thập chứng cứ dé chứng minh. Nguyên tắc này một mặt dam bảo sự phù

hợp với nguyên tắc tôn trọng quyết định và tự định đoạt của đương sự, mặt khác phòng tránh được sự làm dụng quyền lực, xét xử không đúng khơng khách quan của Tịa án, bởi nếu cho phép Tịa án được tự mình thu thập chứng cứ trong mọi trường hợp sẽ tạo ra cơ chế khép kín trong giải quyết tranh chấp của Tòa từ khâu thu thập chứng cứ đến khâu xét xử.

2.1.5. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia

Nguyên tắc này xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước theo quan điểm, công tác quản lý và điều hành xã hội không phải là việc <small>riêng của những cán bộ quản lý chuyên nghiệp mà là sự nghiệp của nhân dân,</small> cần đảm bảo sự tham gia của quần chúng nhân dân trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, trong đó có cơng tác xét xử tại Tịa án.

2.1.6. Ngun tắc Tịa án xét xử tập thể

Nguyên tắc này góp phan quan trọng đảm bảo cho việc xét xử tập thé

góp phần quan trọng đảm bảo cho việc xét xử của tòa án được thực hiện đúng

pháp luật công bằng, khách quan. Nội dung của nguyên tắc được ghi nhận tại

Điều 14 BLTTDS, và được thể hiện ở việc xét xử của TANDở tất cả các cấp

từ sơ thầm, phúc thâm, giám đốc thâm, tái thâm đều phải do một tập thé tiễn

hành băng cách biéu quyết theo da só.

2.1.7. Nguyên tắc khi xét xử Tham phán, Hội thẩm nhân dân độc lập <small>và chỉ tuân theo pháp luật</small>

Khi xét xử Tham phán và Hội thâm nhân dân có nghĩa vụ thực hiện đúng

pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Các phán quyết của Tòa phải đúng <small>pháp luật, phù hợp với sự thật khách quan và có căn cứ. Khi xét xử, các thành</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

viên trong Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc đánh giá chứng cứ,

phân tích và lựa chọn các quy phạm pháp luật dé áp dụng. Một bản án có thé

bị xét xử nhiều lần, vì vậy giữa Tịa án các cấp cũng độc lập với nhau khi xét xử theo thủ tục sơ thấm, phúc thấm, giám đốc thâm, tái thâm. Trong mỗi

phiên xét xử, các thành viên của Hội đồng xét xử đều độc lập với nhau không bị chỉ đạo bởi Tòa án cấp trên. Tòa án cấp trên có quyền xét xử lại vụ án lao động theo trình tự phúc thâm, giám đốc thâm, hay tái thâm, có quyền hủy bản án và giao cho Tịa án cấp dưới xét xử lại nhưng khơng có quyền can thiệp <small>vào quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ hoặc chỉ đạo phương án xét xử.</small>

2.1.8. Nguyên tắc xét xử trực tiếp, liên tục và bằng lời nói:

Tịa án cấp sơ thâm phải thu thập các chứng cứ của vụ án một cách trực

tiếp bang lời nói từ các nguồn chứng cứ như: Nghe lời trình bày của nguyên

đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan... Tòa án chỉ sử dụng những chứng cứ được thâm vẫn và xem xét tại phiên Tòa để làm căn cứ cho phán

quyết của mình. Tịa án phải tiến hành thâm van, giải thích, cơng bố các

phán quyết của mình bằng lời nói. Những người tham gia tố tụng phải trình bày lời khai và ý kiến của mình bằng lời nói. Nguyên tắc xét xử trực tiếp,

liên tục và bằng lời nói có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ giải

quyết các TCLĐ tại Tòa án. Việc xét xử trực tiếp, liên tục và bằng lời nói tạo điều kiện để các bên bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình

<small>một cách hiệu quả.</small>

2.1.9. Ngun tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật:

Ngun tắc mọi cơng dân đều bình đăng trước pháp luật được ghi nhận

tại Điều 8 BLTTTDS với những nội dung cụ thể sau: Mọi cơng dân đều bình

đăng trước pháp luật trước Tịa án khơng phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, t6 chức đều bình đẳng khơng phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những van đề khác. Các đương sự đều bình dang về quyền và

nghĩa vụ trong tơ tụng dân sự, Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện đề họ thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Việc tn thủ ngun tắc mọi cơng dân

đều bình đăng trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ pháp

chế xã hội chủ nghĩa bảo vệ quyên lợi ích hợp pháp của công dân.

2.1.10. Nguyên tắc mọi công dân đều có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tịa án:

Ngun tắc mọi cơng dân đều có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tịa án được ghi nhận tại Điều 20 BLTTDS, nội dung của nguyên tắc bao gồm những vấn đề sau: Tiếng nói chữ viết dùng trong quá trình giải quyết TCLĐ tại Tịa án là Tiếng Việt. Trong tất cả các giai đoạn của

quá trình giải quyết TCLĐ tại Tòa án, Tòa án phải cử người phiên dịch cho

những thành viên của cơ quan tiễn hành tố tụng, người tham gia tố tụng thuộc các dân tộc khác theo yêu cầu của họ không phụ thuộc vào trình độ Tiếng

Việt của họ. Hình thức phiên dịch bao gồm: Phiên dịch trực tiếp băng lời nói

và phiên dịch bằng văn bản tất cả các tài liệu, giấy tờ liên quan mà theo quy định của Tòa án phải trao cho những người tham gia tố tụng. Người phiên dịch phải là người thông thạo về ngoại ngữ, không liên quan đến vụ TCLĐ và trung thực. Nguyên tắc mọi cơng dân đều có quyền dùng tiếng nói, chữ viết

của dân tộc mình trước Tịa án thé hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà

nước, bảo đảm sự bình đăng, đồn kết và tương trợ giữa các dân tộc. Ngồi

ra, ngun tắc này cịn đảm bảo việc xét xử tạo Tịa án thuận lợi, đúng pháp <small>luật, chính xác.</small>

2.1.11. Nguyên tắc đảm bảo quyền tranh luận trong to tụng dân sự Nguyên tắc đảm bảo quyên tranh luận trong tố tung dân sự mới được bố sung trong BLTTDS sửa đôi, bô sung và được ghi nhận tại Điều 23a

BLTTDS. Nội dung của nguyên tắc là: Trong quá trình giải quyết vụ án dân

sự, Tịa án bảo đảm dé các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận dé bảo vệ quyền và lợi ich hợp <small>pháp của đương sự.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

2.2. Tham quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp lao <small>động cá nhân</small>

Tòa án là cơ quan Nhà nước được Quốc hội giao trực tiếp thực hiện quyên tư pháp, có chức năng xét xử các vụ án dé bảo vệ pháp luật và đảm bao công bằng xã hội. Khác với cơ quan Nhà nước khác, xét xử là chức năng đặc

thù của Tịa án và chỉ có Tịa án mới có quyền xét xử các vụ án. Điều đó được

thể hiện theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp 1992: "Tòa án nhân dân tối <small>cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khácdo luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa</small>

Việt Nam". Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xác lập các cơ chế khác

nhau nhằm xét xử và giải quyết các vi phạm pháp luật, các tranh chấp nói

chung và TCLĐ nói riêng. Cụ thé tại Điều 1 Luật Tổ chức TAND cũng quy

<small>dinh:" ...Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân va gia đình, lao</small> động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của

<small>pháp luật".</small>

BLLD 2012 quy định trong các Điều 200, 203, ... về thâm quyền giải quyết các TCLĐ tại TAND. Thâm quyền của Tòa án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khơng xem xét giải quyết các vụ việc đó theo quy định của pháp luật. Chúng ta thấy rằng, việc xác định

thâm quyền giữa các Tòa án một cách hợp lý, khoa học tránh được sự chồng <small>chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa Tòa án với các cơ quan Nhà nước,</small>

giữa các Tịa án với nhau, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho Tòa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ tranh chấp, nâng cao được hiệu quả của việc giải quyết chanh chấp, tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tốt tung bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước Tịa án, giảm bớt những phiền phức cho đương sự. Để việc giải quyết TCLĐ được thực hiện đúng pháp luật và đảm bảo hiệu quả, một trong những yêu cầu đặt ra là tranh chấp phải được Tòa án đúng thâm quyền giải quyết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

2.2.1. Tham quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án

<small>theo vụ việc</small>

TCLD được xét xử tại Tòa án phải thỏa mãn các điều kiện sau: là TCLD <small>cá nhân giữa NLD với NSDLĐ mà hòa giải viên lao động của cơ quan quan</small>

lý Nhà nước về lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hồ giải

<small>khơng thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong</small>

biên bản hòa giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật này mà hồ giải viên lao động khơng tiến hành hồ giải thì mỗi bên tranh chấp có quyền u cầu Tồ án giải quyết; trừ các tranh chấp sau đây không

nhất thiết phải qua hòa giải tại cơ sở: về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức

sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ; Về

bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; Giữa người

giúp việc gia đình với người sử dụng lao động; Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp

luật về bảo hiểm y tế; Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh

<small>nghiệp, đơn vi sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo</small> hợp đồng.

Nếu như ở BLTTDS 2004 quy định về tranh chấp cá nhân bồi thường

thiệt hại chỉ giữa NLĐ với doanh nghiệp xuất khâu lao động, thì quy định tại

BLTTDS 2011 quy định rộng hơn những tranh chấp cá nhân liên quan đến bồi thường thiệt hại giữa NLD với doanh nghiệp, tô chức sự nghiệp đưa NLD

đi làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng thì khơng nhất thiết phải qua hòa giải tại cơ sở. Theo đó, quy định về các TCLĐ cá nhân được giải quyết tại TAND

khơng nhất thiết phải qua hịa giải tại cơ sở đã nhất quán với quy định của BLLĐ (Điều 201 khoản 1). Quy định này nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của

bên chủ thể đang bị xâm phạm nghiêm trọng hoặc nhằm sớm giải quyết dứt

điểm các tranh chap mà khơng nhằm tiếp tục duy trì quan hệ lao động.

Như vậy, điểm đặc biệt của các TCLĐ cá nhân thuộc thâm quyền chung của Tòa án là nhìn chung chúng được giải quyết theo thủ tục tiền tố tụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

nhưng khơng có kết quả thì mới được Tịa án thụ lý giải quyết theo quy định

của BLTTDS (trừ một số tranh chấp cá nhân nêu trên). Những quy định này

phù hợp với bản chất của quan hệ lao động và mục đích của việc giải quyết TCLĐ, đồng thời cũng nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho Tòa án.

2.2.2. Thẩm quyên giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án theo cấp Tòa

Những TCLĐ quy định tại Điều 31 BLTTDS sửa đổi, bố sung thuộc thâm quyền chung của TAND. Tùy thuộc vào tính chất phức tạp của vụ tranh chấp cũng như năng lực xét xử của các cấp Tòa án mà pháp luật quy định của

TCLĐ thuộc thâm quyền giải quyết của Tòa án cấp nào.

Theo Điều 33 BLTTDS sửa đổi, bố sung TAND huyện, quận, thị xã,

thành phó thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là TAND cấp huyện) có thâm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thâm những tranh chấp về lao động quy định tại

Khoản 1 Điều 31 của BLTTDS (các TCLĐ cá nhân) trừ những tranh chấp mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngồi hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ <small>quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngồi, choTịa án nước ngồi.</small>

Theo quy định tại Điều 34 BLTTDS, TAND cấp tỉnh có thâm quyền giải

quyết theo trình tự sơ thâm các TCLĐ tập thé quy định tại khoản 2 Điều 31

BLTTDS và các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy đỉnh; những tranh chấp mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy

<small>thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam</small> ở nước ngồi, cho Tịa án nước ngồi. Ngồi ra, TAND cấp tỉnh có quyền lay lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những TCLĐ thuộc thâm quyền giải quyết của TAND cấp huyện để giải quyết trong những trường hợp việc vận dụng pháp luật, chính sách có nhiều khó khăn, phức tạp; việc điều tra thu

<small>nhập chứng cứ khó khăn hoặc phải giám định kỹ thuật phức tạp...</small>

Thâm quyền giải quyết các TCLĐ của TAND tối cao thuộc về Tòa lao

động, Tòa phúc thâm và hội đồng Thâm phán TAND tối cao. Tịa lao động

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

TAND tối cao có thâm quyền đốc thâm, tái thâm những vụ án mà bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh bị kháng nghị theo

trình tự tố tụng. Tịa phúc thâm TAND tối cao có thêm quyền phúc thâm đối

với những vụ án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị. Hội đồng Thâm phán TAND tối cao có

thâm quyền giám đốc thâm, tái thâm đối với nhưng vụ án mà bản án, quyết

định của các Tòa thuộc TAND tối cao bị kháng cáo theo trình tự tố tụng. 2.2.3. Tham quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Tòa án theo lãnh thổ

Việc phân định quyền Tòa án theo lãnh thổ là sự phân định thâm quyền

sơ thâm vụ án lao động giữa các tòa án cùng cấp với nhau. Theo điều 35 BLTTDS sửa đổi, bố sung thâm quyền giải quyết vu án dân sự của Tịa án

theo lãnh thơ được xác định như sau;

- Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thâm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thấm những tranh chấp về lao động quy định tại Điều 31 của BLTTDS (bao gồm cả TCLĐ cá nhân và TCLD tập thê).

- Các đương sự có quyên tự thỏa thuận với nhau băng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên don là cá nhân hoặc nơi cớ trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên don là cơ quan, t6 chức giải quyết

những tranh chấp về lao động. Do quan hệ lao động được thiếp lập trên cơ sở

bình đăng tự do thỏa thuận cho nên trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này nói chung và việc phân định thẩm quyền nói riêng cũng phải đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp.

Xác định thầm quyền của Tòa án theo lãnh thé nhằm mục đích bảo đảm

khơng có sự chồng chéo giữa các Tịa án và nâng cao tính hiệu quả trong việc giải quyết, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự trong việc tham gia tố tụng nhăm giải quyết vụ việc một các nhanh chóng và kịp thời.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

2.2.4. Tham quyén giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Toa án

<small>theo sự lựa chọn của nguyên đơn</small>

Điều 36 BLTTDS sửa đổi, bổ sung quy định quyền của nguyên đơn, người yêu cầu có thể lựa chọn Tịa án giải quyết TCLĐ trong một số trường hợp nhất định: Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì ngun đơn có thể u cầu Tịa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết. Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tơ chức thì ngun đơn có thé u cầu Tịa án nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết. Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại , trợ cấp khi cham dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối voi NLD thi nguyên đơn là NLD có thé u cầu Tịa án nơi mình cư trú, làm việc giải

quyết. Nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu

hoặc người có vai trị trung gian thì ngun đơn có thé u cầu Tịa án nơi

NSDLĐ là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ dở hoặc nơi người cai thầu,

người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết. Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì ngun đơn có thể u cầu Tịa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết. Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì ngun đơn có thé u cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc có trụ sở giải quyết.

Quy định trên nhằm đảm bảo quyên lợi hợp pháp cho nguyên đơn, người

yêu cầu trong trường hợp việc xác định thâm quyền theo lãnh thổ có khó khăn, khơng rõ ràng hoặc các trường hợp nếu để Tịa án có thâm quyền theo

lãnh thổ giải quyết sẽ không thuận lợi cho nguyên đơn, người yêu cầu.

2.2.5. Chuyển vụ việc cho Tòa án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền.

Theo quy định tại Điều 37 BLTTDS sửa đổi, b6 sung thì khi xét thấy vụ án lao động đã được thụ ly không thuộc thâm quyền giải quyết của mình mà

thuộc thâm quyên giảiq uyết của TAND địa phương khác cùng cấp hoặc khác

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

cấp, thì Tịa án đã thụ lý vụ án lao động ra quyết định chuyên hồ sơ vụ án lao động cho Tịa án có thâm quyên và xóa số thụ lý. Quyết định chuyển hồ sơ vụ

án lao động do Thâm phán được phân công giải quyết vụ án lao động ký tên

và đóng dấu của tòa án. Quyết định này phải được gửi ngay cho Việc kiểm sát cùng cấp, đương sự, cá nhân, cơ quan, tơ chức có liên quan. Tịa án có thâm quyên sau khi nhận được quyết định chuyên vụ án lao động và hồ sơ vụ án lao động phải vào số thụ lý và tiếp tục giải quyết vụ việc đó theo quy định chung. Quy định mới này bé sung thêm thâm quyền của Việc kiểm sát, quyết định chuyên hồ sơ vụ án lao động phải được gủi cho Viên kiểm sát cùng cấp để

Viên kiểm sát kiểm sát tính đúng đắn của quyết định trên.

Theo Điều 412 BLTTDS thì khơng thay đổi quyền giải quyết khi vụ án

lao động đã được một Tòa án Việt Nam thụ lý giải quyết theo thâm quyên, trong quá trình giải quyết có sự thay đổi quốc tịch, nơi ở địa chỉ của các

đương sự hoặc có tình tiết mới làm cho vụ án lao động đó vượt thâm quyền <small>của Tòa án khác của Việt Nam hoặc của Tịa án nước ngồi.</small>

Trong q trình thụ lý vụ án, có thể xảy ra tranh chấp về thâm quyền giữa các Tòa án và các tranh chấp này cần sớm được giải quyết để tránh ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết TCLĐ. Điều 37 BLTTDS quy định: Tranh chap về thâm quyền giữa các TAND cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án TAND cấp tỉnh giải quyết. Tranh chấp về thâm quyền giữa các TAND cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các TAND cấp tỉnh do Chánh án TAND tối cao giải quyết. Quy định nay đã khắc phục được bat cập của quy định của Pháp

lệnh giải quyết các TCLĐ. Trước đây Pháp lệnh quy định chung tranh chấp về

thâm quyền giữa các Tòa án do Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết. Như vậy, nếu xảy ra tranh chấp về thâm quyền giữa các TAND cấp huyện thuộc các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau thì sẽ gặp vướng mắc trong

việc xác định TAND cấp trên trực tiếp giải quyết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

2.3. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Điều 159 BLTTDS sửa đổi, b6 sung 2011 đưa ra khái niệm về thời hiệu

yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự dé bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ

quan, tơ chức, lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết

thúc thì mat quyền u cau, trừ trường hợp có quy định khác. Và thời hiệu

yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trước đây, tại Điều 167 BLLĐ 1994 sửa đổi bố sung 2006, 2007 quy định về thời hiệu giải quyết TCLĐ là từ 06 tháng đến 03 năm tùy vào loại

tranh chấp nhưng không quy định rõ thời hiệu đó áp dụng cho việc đưa ra hòa

giải hay khởi kiện tại Tòa án, cụ thê thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao

<small>động cá nhân được quy định như sau:</small>

- Một năm, kế từ ngày xảy ra hành vi mà mỗi bên tranh chap cho rang

qun, lợi ích của mình bị vi phạm đối với các tranh chấp lao động về xử lý ki luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ; tranh chấp về bồi thường thiệt hai, trợ cấp khi cham dứt HDLD; tranh chấp về bảo hiểm xã hội giữa NLĐ đã nghỉ việc theo chế độ với

NSDLĐ, giữa NLD với cơ quan bảo hiểm, giữa NSDLĐ với cơ quan bảo

- Ba năm, ké từ ngày xảy ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rang

qun, lợi ích của mình bị vi phạm đối với tranh chấp tranh chấp về bồi

thường thiệt hại giữa NLĐ với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa NLĐ đi

<small>làm việc ở nước ngoài theo HĐLĐ;</small>

- Sáu tháng, ké từ ngày xảy ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rang quyên, lợi ích của mình bị vi phạm đối với các loại tranh chấp khác.

BLLĐ 1994 quy định như vậy là không hợp lý, bởi lẽ đối với những <small>trường hợp đã qua hịa giải mà khơng thành hoặc khơng được hịa giải trongthời hạn quy định, hoặc hòa giải thành nhưng các bên khơng thực hiện theo</small>

<small>biên bản hịa giải thì thời hiệu khởi kiện tại tòa án bị rút ngăn hơn so với</small>

</div>

×