Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.32 MB, 91 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

NGUYEN THUY DUNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DAN KHOA HỌC: TS. DONG NGOC BA

HÀ NỘI - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các nội dung được</small>

trình bày trong luận văn là trung thực, thơng tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ

<small>nguôn goc.</small>

<small>Tác giả luận văn</small>

Nguyễn Thùy Dung

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã được hoàn thành thê hiện kết quả tổng hợp của

<small>hai năm học cao học tại trường Đại học Luật Hà Nội.</small>

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô đã tham gia giảng dạy lớp Cao học Dân sự khóa 20 (2012-2014). Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thay giáo — PGS.TS Dinh Văn Thanh người đã trực tiếp hướng dẫn, góp y, chỉ đạo

<small>tơi hồn thành luận văn này. Va xin cảm ơn gia đình, bạn be, những người ln bên</small>

cạnh động viên, giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện đề tải.

Dù đã cố gắng hết sức nhưng tơi khơng thé tránh khỏi những sai sót do hạn chế về kiến thức cũng như về thời gian. Kính mong nhận được sự thơng cảm và góp ý từ phía thầy cơ và các bạn.

<small>Tơi xin chân thành cảm ơn.</small>

<small>Hà Nội, ngày tháng năm 2014Tác giả luận văn</small>

Nguyễn Thùy Dung

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VE NHÓM NGƯỜI DE BỊ TON

THUONG VÀ QUYEN NHÂN THAN CUA NHÓM NGƯỜI DE

BI TON THUONG

1.1 Khái quát về nhóm người dé bị tốn thương trong xã hội 1.1.1 Khái niệm nhóm người dé bị ton thương

1.1.2 Đặc điểm của nhóm người dễ bị tôn thương là phụ nữ và trẻ em 1.2 Khái quát về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tốn

<small>thương trong xã hội</small>

1.2.1 Khái quát chung về quyên nhân thân 1.2.1.1 Khái niệm, đặc điểm quyền nhân thân 1.2.1.2 Các phương thức bảo vệ quyền nhân thân

1.2.2 Khái niệm quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương

<small>là phụ nữ và trẻ em</small>

1.2.3 Ý nghĩa việc bảo vệ quyền nhân thân của phụ nữ và trẻ em

CHƯƠNG 2: QUYEN NHÂN THAN CUA NHÓM NGƯỜI DE BỊ

TON THUONG LA PHU NU VÀ TRE EM 2.1 Luật quốc tế về quyền của phụ nữ va trẻ em

2.1.1 Quyền của phụ nữ theo Luật quốc tế

2.1.1.1 Khái quát lịch sử phát triển của van đề quyền của phụ nữ 2.1.1.2 CEDAW - Văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền con

<small>người của phụ nữ</small>

2.1.2 Quyền của trẻ em theo Luật quốc tế

2.1.2.1 Khái quát lịch sử phát triển của van đề quyên trẻ em

2.1.2.2 CRC - Văn kiện quốc tế cơ bản và hoàn thiện nhất về quyền trẻ em

2.2 Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tốn thương là phụ nữ và trẻ em

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2.2.2 Bảo vệ quyền nhân than của trẻ em khi cha mẹ ly hôn 2.2.2.1 Ly hôn và hậu quả của ly hôn đối với trẻ em

2.2.2.2 Quy định pháp luật về quyền trẻ em khi cha mẹ ly hôn 2.2.3 Bảo vệ quyền nhân thân của phụ nữ khi vợ chồng ly hôn 2.2.3.1 Lịch sử những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ khi vợ chồng ly hôn

2.2.3.2 Bảo vệ quyền ly hơn của người vợ

2.2.4 Bảo vệ quyền bình đăng giữa vợ và chồng của người phụ nữ trong gia đình; quyền bình đăng giới trong lao động, việc làm 2.2.4.1 Khái niệm bình đăng giới và bình dang giới trong gia đình 2.2.4.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về bình đăng giới giữa vợ và chồng, bình dang giới trong lao động việc làm

2.2.5 Bảo vệ quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, thân thê của phụ nữ và trẻ em

2.2.5.1 Khái quát về quyền được bảo đảm an tồn tính mạng, sức khỏe, thân thé

2.2.5.2 Quy định của pháp luật về bảo vệ quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, than thé của phụ nữ va trẻ em

2.2.6 Bảo vệ quyền được khai sinh của trẻ em

2.2.6.1 Tầm quan trọng của quyền được khai sinh của trẻ em 2.2.6.2 Quy định của pháp luật hiện hành về quyền khai sinh

CHƯƠNG 3: THỰC TRANG VI PHAM QUYEN NHÂN THÂN

CUA PHU NU VA TRE EM. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VE QUYEN NHÂN THÂN

3.1 Thực trạng ly hơn va bạo hành gia đình, thực tế bảo vệ quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>3.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật</small>

3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về nội dung

3.2.2 Hồn thiện pháp luật về tơ tụng và nâng cao chat lượng xét xử

<small>3.2.3 Giải pháp nâng cao ý thức pháp luật và xã hội hóa các hoạt</small>

động bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>Cơ quan thi hành án dân sự</small>

Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em

<small>Bộ luật dân sự</small>

HIV là virus gây suy giảm miễn dịch ở người, AIDS là Hội

chứng suy giảm miễn dịch mắc phải Tổ chức lao động quốc tế

<small>Luật Hơn nhân và gia đình</small>

Ủy ban nhân dân

Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hợp quốc Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Quyền con người của phụ nữ và trẻ em là vấn đề luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt

<small>Nam. Trong hai thập kỷ trở lại đây, địa vị của người phụ nữ Việt Nam đã được cải</small>

thiện đáng kể. Phụ nữ tham gia nắm giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước, làm chủ ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân hay thực hiện các cơng việc địi hỏi tay nghề, trình độ cao. Mặc dù vậy, tư tưởng nho giáo coi trọng nam hơn nữ, sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ như coi thường, hành hạ, ngược đãi phụ nữ... vẫn còn tồn tại. Quyền con người của phụ nữ như quyền bình đắng với nam gIới, quyền được làm việc, quyền được đảm bảo an tồn tính mạng, sức khỏe, thân thé... bị xâm phạm nghiêm trọng. Không chỉ phụ nữ mà trẻ em, những mam non tương lai của đất nước cũng ít được tôn trọng khi tỷ lệ ly hôn tăng lên nhanh chóng. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em nhưng chưa đề tài nào nghiên cứu hai chủ thé này trong nhóm người dé bị tổn thương. Vì vậy, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tốn thương. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm rõ đặc điểm dễ bị tổn thương của phụ nữ và trẻ em, đồng thời phân tích khái quát quy định của pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân của nhóm này.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

<small>Phụ nữ và trẻ em là nhóm người nhận được sự quan tâm đặc biệt của xã hội</small>

cũng như pháp luật nhằm bảo vệ quyên lợi cho nhóm yếu thé. Tuy nhiên, các đề tài luận văn trước đây thường tập trung vào nghiên cứu quyền nhân thân của cá nhân nói chung hoặc về một nhóm quyên nhân thân như:

Lê Thị Hoa (2006), Quyền nhân thân liên quan đến thân thê của cá nhân theo

<small>quy định trong Bộ luật dân sự 2005, Luận văn thạc sĩ luật học;</small>

Phùng Thị Tuyết Trinh (2012), Quyền bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, thân thê trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học;

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>Trì, Luận văn thạc sĩ;</small>

Phạm Ngọc Lý, Bình đắng giới và vấn đề phòng chống bạo lực giữa vợ chồng qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ.

Và chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách khái quát về bảo vệ quyền nhân thân của phụ nữ và trẻ em dưới góc nhìn hai chủ thé này trong nhóm dé bị tơn thương. 3. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác — Lênin, đường lối, chính sách của Dang, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Dé có thể làm sáng tỏ các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, trong quá trình nghiên

<small>cứu tác giả đã sử dụng những phương pháp như: phương pháp lịch sử, phương pháp</small>

thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và tong hợp. 4. Mục dich và phạm vi nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định hiện hành về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương là phụ nữ và trẻ em cùng những quy định nhằm bảo vệ quyền nhân thân đó. Bên cạnh đó, dé tài cũng nêu lên thực trang phụ nữ và trẻ em bị ton thương và cần được bảo vệ ra sao. Từ thực tế và những quy định hiện hành tác giả nêu lên kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nội dung và tố tụng trong quy định và bảo vệ nhóm người dé bị tốn thương là phụ nữ và trẻ em.

Phạm vi nghiên cứu đề tài: Hiện nay chưa có một định nghĩa chính thức nào trong pháp luật quốc tế và quốc gia về nhóm người dễ bị tơn thương. Tùy vào điều kiện kinh tế — xã hội và sự phát triển của từng quốc gia mà nhóm người dé bị tổn thương có thể được xác định khác nhau. Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào, trẻ em và phụ nữ đều đứng đầu trong nhóm dễ bị tổn thương. Thêm vào đó hiểu biết hiện tại của tác giả còn hạn chế nên nội dung đề tài nghiên cứu luận văn chỉ đề cập đến quyền nhân thân của hai nhóm người dễ bị tơn thương là phụ nữ và trẻ em.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

quyền nhân thân của phụ nữ và trẻ em về yếu t6 đặc biệt dé bị ton thương của hai chủ thể này, nhấn mạnh vào quyền bình dang của phụ nữ — cơ sở bảo đảm cho quyền của phụ nữ được thực hiện.

Trên cơ sở phân tích quyền nhân thân quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 và những luật chuyên ngành quy định cụ thé về các quyền nhân thân đó, tác giả đưa ra cái nhìn tổng quát, hệ thống về bảo vệ quyền nhân thân của phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật, đưa ra và phân tích những số liệu thống kê thực tế về vấn đề đó.

Tác giả đề xuất phương hướng hồn thiện pháp luật về nội dung, quy trình xét xử các vụ án liên quan đến trẻ em và một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật và xã hội hóa các hoạt động bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em.

6. Những nội dung chính được nghiên cứu trong đề tài

Ngồi phần Mở đầu, Kết luận đề tài có kết câu gồm ba chương:

Chương 1: Khái quát về nhóm người dé bị tốn thương và quyền nhân thân của nhóm người dé bị tổn thương.

Chương 2: Quyền nhân thân của nhóm người dé bị tổn thương là phụ nữ và

<small>trẻ em.</small>

Chương 3: Thực trạng ly hơn và bạo hành gia đình, thực tế bảo vệ quyền phụ nữ và quyền trẻ em. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

QUYEN NHÂN THAN CUA NHÓM NGƯỜI DE BỊ TON THUONG

1.1 Khái quát về nhóm người dễ bi tốn thương trong xã hội 1.1.1 Khái niệm nhóm người dé bị tốn thương

Khái niệm “dé bị tổn thương” là một khái niệm mở, khó dé định nghĩa chính xác và có thé thay đổi theo ngữ cảnh. Bên cạnh đó, sự dé bị ton thương có thê phát sinh từ tự nhiên và khơng thể tránh khỏi hoặc nó có thể được tạo ra và duy trì bởi sắp đặt của cá nhân và/hoặc xã hội. Hiện nay, chúng ta cũng chưa có định nghĩa chính thức nào về khái niệm “nhóm người dễ bị ton thương” dù cho nó được su dụng phổ biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế và trong các hoạt động nghiên cứu thực tiễn về quyền con người trên thé giới. Tuy nhiên, có thé hiểu khái niệm này như

Nhóm người dé bị ton thương là “những nhóm, cộng đồng có vị thé về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác”[12].

+ Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ và Trung tâm Hỗ trợ phát triển

cộng đồng LIN đã xác định những nhóm người sau trong địa phận thành phố Hồ Chí Minh là những nhóm dé bị tổn thương: Người khuyết tật (bao gồm cả khuyết tật về thê chất và tâm thần); người lao động nhập cư, đến từ những vùng nông thôn của

<small>Việt Nam (và các thành viên trong gia đình đi cùng); người nghèo thành thị; người</small>

sống với HIV/AIDS; người dân tộc thiểu số; người hành nghề mại dâm; nạn nhân

<small>buôn bán người.</small>

+ Theo Luật quốc tế về quyền con người, nhóm người dễ bị tơn thương bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, người sống chung với HIV, người di tản hoặc người tìm kiếm nơi lánh nạn, người khơng quốc tịch, người lao

<small>động di trú, người thiêu sô (vê dân tộc, chủng tộc, tôn giáo...), người bản dia, nan</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

COn người ở trong nhiều hoàn cảnh, bối cảnh (xét cả trên phạm vi quốc tế, khu vực, quốc gia, ở trong gia đình, nơi làm việc hoặc ngồi xã hội).

Do thời gian và kiến thức cịn hạn chế, trong phạm vi nghiên cứu tác giả chỉ đề cập đến quyền của hai nhóm người là phụ nữ và trẻ em. Căn cứ theo điều kiện về địa lý, kinh tế — xã hội, trình độ phát triển dân trí hay do phong tục tập quán từng địa phương... mỗi một quốc gia đều xác định lứa tuổi của trẻ em dé phân biệt với người trưởng thành. Nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước phương Tây thường lay mốc dưới 18 tuổi để xác định ranh giới giành cho trẻ em. Theo Điều 1 Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc: “Tré em có nghĩa là bat kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dung với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hon”.

Ở Việt Nam, trong Dân số học thường lay mốc 15 tuổi dé phân biệt trẻ em với tuôi trưởng thành. Tuy nhiên, theo Điều 1 của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo

<small>dục trẻ em năm 2004 quy định như sau: “Trẻ em quy định trong Luật này là công</small>

dân Việt Nam đưới 16 tuổi”. Và Bộ luật Dân sự quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Như vậy, giữa các văn bản luật chưa có sự thống nhất giữa người chưa thành niên và trẻ em. Khái niệm trẻ em có thé bao gồm cả người chưa thành niên hay cũng có thé hiểu người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em.

1.1.2 Đặc điểm của nhóm người dễ bị tốn thương là phụ nữ và trẻ em

Từ hàng nghìn năm qua, phụ nữ và trẻ em luôn là những nhóm người yếu thé, dé bị tơn thương và chịu nhiều thiệt thoi. Bên cạnh đó, họ phải chịu đựng sự bat bình đăng và phân biệt đối xử ở nhiều nơi, thậm chí ngay trong gia đình mình. Phụ nữ và trẻ em khơng chỉ giống nhau ở tính chất đặc biệt dé bi ton thương mà cịn có

mỗi quan hệ khăng khít về nhiều mặt. Từ định nghĩa về nhóm người dễ bị ton

thương có thé đưa ra các đặc điểm của nhóm người dễ bi tổn thương là phụ nữ va

<small>trẻ em như sau:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

là nghiêm cam nhưng trên thực tẾ sự phân biệt đó vẫn tơn tại. “Chúng ta đều biết rằng phụ nữ chiếm khoảng một nửa dân số thế giới tuy nhiên chỉ từ 5-10% trong số họ có vị trí lãnh đạo. Phụ nữ đóng góp 70% cho nền kinh tế địa phương và quốc gia nhưng thu nhập của họ lại thấp hơn 1/10 thu nhập của toàn thế giới, 2/3 trong số 960 triệu người mù chữ trên thế giới là phụ nữ” [15].

Trẻ em là đối tượng yếu đuối về mặt thé chất do chưa phát triển hồn thiện. Đa số trẻ em chưa có sức lao động và tài sản riêng nên tất yếu phải lệ thuộc về kinh tế vào các thành viên trong gia đình mà trước tiên là cha mẹ, ơng bà, anh chị.

- Do thể chất chưa phát triển hoặc do giới tính tự nhiên:

Do đặc điểm tự nhiên, phụ nữ thường có thé chất yếu hơn nam giới. Bên cạnh đó, phụ nữ phải gánh vác chức năng sinh nở — chức năng hàm chứa rất nhiều rủi ro về sức khỏe. Bởi những đặc điểm sinh học về giới có thể mang lại cho phụ nữ nhiều khó khăn nên họ cần được bảo vệ sức khỏe sinh sản; phòng chống bn bán phụ nữ, phịng chống bạo lực giới; đảm bảo sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực

<small>chính tri.</small>

Trẻ em là chủ thé cịn non not cả về thé chất và tinh thần nên trẻ em cần được bảo vệ tồn điện cả về tính mạng sức khỏe và tình cảm, đạo đức.

- Có nguy cơ cao bị bỏ quên hay bị coi thường, bị vi phạm các quyền con người, cần được bảo vệ đặc biệt so với nhóm cộng đồng khác:

+ Nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại tư tưởng “trọng nam khinh nữ” dẫn đến việc bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em nữ trong gia đình. Hoặc tư tưởng “gia trưởng” khiến cho những người đàn ơng trong gia đình mặc nhiên cho mình có “quyền đối với vợ con” nên muốn làm gì thì làm. Ngồi ra, việc cha mẹ thường xuyên trừng phạt, đánh đập con cái một cách dã man đôi khi cũng là do hiểu sai ý nghĩa câu nói của cha ơng đã dạy: “thương cho roi cho vọt”. Hiểu sai lầm trong cách dạy dé và giáo dục trẻ em cũng như sự thiếu hiểu biết về pháp luật và bạo lực gia đình từ các thành viên trong gia đình khiến phụ nữ và trẻ em có nguy cơ cao bị

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Theo một báo cáo của Tổ chức UNICEF, có hơn 2,6 triệu trẻ em ở Việt Nam cần được bảo vệ đặc biệt. Trong số đó có trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và bn bán

vì mục đích tình dục; trẻ em lang thang cơ nho; trẻ em tat nguyễn; trẻ em vi phạm

pháp luật; trẻ mô côi; trẻ em bị ruồng bỏ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và trẻ em sống trong cảnh nghèo đói. Hồn cảnh của các em đều hết sức nghiệt ngã, rất

nhiều em phải tự bươn trải dé kiếm sống. Một số em bị bắt lao động, còn một sỐ

khác sống lang thang trên các đường phó - chính tình cảnh đó khiến cho các em có nguy cơ cao bị nhiễm HIV, sử dụng ma túy và bị lôi cuốn vào các hành vi phạm tội

<small>và mại dâm.</small>

+ Phụ nữ và trẻ em là những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất trong cuộc sống. Các quyền cơ bản của phụ nữ và trẻ em không được đảm bảo, nạn bạo lực gia

đình, sự phân biệt đối xử, định kiến giới đối với phụ nữ diễn ra hằng ngày nhưng họ khơng tự biết cách bảo vệ mình.

1.2 Khái quát về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị ton thương trong xã

1.2.1 Khái quát chung về quyền nhân thân

<small>Với tư cách là thành viên của xã hội, từ khi sinh ra con người đã được hưởng</small>

những quyền nhất định thé hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống bao gồm quyền tự do dân chủ về chính trị, quyền về dân sự, quyền về kinh tế — xã hội v.v... Trải qua quá trình đấu tranh phát triển của xã hội, các quyền của cá nhân ngày càng được tôn trọng thực hiện. Quyền nhân thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người đã được pháp luật Việt Nam quy định cụ thé trong pháp luật dân sự và chủ yếu là BLDS. Điều đó thé hiện sự ghi nhận va bảo vệ của Nhà nước đối với các giá trị của quyên nhân thân.

1.2.1.1 Khái niệm, đặc điểm quyền nhân thân

“Quyền nhân thân” (Personality rights) của cá nhân là một trong những

<small>quyên dân sự cơ bản của con người được pháp luật bảo hộ. Hâu hêt các quôc gia</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

đi. Đó là những quyền gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, liên quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín... của mỗi người.

Pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận quyền con người trong đó có quyền nhân thân trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bố sung năm 2013) — đạo luật gốc của quốc gia, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất và được cụ thể tại Điều 24 Bộ luật Dân sự 2005: “Quyên nhân thân của cá nhân là quyên dân sự gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật quy định khác ”. Từ đó, chúng ta có thê hiểu định nghĩa quyền nhân thân như sau:

+ Theo nghĩa khách quan: Quyền nhân thân được hiểu là tổng hợp các quy

<small>phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó quy định rõ cho các cá nhân có</small>

những quyền nhân thân nào gắn liền với bản thân họ và đấy là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình.

+ Theo nghĩa chủ quan: Quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền

với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và không thể chuyền giao cho

<small>người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.</small>

Từ đó, chúng ta có thé thay được đặc điểm của quyền nhân thân bao gồm:

<small>- Quyên nhân than gan liên với cá nhân và nguyên tac là không thê chuyên</small>

giao cho người khác: quyền nhân thân trở thành một thuộc tính của chủ thé mà không bị phụ thuộc, chi phối bởi bat kỳ yếu t6 khách quan nào như độ ti, trình độ, giới tính, tơn giáo... mỗi chủ thé đều bình đăng về quyền nhân thân. Các quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng do Nhà nước quy định cho các chủ thê dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Vé nguyên tắc quyền nhân thân không thé chuyển giao cho người khác, đồng nghĩa là quyền nhân thân không thé là đối tượng trong các giao dich mua bán, trao đổi, tặng cho... Xét về nguyên tắc tức là vẫn có trường hợp ngoại lệ, một số quyền nhân thân có thể chuyên giao cho người khác theo quy định của pháp luật. Vi dụ: Theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 738 BLDS 2005 thì quyền cơng bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

người khác khi đảm bảo các điều kiện do pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định (khoản 1, Điều 742 — Chuyên giao quyền tác giả). Mặc dù vậy, có những yếu tố ln gắn liền với chủ thể mà khơng thể thay thế được, ví dụ: quyền đứng tên tác giả, quyền bảo vệ sự toàn ven của tác phẩm.

- Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản: quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những giá trị tương đương và không thê trao đổi ngang giá. Một người sáng tạo ra một sáng chế hay giải pháp hữu ích thì sáng chế hay giải pháp hữu ích đó mang giá trị kinh tế cịn bản thân “quyền tự do sáng tạo” (Điều 47 BLDS 2005) không phải là tài sản và không trị giá được băng

- Hành vi xâm phạm quyên nhân thân không nhất thiết phải gây ra thiệt hai: thiệt hại không phải là căn cứ bắt buộc để xác định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm hại quyền nhân thân. Trên thực tế, ngay cả trong trường hợp bị xâm phạm quyền nhân thân không những không gây thiệt hại mà cịn có lợi cho họ nhưng nếu khơng có sự đồng ý của chủ thể thì đều coi là vi phạm. Quyền nhân thân liên quan đến đời sống tinh thần của cá nhân chiếm một số lượng lớn, thiệt hại do hành vi xâm phạm những quyền này không được cân, do, đong đếm bằng những đại lượng cụ thé. Tuy nhiên, đặc điểm này không loại trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi có hành vi xâm phạm đến những quyên nhân thân đó.

1.2.1.2 Các phương thức bảo vệ quyền nhân thân

Quyền nhân thân là một đối tượng được bảo đảm trước hết bằng những cơ chế của nhà nước, tạo điều kiện kinh tế, xã hội cho con người ngày càng phát triển về mọi mặt, vươn lên làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Đối với các biện pháp mang tính pháp lý thì bảo vệ quyền nhân thân thuộc về nhiệm vụ của nhiều ngành luật như: hình sự, hành chính, lao động, hơn nhân và gia đình... Bảo vệ quyền nhân

<small>thân chính là việc khi cá nhân có qun nhân thân bị xâm hại thì cơ quan nhà nước</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

có thâm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện các biện pháp, phương thức do pháp luật quy định dé ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hai trái pháp luật đến quyền nhân thân của cá nhân; buộc phải chấm dứt hành vi và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình theo quy định của pháp luật. Bảo vệ quyền nhân thân theo biện pháp dân sự được thực hiện theo Điều 25 — BLDS năm 2005, khi quyên nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyễn:

<small>1. Tự mình cải chính: được ap dụng trong trường hợp người có hành vi trái</small>

pháp luật đưa ra những tin tức không đúng xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Đây là biện pháp cho phép người có quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền nhân thân của mình, hạn chế được hậu quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần do những tin tức không đúng gây ra. Dé người có quyền nhân thân bị xâm phạm thực hiện được việc tự cải chính thì pháp luật phải quy định cụ thể về trình tự,

<small>thủ tục thực hiện việc tự cải chính của họ nhưng do các văn bản pháp luật liên quan</small>

khơng có quy định, hướng dẫn cụ thé nên việc tự cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân trên thực tế hầu như khơng thé thực hiện được hoặc có thực hiện thì cũng khơng hiệu quả. Hơn nữa, về tâm lý thì cũng rất ít người tin việc cải chính của chính người có quyền nhân thân bị xâm phạm.

2. Yêu câu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyên buộc người vi phạm cham dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai: So với biện

<small>pháp tự cải chính thì biện pháp nay được áp dụng trong một phạm vi rộng trong mọi</small>

trường hợp quyền nhân thân bị xâm phạm. Tuy nhiên, thơng thường nó chỉ có hiệu quả khi người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân sớm nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ. Nếu không, phương thức bảo vệ quyền nhân thân này cũng khơng có hiệu quả và lúc đó người có quyền nhân thân bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mạnh mẽ hơn mới bảo đảm được quyền nhân thân của mình đó là u cầu cơ quan, tơ chức có thâm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm. Đây là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tổ chức có thâm quyền như tơ hịa giải ở cơ sở, Uy ban nhân dân các cấp, Tòa án, Viện kiểm sát... sẽ áp dụng các biện pháp do pháp luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

quy định buộc người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân cham

<small>dứt hành vi đó. Trong các cơ quan Nhà nước áp dụng biện pháp dân sự bảo vệ</small>

quyền nhân thân của cá nhân thì Tịa án là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, bảo vệ quyền nhân thơng qua việc u cầu Tịa án bảo vệ được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và địi hỏi người có quyền nhân thân bị xâm phạm yêu cầu Tòa án bảo vệ phải chứng minh được quyền nhân thân của mình, hành vi xâm phạm quyén nhân thân của họ là trái

<small>pháp luật.</small>

3. Yêu cau người vi phạm hoặc yêu cau cơ quan, tô chức có thẩm qun buộc người vi phạm bơi thường thiệt hại: Nêu có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh than thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm hại có quyền yêu cầu người có hành vi trái pháp luật bồi thường thiệt hại. Nếu người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không chịu bồi thường thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền u cầu Tịa án hoặc cơ quan, tơ chức khác có thâm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại. Mức bồi thường thiệt hại tinh thần thường dé cho các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được sẽ bồi thường tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu đối với thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, tối đa không quá sau mươi tháng lương tối thiểu đối với thiệt hại do tinh mạng bị xâm phạm và tôi da

không quá mười tháng lương tối thiểu do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

(Điều 609 đến Điều 612 BLDS 2005).

1.2.2 Khái niệm quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tốn thương là phụ nữ

<small>và trẻ em</small>

Khi nói đến quyền trẻ em và quyền phụ nữ phải gắn trong mối liên hệ khăng khít với quyển con người - những đặc quyên (quyên tự nhiên) của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong mối liên hệ

<small>với Nhà nước và với những cá nhân con người khác [4]. Phu nữ và trẻ em phải</small>

được hưởng tất cả những quyền con người mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền

<small>nhân thân của phụ nữ và trẻ em là một khái niệm dùng dé chỉ các quyên con người</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

của phụ nữ và trẻ em. Phụ nữ và trẻ em là nhóm xã hội đặc biệt, dễ bị tôn thương cần được ghi nhận các quyền con người cho họ.

Trong pháp luật của nhiều quốc gia cũng như trong phong tục tập quán ở nhiều nước, phụ nữ và trẻ em chiu sự chi phối bảo vệ và thống tri của nam gidi trong và ngoài gia đình. Tuy nhiên, trong hai thập kỷ qua, thế giới loài người đã chứng kiến một bước phát triển mới ảnh hưởng to lớn đến sự sống còn và phát triển của phụ nữ và trẻ em trên thé giới. Đó là việc Đại hội đồng Liên hợp quốc thơng qua Cơng ước về xố bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (the

<small>Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against</small>

Women/CEDAW) và Công ước về quyền trẻ em (the Convention on the Rights of the Child/CRC). Đây là hai công ước quốc tế cơ bản trong hệ thống các công ước quốc tế về quyền con người. Bên cạnh những văn kiện quốc tế về quyền con người, chúng ta vẫn xây dựng những quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền phụ nữ, bảo vệ phụ nữ khỏi sự phân biệt đối xử. Khi mà sự phân biệt đối xử chính là nguyên nhân làm cho người phụ nữ không được hưởng những quyền con người bình dang

<small>VỚI nam gidi.</small>

Các trẻ em gái vừa mang những đặc trưng non nét về thé chất, tinh thần của trẻ em, vừa mang những đặc trưng về giới tính của phụ nữ. Vì vậy, các em gái đồng thời phải được bảo đảm cả quyền trẻ em và quyên bình dang của phụ nữ.

Trẻ em là những cá thé còn non nớt cả về thé chất lẫn tinh than, rất dé bị ton thương nên cuộc song va su phat triển của trẻ em phụ thuộc rất lớn vào sự chăm sóc của gia đình, nhà trường, xã hội, đặc biệt là gắn với sự chăm sóc của người mẹ. Chính vì vậy, việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ, nhất là các quyền liên quan đến sinh đẻ, mang thai và ni con là các biện pháp sớm và có hiệu quả nhất để thừa nhận các quyền của trẻ em và bảo vệ các em. Thực tế cho thấy, khi người phụ nữ mang thai mà các quyền con người của họ không được bảo đảm, nhất là các quyền về chế độ dinh dưỡng, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi trước và sau khi sinh;

<small>được khám, chữa bệnh định kỳ... thì hậu quả là bào thai trong bụng mẹ cũng như</small>

khi em bé được sinh ra khó có thể phát triển bình thường và khoẻ mạnh. Nếu một

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

người mẹ có kiến thức, có khả năng kinh tế cao sẽ có điều kiện chăm sóc con cái tốt hơn những người mẹ có trình độ văn hố thấp và điều kiện kinh tế khó khăn... Có thê khang định răng, việc bao đảm các quyền con người của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực đều trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến việc bao đảm các quyền trẻ em.

Từ những phân tích kể trên cho ta thấy, việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ và trẻ em có mối liên hệ khơng thể tách rời. Nói cách khác, khơng thé bảo đảm các quyền của trẻ em một cách toàn diện và hiệu quả nếu không bảo đảm cho phụ nữ có quyền bình đẳng về mọi mặt với nam giới.

1.2.3 Ý nghĩa việc bảo vệ quyền nhân thân của phụ nữ và trẻ em

Quyền nhân thân là một trong những quyền dân sự cơ bản của phụ nữ và trẻ em thé hiện trong nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với đời song tinh thần của cá nhân. Tuy vậy, trên thực tế của đời sống xã hội, do điều kiện lịch sử dé lại và nhận thức của mỗi người khác nhau nên việc xâm phạm đến quyền nhân thân là không tránh khỏi. Mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người bị xâm phạm. Vi vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của phụ nữ và trẻ em có ý nghĩa rất quan trọng.

Trước hết, bảo vệ quyền nhân thân của phụ nữ và trẻ em có tác dụng kịp

<small>thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật xâm phạm, bao đảm trật tự pháp lý xã hội</small>

và giáo dục ý thức pháp luật làm cho mọi người tôn trọng quyền nhân thân - quyền con người của phụ nữ và trẻ em. Mặt khác, bảo vệ quyền nhân thân còn tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân thân của cá nhân được thực hiện trên thực tế, khắc phục những hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo đảm đời sống tinh thần và vật chất cho phụ nữ và trẻ em.

Ở Việt Nam, trẻ em từ 0 đến 16 tuổi chiếm khoảng 28% dân SỐ, hàng năm có

khoảng 1,5 triệu trẻ em được sinh ra. Về mặt văn hoá và truyền thống, trẻ em được

coi là niềm hạnh phúc của gia đình và tương lai của đất nước. Trẻ em là lớp công dân đặc biệt mà Nhà nước và xã hội phải chăm sóc. Tuy nhiên, trẻ em lại non nới về thê chất và trí tuệ, chưa thể tự bảo vệ mình. Do đó, cần có những quy định của pháp

<small>luật về quyên của trẻ em và nghĩa vụ của cha mẹ, gia đình và xã hội đê trẻ em được</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

bảo vệ và phát triển. Xuất phát từ tính thần nhân văn, nhân đạo và từ sự coi trọng con người, coi trọng trẻ em, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng ghi nhận vấn đề bảo vệ quyền trẻ em. Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ cũng như chăm sóc trẻ em. Đây cũng là cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền công dân, quyền con người trong phạm vi quốc

<small>gia; là căn cứ xử lý các trường hợp vi phạm.</small>

Phu nữ là một nhóm xã hội đặc biệt, dé bị tổn thương. Do đó, việc xác định và ghi nhận các quyền con người cho họ, đặc biệt đảm bảo trên cơ sở của tiêu chí bình đăng là cần thiết, phụ nữ cũng như nam giới họ phải được hưởng tất cả những quyền con người mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Với những đặc điểm sinh học về g101 CÓ thể mang lại những khó khăn cho họ, phụ nữ cần được bảo vệ sức khỏe sinh sản; phịng chống bn bán phụ nữ, phòng chống bạo lực giới; đảm bảo sự tham gia

<small>của phụ nữ trong lĩnh vực chính tri.</small>

Như vậy, các nhóm xã hội phải chịu những thiệt thịi và có xuất phát điểm thấp hơn xứng đáng và cần thiết được hưởng các quyền, đặc thù (các quyền của nhóm) dé có thê đạt được sự bình đăng thực chất với các nhóm khác trong việc hưởng thụ các

quyền con người. Bên cạnh đó, thơng qua các quy định của pháp luật về bảo vệ

<small>quyên của phụ nữ và trẻ em sẽ phản ánh bản chât và sự tiên bộ xã hội.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>CHƯƠNG 2</small>

QUYEN NHÂN THAN CUA NHÓM NGƯỜI DE BỊ TON THƯƠNG LÀ PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM

2.1 Luật quốc tế về quyền của nhóm người dễ bị ton thương là phụ nữ và trẻ em Phụ nữ và trẻ em là nhóm người được coi là dễ bị ton thuong trong Luat Quốc tế về quyền con người. Chiém phan lớn nội dung về quyền của nhóm, quyền của các nhóm người dễ bị tốn thương cầu thành một bộ phận quan trọng của Luật Quốc tế về quyền con người. Đã có hàng trăm văn kiện quốc tế, cả các điều ước, tuyên bố và khuyến nghị... được Liên Hợp Quốc và nhiều tổ chức liên chính phủ quốc tế thành viên của Liên Hợp Quốc, đặc biệt là UNESCO, ILO... thông qua. Tuy nhiên, trong phần dưới đây, tác giả chỉ đề cập, phân tích một số quy phạm quốc tế quan trọng nhất về quyền của nhóm người dé bị tổn thương là phụ nữ và trẻ em theo Luật quốc tế.

2.1.1 Quyền của phụ nữ theo Luật quốc tế

2.1.1.1 Khái quát lịch sử phát triển của vấn đề quyền của phụ nữ

Một nửa thé giới là phụ nữ nên quyền của phụ nữ thu hút sự quan tâm rất lớn của cộng đồng quốc tế. Các cuộc đấu tranh vì quyền của phụ nữ bắt đầu từ cấp độ quốc gia rồi dần phát triển thành những phong trào quốc tế, có ảnh hưởng và tác động đến pháp luật quốc tế. Từ thời kì cách mang tư sản Pháp thế ki XVIII, châu Âu đã xuất hiện các phong trào đấu tranh của phụ nữ chống lại sự bóc lột kinh tế và sự phân biệt đối xử với phụ nữ trên phương diện chính trị, xã hội. Đến đầu thế kỉ XX, vấn đề bảo vệ phụ nữ cũng đã trở thành nội dung của nhiều công ước do Tổ chức Lao động quốc tế ban hành. Tuy nhiên, ké từ khi Liên Hợp Quốc ra đời, quyền bình đăng của phụ nữ mới chính thức được thừa nhận trong luật quốc tế. Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 khăng định sự “bình đăng về các quyền giữa phụ nữ và đàn ông...”. Giai đoạn 1975-1985 đã được Liên Hợp Quốc lấy làm thập kỷ

<small>của Liên Hop Quoc vê Phu nữ.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Năm 1948, Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người đã xác lập nguyên tắc nên tang là tất cả mọi người đều được hưởng các quyền tự do một cách bình đẳng, khơng có bat cứ sự phân biệt nào về chủng tộc, dan tộc, giới tính... (Diéul, 2).

Kế tiếp Tuyên ngơn tồn thế giới về quyền con người, nhiều điều ước quốc tế riêng đã được Liên Hợp Quốc thông qua nhằm bảo vệ các quyền của phụ nữ và trẻ em gái như: Công ước về trấn áp việc bn người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949; Cơng ước về các quyền chính trị của phụ nữ năm 1952; Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957; Công ước về đăng ký kết hôn, tuôi tối thiêu khi kết hôn và việc kết hôn tự nguyện năm 1962... Đặc biệt quan trọng và là sự cụ thể cho những giải pháp bảo đảm cho phụ nữ được hưởng đầy đủ quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên thực tế là sự ra đời của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) ngày

18/12/1979, tính đến năm 2008 đã có 183 quốc gia thành viên.

Khi “Quyền con người của phụ nữ và trẻ em gái” được khang định là “một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thé tách rời của các quyền con người phổ biến” trong Tuyên bố của Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ II tổ chức tại Viên (Áo) năm 1993 đã đưa cuộc đấu tranh vì quyền bình đăng của phụ nữ lên một tầm cao mới, những quan tâm về phụ nữ được đưa vào các chương trình, hoạt động về quyền con người.

2.1.1.2 CEDAW - Văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền con người của phụ nữ Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ

<small>-CEDAW (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination Against</small>

Women) là một trong chín cơng ước quốc tế quan trọng nhất hiện nay về quyền con người của Liên Hợp Quốc. Công ước CEDAW không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ, mà thay vào đó, công ước này dé ra những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ từ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người mà họ đã được thừa nhận trong những điều ước quốc tế trước đó. Cơng ước chỉ ra những lĩnh vực có sự phân biệt đối xử nặng nè với phụ nữ như hơn

<small>nhân gia đình, quan hệ dân sự, lao động việc làm, đời sơng chính trị, giáo dục đào</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

tạo... đồng thời xác định cách thức, biện pháp để xóa bỏ những sự phân biệt đối xử

Bình dang giới là phụ nữ và nam giới được công nhận vị thế như nhau trong xã hội và cùng có các điều kiện, cơ hội như nhau để phát huy khả năng, tham gia đóng góp và hưởng thụ thành qua phát triển của quốc gia trên mọi lĩnh vực. Day mới là bình đăng thực sự chứ không phải sự cào bằng các quyền đối với phụ nữ và

nam giới như một sự bình đăng hình thức, làm phụ nữ thực chất phụ thuộc vào nam

giới nhiều hơn.

Những quy định chủ yếu của CEDAW:

(1) Định nghĩa sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ:

Theo Điều 1 của CEDAW đã định nghĩa: “Phân biệt đối xử chong lại phụ nữ bất kì sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào được đề ra dựa trên cơ sở giới tính, mà có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tồn hại hoặc vơ hiệu hóa việc phụ nữ, bắt kể tình trạng hơn nhân của họ như thé nào, được công nhận, thụ hưởng hay thực hiện các quyên con người và tự do cơ bản trên các lĩnh vực chính trị, kinh té, văn hóa, xã hội, dan sự hay bat kể lĩnh vực nào khác, trên cơ sở bình dang giữa nam giới va phụ nữ ”. Nhu vậy, trên moi lĩnh vực, không một đối tượng nào kê cả phụ nữ được có hành vi phân biệt hay hạn chế phụ nữ thực hiện và/hoặc hưởng thụ các quyền và tự do của phụ nữ.

- “Sự phân biệt đối xử” theo Công ước là sự đối xử khác biệt gây tốn hại hoặc vơ hiệu hóa việc cơng nhận, thụ hưởng hay thực hiện quyền con người của phụ nữ chứ không phải mọi sự đối xử khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Theo Bình luận chung số 16 của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa phân biệt giữa sự phân biệt đối xử trực tiếp và giản tiếp với phụ nữ. Theo đó, sự phân biệt đối xử trực tiếp thể hiện ở sự đối xử khác biệt trực tiếp và công khai với phụ nữ vì lý do giới tính mà khơng dựa trên những cơ sở hợp lý khách quan, còn sự phân biệt đối xử gián tiếp thé hiện ở hệ qua mang tính phân biệt đối xử với phụ nữ xảy ra trong q trình thực thi pháp luật, chính sách, mặc dù về mặt hình thức các quy định pháp luật, chính sách đó khơng thé hiện sự phân biệt đối xử [8].

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

- “Hạn chế” là sự giới hạn hoặc giảm bớt một cách tùy tiện, bằng pháp luật hoặc trên thực tế, các quyền và tự do của phụ nữ mà đã được luật pháp quốc tế thừa nhận. Bên cạnh đó “loại trừ” là sự phủ nhận hoàn toàn các quyền và tự do của phụ nữ. Ví dụ: Cho đến ngày 26/9/2011, khi phát biểu tại lễ khai mạc Hội đồng Tư vấn nhiệm kì mới, Quốc vương Abdullah mới tuyên bố: “Phụ nữ sẽ có thé tranh cử như những ứng cử viên trong cuộc bầu cử hội đồng thành phố và cũng sẽ có quyền đi bầu”. Do là bước tiến triển cực kỳ quan trọng đối với phụ nữ ở A Rap Saudi. Cho đến thời điểm đó, những người phụ nữ ở đất nước này không được phép lái xe, khơng được ra khỏi nước nếu khơng có người đi kèm.

- “Tén hại” chỉ những hậu quả dẫn đến sự hạn chế trong việc công nhận, thực hiện và thụ hưởng các quyền; cịn “vơ hiệu hóa” là loại bỏ hoàn toàn các quyền

<small>và tự do của phụ nữ.</small>

<small>- Khía cạnh “thực hiện” chỉ năng lực lựa chọn và hành động của bản thân</small>

phụ nữ, cũng như sự vận hành và tính hiệu quả của các cơ chế bảo vệ các quyền của phụ nữ; trong khi đó, khía cạnh “cơng nhận” nói đến mức độ nhận thức và tôn trọng các quyên của phụ nữ trong xã hội, cịn khía cạnh “thụ hưởng” đề cập đến mức độ bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của phụ nữ trên thực tế [5].

(2) Nghĩa vụ quốc gia

Theo Điều 2 và 3 Công ước CEDAW, để loại trừ mọi sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, các quốc gia có những nghĩa vụ cơ bản sau:

+ Quy định nguyên tắc bình đăng nam nữ trong Hiến pháp, pháp luật quốc gia. Dé triển khai thực hiện các quy định của Công ước CEDAW và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bình đăng giới, các quyền của phụ nữ và các quy định về bình đăng giới đã được thê hiện rõ trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp 1992 sửa đôi bố sung năm 2013, Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự đã được sửa đơi năm 2009, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000. Đặc biệt, dé khang định sự quan tâm và quyết tâm của Việt Nam trong quá trình thực hiện mục tiêu bình đăng giới, hội nhập khu vực và quốc tế. Luật Bình đăng giới đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

thông qua ngày 29/11/2006 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. Đây là cơ sở pháp ly dé xử lý các vi phạm pháp luật bình đắng giới, bảo vệ quyền bình dang của

<small>phụ nữ với nam giới ở Việt Nam.</small>

Không chỉ Việt Nam, trên thế giới đến nay đã có rất nhiều nước ké cả các nước phát triển và đang phát triển đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bình dang giới và tiến bộ của phụ nữ như Úc, Thụy Điển, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phần Lan, Đan Mạch, Lào, Trung Quốc... Là thành viên các Công ước quốc tế về quyền con người, việc xây dựng Luật Binh dang giới không chỉ thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đơi xử nam nữ mà còn là câu trả lời đầy đủ nhất của Việt Nam trong việc thực hiện CEDAW.

+ Ngăn chặn các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ bằng mọi biện pháp, ké cả băng chế tài hình sự.

+ Thiết lập các cơ chế pháp lý dé giúp phụ nữ bảo vệ quyền bình dang của ho. + Đảm bảo rằng hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp khơng có

tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.

+ Điều chỉnh, xóa bỏ những quy định pháp luật, các phong tục tập quán có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.

(3) Ưu đãi đối với phụ nữ

Phụ nữ có đặc điểm sinh học riêng tạo cho họ vai trò làm mẹ, một thiên chức nhằm tái sản xuất con người. Phụ nữ phải dành phan khơng nhỏ cuộc đời mình dé

<small>thực hiện vai trò của người mẹ (thời gian thai sản, ni con nhỏ, chăm sóc con</small>

cái...). Do đó, so với nam giới, họ có ít cơ hội và điều kiện để tham gia các hoạt động khác của đời sống xã hội. Vì vậy, để phụ nữ có thé bình dang với nam giới về mọi mặt của đời sống xã hội, cần có các biện pháp đặc biệt ưu đãi dành riêng cho phụ nữ trong các trường hợp cụ thé khi phụ nữ đóng vai trị làm mẹ.

Điều 4 Công ước CEDAW cho phép các quốc gia thành viên có thé áp dụng những ưu đãi đối với phụ nữ dé thúc đây nhanh hon sự bình đăng trên thực tế giữa hai giới mà không bị coi là phân biệt đối xử hai giới này với nhau. Theo Khoản 2

<small>Điêu 4 Công ước CEDAW, việc các nước tham gia công ước châp nhận các biện</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

pháp đã có trong cơng ước nhằm bảo vệ thiên chức làm mẹ không bị coi là phân biệt đối xử với nam giới. Đồng thời, tại Điều 11 của Công ước đã quy định về ngăn cam việc phạt, thải hồi phụ nữ vì có mang hoặc nghỉ thai sản và phân biệt đối xử trong những trường hợp sa thải dựa vào tình trạng hơn nhân; về việc quy định chế độ cho phụ nữ nghỉ đẻ được trả lương hoặc các phúc lợi xã hội tương ứng; về khuyến khích các dịch vụ xã hội có tác dụng phụ trợ cần thiết để tạo điều kiện cho cha mẹ kết hợp được nghĩa vụ gia đình với trách nhiệm lao động và tham gia vào

đời sống cộng đồng: về cung cấp sự bảo hộ đặc biệt khi phụ nữ có mang trong cơng

việc có hại đối với sức khỏe của họ và thai nhi.

(4) Quyền tham gia vào các hoạt động chính trị của phụ nữ (Quyền tham chính) Điều 7 CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho phụ nữ các quyên: quyền bau cử, ứng cử vào các cơ quan dân cử và giữ chức vụ ở các cơ quan công quyên; tham gia xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật và giữ chức vụ trong các cơ quan nhà nước ở mọi cấp; tham gia các tơ chức xã hội.

Luật Bình đăng giới năm 2006 của Việt Nam quy định: “Nam, nữ bình đẳng

<small>trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội”. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ</small>

nữ năm giữ các chức vụ trong bộ máy chính trị ở nước ta vẫn cịn hạn chế. Ví dụ:

<small>Xin xem Phụ lục 1.</small>

Tỷ lệ cán bộ, cơng chức của nước ta cịn rất thấp so với nam giới. Trong Quốc hội Việt Nam khóa 12, nữ chiếm 25,8% với 127 đại biểu, điều này phán ánh cơ hội phấn đấu tham gia vào các hoạt động chính trị của phụ nữ thấp hơn nhiều so với nam giới và sự bất bình đăng vẫn cịn tổn tại trong lĩnh vực này. Tuy vậy,

nhưng so với các nước khác ở khu vực Đông Á, Việt Nam là nước có tỷ lệ đại biểu

nữ trong Quốc hội cao nhất. Điều này cho thấy sự cố gắng, nỗ lực của nhà nước trong cơng tác bình đăng giới.

(5) Quyền bình đẳng của phụ nữ về việc làm

Phụ nữ thường có thu nhập ít hơn đàn ơng, đó là yếu tố làm phụ nữ bị phụ thuộc vào nam giới. Khi phụ nữ tự chủ về kinh tế mới có thé thốt khỏi địa vị phụ thuộc này. Do đó, bình đăng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm là một trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

những nội dung quan trọng va cơ ban nhất về bình dang nam, nữ trên phạm vi toàn cầu, trong từng quốc gia ké cả Việt Nam. Bình dang giới trong lĩnh vực lao động, việc làm là sự ngang nhau giữa lao động nam và lao động nữ về lĩnh vực lao động: về nghĩa vụ và quyền lợi hay cống hiến và hưởng thụ. Như vậy, khơng có nghĩa là phải bảo đảm bình đăng giới theo nghĩa tuyệt đối mà phải giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ ngang nhau thì có quyền lợi, quyền được hưởng thụ ngang nhau từ kết quả lao động; đồng thời tạo cơ hội như nhau giữa nam và nữ trong phát triển nghề nghiệp, tạo và tìm kiếm việc làm, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội và các điều kiện việc làm khác.

Quan điểm bình đăng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm được Công ước CEDAW quy định cu thé tại Điều 11 Khoản 1.

Nhằm đạt được mục tiêu bình đăng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm, Điều 13 Luật Bình dang giới đã quy định nội dung bình dang giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:

“Bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng.

Bình đẳng khi được đối xử tại nơi làm việc về việc làm, tiền cong, tién thuong, bao hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.

Bình dang về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được dé bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghệ có tiêu chuẩn, chức danh”.

(6) Quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân, gia đình

Trong hầu hết các xã hội, phụ nữ phải chịu đựng sự đối xử bất bình đăng ngay trong gia đình như hơn nhân cưỡng bức, quyền quyết định về con cái, tài sản (tài sản thường được dé lại thừa kế cho con trai)...

Theo Điều 16 Công ước CEDAW, quyền bình dang của phụ nữ trong quan hệ hơn nhân, gia đình gồm:

(i) Bình dang về kết hơn: phụ nữ được tự do quyết định việc kết hôn va lựa chọn người phối ngẫu. Vấn đề này liên quan Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam đã quy định độ tuôi kết hôn tối thiểu là từ 18 tuổi đối với nữ và từ 20

<small>tuôi với nam; việc đăng ký kết hôn là tự nguyện; chê độ hôn nhân một vợ một</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

chồng. Pháp luật Việt Nam hiện nay cam chế độ đa thê và tảo hơn với trẻ em.

(ii) Bình đăng trong hôn nhân và khi hôn nhân kết thúc: vợ và chồng cùng có quyền quản lý và quyết định với tài sản chung; cùng có quyền và trách nhiệm với con cái, việc xác định số con, khoảng cách giữa các lần sinh; việc cho nhận con nuôi; những tự do cá nhân như việc lựa chọn họ tên, quyết định lựa chọn nghề nghiệp, việc làm của người phụ nữ không bị phụ thuộc vào người chồng.

Theo pháp luật Việt Nam, Hiến pháp 1992 sửa đổi, b6 sung năm 2013 quy định: “Nam, nữ có qun kết hơn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiễn bộ, một vợ một chong, vợ chồng bình dang, tơn trọng lan nhau” (Khoản 1 Điều 36). Từ Hiến pháp, các luật chuyên ngành đã quy định cụ thể hơn như Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định bình đăng nam nữ trong các quan hệ dân sự, các quyền nhân thân trong đó có các quyền trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình (quyền kết hơn, qun ly hôn...) và được quy định chỉ tiết hơn nữa tại Điều 18 Luật Binh dang giới.

(7) Ngồi ra, Cơng ước CEDAW còn quy định các vấn đề khác liên quan đến

quyền bình đẳng của phụ nữ như: sửa đổi những tập tục và khn mẫu giới có tác động tiêu cực đến phụ nữ, quyền bình dang của phụ nữ trong giáo dục; ngăn chặn mọi hình thức bn bán và bóc lột tình dục phụ nữ; quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc tham gia các quan hệ quốc tế; quyền bình đăng về quốc tịch của phụ nữ... Đặc biệt là quyền bình đắng của phụ nữ trong vấn đề chăm sóc sức khỏe yêu cầu các thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhằm đảm bảo phụ nữ bình đăng VỚI nam giới trong việc tiếp cận với các dịch vụ này, kê cả dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Yêu cầu các quốc gia thành viên của Công ước phải đảm bảo cho phụ nữ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đặc biệt có liên quan đến chức năng làm mẹ, cụ thé là những dịch vụ về thai nghén, sinh đẻ và nuôi con và phải đảm bảo những dịch vụ này được cung cấp cho phụ nữ một cách miễn phí nếu cần thiết. (8) Hạn chế của Công ước CEDAW

CEDAW là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng đề cập một cách khá toàn

<small>diện đên các điêu kiện đảm bảo thực hiện nam nữ bình đăng, chỉ ra rắng sự “phân</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

biệt đối xử” là nguyên nhân dẫn đến các quyền con người của phụ nữ không được đảm bảo. CEDAW trao cho phụ nữ những quyền con người mà pháp luật quốc tế đã thừa nhận nhưng phụ nữ chưa được hưởng trên thực tế bởi họ phải chịu sự phân biệt đối xử. Tuy nhiên, sự thiếu sót của Công ước là không đề cập một cách cụ thể, rõ rang van đề bạo lực giới. Bao lực giới diễn ra khá phô biến ở tất cả các quốc gia và ảnh hưởng vô cùng xấu đến việc thực hiện và thụ hưởng các quyền con người của phụ nữ. Sự khiếm khuyết này phan nào được bồ sung trong Khuyến nghị số 19 của Ủy ban về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ thông qua tại kỳ họp thứ 11 năm 1992: “Bao luc giới tính là hành vi nhằm gây áp lực hoặc nhằm diéu khiển một người phụ nữ một cách khơng chính dang. Nó bao gom những hành hạ về thể chất, tỉnh thân hoặc gây tổn thương hay đau đón về tình dục, việc đe dọa gây ra những hành động như vậy, sự cưỡng chế và tước đoạt các tự do khác... ” (đoạn 6). 2.1.2 Quyền của trẻ em theo Luật quốc tế

2.1.2.1 Khái quát lich sử phát triển của van đề quyền trẻ em

Trẻ em là mầm non, tương lai của dân tộc. Bất cứ đâu và trong thời đại nào,

<small>trẻ em luôn nhận được sự quan tâm, bảo vệ của gia đình và xã hội do trẻ em là</small>

nhóm đối tượng dé bị ton thương nhất. Trong thời kì trước đây, trẻ em được bảo vệ từ góc độ tình thương, lịng nhân đạo, sự che chở chứ không phải dưới gốc độ nghĩa vụ bảo vệ quyền trẻ em. Từ thế ki XIV, châu Âu đã có những dự án cơng cộng dành

cho trẻ em. Ở châu Á, Bộ luật Hồng Đức của Việt Nam đã quy định trách nhiệm

của dân chúng va các quan lại địa phương phải giúp đỡ trẻ em tan tật, trẻ mô côi không nơi nương tựa; bảo vệ chăm sóc trẻ lạc, đồng thời quy định về trừng trị tội

<small>gian dâm với trẻ em gái; tôi buôn bán phụ nữ, trẻ em; giảm án và hoãn thi hành án với</small>

phụ nữ có thai, đang ni con nhỏ.. .[7, Điều 295, 313, 404, 453, 604, 605, 680].

Khi chiến tranh thé giới thứ I (1914-1918) nỗ ra, hàng triệu trẻ em ở châu Âu lâm vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như mồ cơi khơng nơi nương tựa, đói khát, bệnh tật và thương tích... Trong tình hình đó, hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và Thụy Dién được thành lập vào năm 1919. Vào năm 1923, bà

<small>Eglantyne Jebb — người sáng lập Quỹ cứu trợ trẻ em của nước Anh năm 1919 — đã</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

soạn thảo bản tun ngơn gồm 7 điểm, trong đó kêu gọi thừa nhận và bảo vệ các quyền của trẻ em. Bản tuyên ngôn này được Hội Quốc liên thông qua và gọi đây là Tuyên ngôn Geneva về quyền trẻ em. Trong văn bản pháp luật quốc tế này, thuật ngữ “quyền trẻ em” chính thức được ghi nhận. Việc bảo vệ trẻ em khơng chỉ cịn ở

<small>khía cạnh đạo đức xã hội mà trẻ em được bảo vệ trên cơ sở pháp luật, được coi là</small>

chủ thé quyền, cha me và các chủ thé liên quan có nghĩa vụ với trẻ em.

Sau khi Liên Hợp Quốc được thành lập và thông qua Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 và hai công ước về các quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế văn hóa năm 1966, trẻ em được thừa nhận là chủ thé bình đăng VỚI nguol trưởng thành trong việc hưởng tất cả các quyền va tự do được ghi nhận trong luật quốc tế về quyền con người.

Tính đến thời điểm hiện nay, văn kiện quốc tế quan trọng và toàn diện nhất về quyền trẻ em là Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (CRC) được

<small>thông qua ngày 20/11/1989.</small>

2.1.2.2 CRC - Văn kiện quốc tế cơ bản và tồn diện nhất về qun trẻ em

Cơng ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em — CRC (The UN Convention on the Rights of the Child) là điều ước quốc tế về quyền con người có số lượng quốc gia thành viên cao nhất tính đến thời điểm này.

Những nội dung chi yếu của CRC:

<small>(1) Định nghĩa trẻ em</small>

Theo Điều 1 Cơng ước CRC: “Tré em có nghĩa là bat kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hon”. Như vậy, tùy theo pháp luật từng quốc gia thành viên độ tuổi quy định trẻ em có thê dưới 18 và không quy định từ khi nào được coi là trẻ em. Lời nói đầu của CRC ghi rằng “trẻ em can được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kế cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý từ trước cũng như sau khi ra đời”. Pháp luật Việt Nam quy định “7rẻ em là công dan Việt Nam dưới 16 tuổi ” (Điều 1, Luật Bảo vệ,

<small>chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004).(2) Vai trị và trách nhiệm của cha mẹ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Theo quy định Điều 18 Công ước CRC, “các quốc gia thành viên phải có những cơ gang cao nhất dé bảo đảm việc thừa nhận nguyên tắc là cả cha và mẹ đều có trách nhiệm chung trong việc ni dưỡng và sự phát triển của con cai”. Trẻ em chưa phát triển hoàn thiện về thé chat va tinh than, rất nhạy cảm và dé bị tổn thương nên cần được phát triển trong mơi trường gia đình có cha mẹ. Ủy ban Quyền trẻ em khuyến nghị các quốc gia thành viên phải nỗ lực hết sức dé giảm thiểu số trẻ em bị bỏ roi và trẻ em m6 côi; không tách trẻ em khỏi môi trường gia đình trừ những trường hợp cần thiết vì lợi ích của trẻ, ví dụ như trẻ bị cha mẹ bỏ mặc, ngược đãi hay sỉ nhục; trẻ phải sống trong bối cảnh cha mẹ xung đột thường xuyên; cha mẹ khơng có khả năng ni con vì những lý do sức khỏe hay tâm thần... (đoạn 18, Bình luận chung số 7 của Ủy ban Quyền trẻ em). Chỉ cơ quan nhà nước có thâm qun, thơng thường là tòa án mới được quyết định việc cách ly giữa trẻ em và cha

(3) Họ tên và quốc tịch

Dé được hưởng thụ day đủ các quyền co bản, trẻ em cần có họ tên và quốc tịch. Nếu bị tước quyền họ tên và quốc tịch, trẻ em sẽ không có cơ hội hưởng thụ những quyền cơ bản nhất như quyền được học tập, quyền được chăm sóc y tế... Do đó, ngồi việc ban hành các quy định pháp luật quốc gia về quyền có họ tên và quốc tịch, các nước thành viên cần ký kết và tuân theo các điều ước quốc tế về vấn đề hơn nhân có yếu tố nước ngồi, nhập cư, cho nhận con nuôi...

Theo Ủy ban quyền trẻ em, CRC áp đặt nghĩa vụ với các quốc gia thành viên phải bảo vệ mọi trẻ em hiện diện trên lãnh thô nước mình, bao gồm trẻ em là cơng dân nước mình, trẻ em ty nạn, trẻ em nhập cư, di cư bất ké trẻ em đó có quốc tịch nước nào hoặc khơng quốc tịch và đến nước đó bằng cách nào.

<small>(5) Giáo dục</small>

Điều 28, 29 Công ước CRC quy định về giáo dục trẻ em của các quốc gia thành viên. Theo đó, trẻ em phải được tạo mọi điều kiện để tiếp cận và học tập từ bậc tiểu học đến đại học cũng như dạy nghề tùy theo khả năng của từng em. Giáo

<small>dục tiêu học là bat buộc, sắn có và miên phí cho tat cả mọi người. Môi trường giáo</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

dục, kỷ luật nhà trường phải thực hiện phù hợp với nhân phẩm của trẻ em và theo

<small>đúng Công ước này.</small>

(6) Bảo vệ trẻ em khỏi bị bóc lột về kinh tế

Điều 32 Công ước CRC quy định: “Tré em được bảo vệ khơng bị bóc lột về kinh tế và khơng phải lam bat kỳ cơng việc gì nguy hiểm hoặc ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ em, hoặc có hại đối với sức khỏe hay sự phat triển về thé chất, tri tuệ, tinh than, đạo đức hay xã hội của trẻ em”, quy định một hay nhiều mức tuổi tôi thiểu, giờ giấc và điều kiện đối với lao động trẻ em cũng như hình thức phạt tiền và

<small>các hình thức phạt khác.</small>

Ngồi sáu vấn đề chính nêu trên, Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em còn quy định những vấn đề khác như: tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em; cách ly với gia đình; khơng phân biệt đối xử; lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em...

<small>- Việc thực hiện Công ước CRC ở Việt Nam:</small>

Trong những năm qua mặc dù cịn có những khó khăn nhưng các điều khoản cơ bản của Công ước về quyền trẻ em đã dần dần được đưa vào chiến lược phát triên và Luật pháp quốc gia. Bằng những chính sách, chương trình hoạt động chăm lo đến trẻ em Chính phủ đã quyết tâm thực hiện có hiệu quả Cơng ước quốc tế về trẻ em, từng bước đưa nội dung cơ bản của Công ước vào các chiến lược kinh tế — xã hội. Những bước quan trọng đã được thé hiện dé thi hành Công ước nhằm tăng việc bảo vệ quyên trẻ em. Các văn bản pháp Luật quan trọng liên quan đến trẻ em như: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phổ cập giáo dục tiểu học, Bộ Luật Lao động và Bộ Luật Dân sự được ban hành trong đó có vận dụng các điều khoản của Công ước về quyền trẻ em.

Với tinh thần “7rẻ em hôm nay thé giới ngày mai”, Đảng va Nhà nước luôn mong muốn những điều tốt đẹp cho trẻ em. Điều này được minh chứng bằng những chính sách ưu tiên đối với trẻ em qua: một số chương trình, Quyết định, Chỉ thị, liên quan đến trẻ em: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em 1999 — 2000, Chi thị 38/CT-TW của Ban Bi thư TW Đảng về tăng cường bảo vệ và chăm sóc trẻ em, tiếp đó đến quyết định số 34/1991/QD-TTG ngày 27/12/1991 của Thủ tướng chính phủ

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

về trẻ em, tổng kết chương trình quốc gia hành động về trẻ em 1999 — 2000; Quyết định số 23 ngày 25/02/2001 phê duyệt chương trình hành động quốc gia vì trẻ em

<small>Việt Nam giai đoạn 2001 — 2010.</small>

Tóm lại, cả hai văn kiện pháp lý quốc tế này bổ xung và hỗ trợ cho nhau,

hợp thành và tạo lập một bộ luật có sức mạnh to lớn dé khang dinh va bao vé cac

quyền con người của phụ nữ va trẻ em làm cơ sở pháp ly co bản trong việc hướng tới một thế giới cơng bằng và bình đăng cho phụ nữ và trẻ em. Hai công ước này không chỉ khăng định các quyền con người của phụ nữ và trẻ em mà còn đề cập trực tiếp mối quan hệ giữa phụ nữ, trẻ em, gia đình và nhà nước.

Hai cơng ước phát triển các quyền của phụ nữ và quyền trẻ em trong phạm vi khuôn khổ chung của Tuyên bố thế giới về quyền con người, Công ước về các quyền dân sự và chính trị, Cơng ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Cả CRC và CEDAW nhắn mạnh răng quyền con người tổng quát, không chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và hợp tác quốc tế là rất quan trọng trong việc bảo đảm các quyền này. 2.2 Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tốn thương là phụ nữ và trẻ em

2.2.1 Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về các quyền nhân thân Trong pháp luật Việt Nam, Hiến pháp là đạo luật gốc, là cơ sở đầu tiên và quan trọng nhất dé hình thành và phát triển các quyền nhân thân thơng qua sự cụ thé hóa trong Bộ luật dân sự. Do vậy, sự phát triển của quyền nhân thân cũng gan VỚI các bản Hiến pháp.

- Quyền nhân thân trong giai đoạn Hiến pháp 1946: Hiến pháp 1946 ra đời khi đất nước Việt Nam còn thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Khao khát của cả dân tộc ta lúc đó là tự do và phấn đấu giành quyền tự do dân chủ

<small>cho con người như: “Nhà ở và thư tín của cơng dân Việt Nam, khơng ai được xâm</small>

phạm một cách trái pháp luật” hay các quy định của pháp luật liên quan tới quyền bau cử và ứng cử (Điều 18)... Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1946, các văn bản pháp luật có hiệu lực sau Hiến pháp giai đoạn này cũng đã cụ thé hóa quyền nhân thân, trong đó có Luật Báo chí có hiệu lực từ ngày 20/5/1957 quy định về

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

“quyền tự do ngơn luận”; khi báo chí đăng tin sai sự thật, vu khống thì phải xin lỗi và tùy mức độ người bị vi phạm có thé u cầu Tịa án giải quyết.

Ở Mỹ, quyền bình dang nam nữ chỉ được khang định sau 131 năm ké từ khi Mỹ có Hiến pháp (1789). Cịn chúng ta ngay từ những ngày đầu tiên giành được

chính quyên, Nhà nước đã chú trọng đến bảo vệ quyền con người, đặc biệt là bảo vệ

quyền của phụ nữ và trẻ em. Có thé nói, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đạo luật cơ bản của nhà nước - Hiến pháp 1946 đã khang định: “Đàn bà ngang quyên với đàn ông” (Điều 9). Điều này thê hiện thái độ trân trọng, đánh giá đúng những đóng góp của phụ nữ, tạo tiền đề và cơ sở cho những chuyền biến hết sức to lớn về vi tri và vai trò của phụ nữ trong pháp luật và thực tế xã hội ở Việt Nam giai đoạn sau này. Bên cạnh đó, Hiến pháp 1946 đã quy định về quyền được giáo dục và giáo dưỡng của trẻ em, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên khắng định các quyền cơ bản của trẻ em là quyền được học tập và chăm sóc.

- Quyền nhân thân giai đoạn 1959 - 1980: Trên cơ sở kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 đã có một chương về “quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân” quy định các quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng bao gồm 21 Điều, quy định công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hồ có quyền làm việc. Nhà nước dựa vào sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc

dân, dần dần mở rộng công việc làm, cải thiện điều kiện lao động và lương bồng, đề

bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó (Điều 30), Quyền học tập, tự do nghiên cứu khoa học. Quy định này có ý nghĩa lịch sử xã hội sâu sắc, một mặt tạo niềm tin cho con người mới xã hội chủ nghĩa, một mặt động viên, khích lệ nhân dân ta tinh thần đấu tranh chống sự xâm lược của dé quốc Mỹ. Đặc biệt, Hiến pháp 1959 đã quy định cụ thé và chi tiết về quyền bình dang của phụ nữ: “Phu nit nước Việt Nam dân chủ cộng hịa có qun bình dang với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” (Điều 24) và gắn kết quyền lợi của trẻ em với quyên lợi của phụ nữ “Nhà nước bảo hộ quyên lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ

<small>hơn nhân và gia đình ”.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

- Quyền nhân than thé hiện trong Hiến pháp 1980: Bao gồm 28 điều trong quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, kế thừa được Hiến pháp 1959 và bổ sung dé phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta thời điểm đó. Khơng dừng ở việc quy định những ngun tắc về bình đăng nam nữ và những lợi ích kinh tế, xã hội cụ thé cho phụ nữ, Hiến pháp 1980 đã đi sâu vào vấn đến bình đăng giới,

<small>giải phóng phụ nữ khi quy định trách nhiệm của nhà nước và xã hội chăm lo nâng</small>

cao trình độ chính trị, văn hóa... của phụ nữ. Quyền lợi của trẻ em lần đầu tiên

<small>được đặt cạnh trách nhiệm của gia đình trong việc ni dạy, chăm sóc, giáo dục trẻ</small>

em. Bên cạnh đó, chúng ta cịn ký kết và tham gia các công ước quốc tế về quyền con người. Việt Nam là nước thứ 6 trên thế giới ký Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ ngày 29/7/1980. Cùng với đó, Việt Nam cũng tham gia Cơng ước về quyền trẻ em ngày 24/2/1990; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. Mặc dù vậy, một số quy định về quyền dân sự cũng như quyền nhân thân của cá nhân lúc đó như chế độ học không phải trả tiền hay chế độ khám chữa bệnh hồn tồn miễn là khơng tưởng trong hồn cảnh nước ta bấy giờ (Điều 60, Điều 61...).

- Quyền nhân thân được pháp luật quy định trong giai đoạn 1992 - nay: Lan đầu tiên khái niệm “quyền con người” được dé cập tại Điều 50 Hiến

<small>pháp 1992 và trong lịch sử lập pháp của Việt Nam, Bộ luật Dân sự 1995 là văn bản</small>

pháp ly đầu tiên dé cập tới “quyền nhân thân” đánh dau một bước phát triển quan trọng trong q trình hiện thực hóa quyền con người. Kế thừa những quy định của bộ luật dân sự 1995 về quyền nhân thân, Điều 24 Bộ luật Dân sự 2005 quy định khái niệm quyền nhân thân như sau: “Quyên nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyên dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người

<small>khác, trừ trường họp pháp luật có quy định khác”.</small>

Khi Hiến pháp 1992 ra đời, quyền trẻ em cũng đã trở thành một chế định hồn chỉnh chứ khơng cịn là những quy định riêng lẻ như các Hiến pháp trước. Nhận thức được trẻ em là tương lai của đất nước và là đối tượng dễ bị tôn thương, Hiến pháp 1992 một lần nữa khang định quyền cơ bản, thiêng liêng của trẻ em gồm

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

quyền được học tập, chăm sóc và bảo vệ về mặt sức khỏe, thê chất. Hiến pháp đặc biệt nhân mạnh nghĩa vụ bảo vệ, chăm sóc, giao dục trẻ em là của gia đình, nhà nước và xã hội. Khi xã hội phát triển sang một giai đoạn mới, địa vị của phụ nữ

<small>được coi là một tiêu chí của trình độ văn minh, một trong những tiêu chí cơ bản</small>

nhất của sự nghiệp giải phóng con người thì Hiến pháp 1992 cũng hoàn thiện hơn với những quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ và phát huy vai trị của mình trong xã hội, góp phần giảm gánh

nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, cơng tác, học tập, nghỉ ngơi và

làm tròn bồn phận của người me.

Mặc dù vậy hiện nay, tại một số địa phương và gia đình, phụ nữ vẫn đang phải chịu sự bất bình dang về giới ngay chính trong gia đình và cả ngồi xã hội. Họ thường có địa vị về kinh tế và chính trị thấp hơn so với nam giới do bị hạn chế các điều kiện để phát triển bản thân và khơng được khuyến khích tiềm năng lãnh đạo. Trong rất nhiều gia đình, phụ nữ bị hành hạ và bạo lực gia đình là một trong những ngun chính dẫn đến ly hơn. Cha mẹ ly hôn khiến trẻ em phải sống trong những gia đình khuyết, chịu những ảnh hưởng về tâm lý và có nguy cơ phát triển lệch lạc so với những trẻ em được sống trong gia đình hạnh phúc. Từ những đặc điểm đó mà trên thế giới hay ở Việt Nam, phụ nữ và trẻ em đều là nhóm đứng đầu trong nhóm người dé bị tơn thương. Chi có dành quyền bình dang cho người phụ nữ, bảo vệ quyên lợi của con chưa thành niên trong mối quan hệ gia đình mới có thé nói đến bảo vệ phụ nữ và trẻ em một cách thực sự. Dưới đây là một số van đề quan trọng và nổi bật mà tác giả lựa chọn phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền nhân thân của nhóm người dé bị tổn thương là phụ nữ và trẻ em.

2.2.2 Bảo vệ quyền nhân thân của trẻ em khi cha mẹ ly hôn 2.2.2.1 Ly hôn và hậu quả của ly hôn đối với tré em

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac — Lénin, ly hơn là một mặt trái, mặt bất bình thường nhưng lại là mặt không thé thiếu của quan hệ hôn nhân và gia đình. Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định: “Ly hôn là việc cham dứt

<small>quan hệ hôn nhân do Toa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cấu của vợ hoặc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

của chong hoặc cua cả hai vợ chong” (Khoan 8 Diéu 8). Khi ly hôn, cha, me là

<small>người đã trưởng thành, có khả năng lao động, tự lập, chăm sóc và định hướng cuộc</small>

song cho ban thân. Nhưng trẻ em dang ở cái tuổi chỉ biết học tập và vui chơi thì đã phải chịu những tốn thương lớn về mặt tâm ly vì cha mẹ ly hơn. Trẻ sẽ có những biểu hiện như: mặc cảm, ngại tiếp xúc bên ngồi, thiếu cởi mở khi nói về gia đình khơng trọn vẹn của mình. Lúc này, trẻ chỉ cịn ở với một người, thậm chí sự gần gũi gan bó giữa các anh chi em cũng bị chia cách khiến trẻ cảm giác bị bỏ rơi, không còn hồn nhiên như bạn bè đồng lứa, dé vướng vào những cam bẫy và có thé sa vào

<small>con đường phạm pháp.</small>

Ngồi những hậu quả về mặt xã hội thì cha mẹ ly hơn cịn dẫn đến những hậu quả pháp lý đối với con cái. Khi ly hôn, quan hệ hôn nhân sẽ cham dút, tuy nhiên quan hệ huyết thống và nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con khơng thay đổi. Do đó, về mặt pháp luật, quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng đối với nhau sẽ cham dứt nhưng các quyên và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con van tồn tại. Đây là quy định nhằm bảo vệ quyền của con khi cha, mẹ ly hơn. Khi cha, mẹ khơng cịn chung sống, pháp luật quy định con sống với một người, là người có thé đảm bảo lợi ích tốt hon cho trẻ. Từ đó, cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con có sự thay đôi, đặc biệt đối với người không trực tiếp nuôi con. Người không trực tiếp nuôi sẽ thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng một cách gián tiếp qua việc thăm nom, cấp dưỡng cho con.

2.2.2.2 Quy định pháp luật về quyên trẻ em khi cha me ly hôn

Trẻ em sinh ra cần được sự chăm sóc, bảo vệ của gia đình và xã hội. Khi cha mẹ ly hơn, trẻ em là người thiệt thịi hơn cả. Vì vậy mà pháp luật và xã hội đều quan tâm đến quyền trẻ em dé có thé đưa các em hòa nhập với cuộc sống.

Xuất phat từ quyền con người hay quyền của trẻ em, Điều 7 Công ước CRC cơng nhận trẻ em có quyền “được cha mẹ mình chăm sóc ”. Nội dung của Cơng ước được thể hiện trong pháp luật Việt Nam tại Điều 41 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Các thành viên trong gia đình có qun được hưởng sự chăm sóc, giúp ao nhau phù hop với truyền thong đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Con, cháu chưa

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

thành niên được hưởng sự chăm sóc, ni dưỡng của cha mẹ, ông bà”. Đề đảm bao quyền nhân thân của trẻ em khi cha, mẹ ly hôn, quy định tại Điều 41 đã được cụ thé chỉ tiết tại các văn bản luật chuyên ngành như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: “Cha mẹ, người giảm hộ là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc, ni dưỡng trẻ em, dành diéu kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em”, “Trong trường hợp ly hôn... người cha hoặc người mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên phải có nghĩa vụ đóng góp để ni dưỡng con đến tuổi thành

<small>niên, có trách nhiệm cham sóc, giáo duc con theo quy định của pháp luật”</small>

(Khoanl, 4 Điều 24). Nghĩa vụ chăm sóc và cấp dưỡng cho con khi ly hôn cũng được quy định tại các Điều 36, Điều 56 Luật HN&GD năm 2000. Bên cạnh đó là quyền thăm nom con sau khi ly hôn của người không trực tiếp nuôi dưỡng (Điều 94) dé đảm bảo đứa trẻ vẫn có sự quan tâm, chăm sóc của cả cha và mẹ.

* Quyên và nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con

+ Trẻ em chưa có khả năng tự chăm lo cho bản thân nên rất cần sự chăm sóc,

<small>ni dưỡng, giáo dục của cha mẹ. Mặt khác, cha mẹ là người sinh ra các con vì vậycha mẹ cũng là người có trách nhiệm ni dưỡng con đặc biệt là khi họ đã ly hôn.</small>

Tuy nhiên, khi cha mẹ ly hơn, trẻ em chỉ cịn song với một người là cha hoặc mẹ. Vấn đề giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục là hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định tương lai của con cái. Người trực tiếp nuôi dưỡng, cùng sống với con sẽ ảnh hưởng rat lớn đến sự phát triển nhân cách, trí tuệ và sức khỏe của trẻ. Khoản 2 Điều 92 LHNGĐ quy định: “Vo chong thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyên và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hơn”. Quy định này hồn tồn phù hợp với nội dung Điều 41 BLDS 2005. Tuy nhiên, nó có phần khơng chặt chẽ bởi sự thỏa thuận của vợ chồng có thể khơng vì lợi ích của con mà dựa vào những toan tính hay quyền lợi của cha mẹ chúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần có sự can thiệp hợp lý về nội dung thỏa thuận, hướng dẫn, giải thích sao cho người cha, người mẹ hiểu cần phải làm gì để đem lại lợi ích tốt nhất

<small>cho con.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Giao con cho ai nuôi cần xuất phát từ quyền lợi của con nên người con có quyền bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình: “Nếu con từ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con” bằng việc “Tòa án phải hỏi ý kiến của người con đó vé nguyện vọng trực tiếp sống với ai” (Diém d, mục 11 Nghị quyết 02/2000). Chín tudi là độ tuôi trẻ em phân biệt được yêu, ghét, ai quan tâm tới mình hơn và muốn được ở cùng ai hơn. Tâm lý là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Vì vậy cần tôn trọng quyền quyết định, lựa chọn của trẻ. Nếu ép trẻ sống với người không mong muốn sẽ khiến các em có suy nghĩ tiêu cực rằng cha, mẹ khơng cịn quan tâm, u thương con cái mà xa lánh cha, mẹ hoặc có thê bỏ nhà đi. Quy định này rất tiến bộ và phù hop với Công ước CRC: “J.Các quốc gia thành viên phải dam bao cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyên tự do phát biểu những quan điểm đó vé mọi van dé tác động đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng, tương ứng với độ tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ. 2. Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt trao cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bat ki qua trinh tổ tụng tu pháp hoặc hành chính nào có liên quan đến trẻ... ”. Mac dù vậy, việc thê hiện ý chí

<small>của trẻ khơng phải lúc nào cũng đạt được mục đích của các nhà làm luật đặt ra. Bởi,</small>

nhiều em còn dè đặt, thậm chí sợ hãi, khóc khơng nói được gi hoặc trả lời ở với ai cũng được hay muốn ở với cả cha và mẹ. Khi đó, Tham phán phải xem xét một cách toàn diện dé đưa ra quyết định đúng đắn và sáng suốt của mình.

+ Việc một người ni con sẽ gặp rất nhiều khó khăn và cần sự hỗ trợ của người cịn lại. Do đó, để duy trì và đảm bảo các nhu cầu thiết yêu về mặt vật chất cho con và thể hiện trách nhiệm của người làm cha, mẹ pháp luật quy định: “Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp ni con chưa thành niên... có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con” (Điều 56 LHNGĐ). Tuy nhiên, trong quy định của pháp luật hiện nay chưa có thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Do đó cần quy định một căn cứ chung dé xác định thời điểm người không trực tiếp nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Thời điểm này phải đảm bảo đáp ứng các nhu các nhu cầu và lợi ích hợp pháp, thiết yếu cho người con. Chang hạn là thời điểm người cha hay người mẹ

</div>

×