Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Quyền nhân thân và phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.54 KB, 22 trang )

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh
Cách mạng của nhân dân lao động, mở ra một trang sử mới của dân tộc mà ở đó con người
và quyền con người được tôn trọng và bảo vệ. Trong bản Tuyên ngôn độc lập độc ngày 29-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn một câu nói rất nổi tiếng trong Bản tuyên ngôn
nhân quyền của nước Mỹ, đó là “mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể chối cãi. Trong các quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” - đó là cơ sở ban đầu thể hiện sự quan tâm coi trọng của Nhà
nước ta đối với vấn đề xác lập và bảo vệ quyền con người.
Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 ra đời đã khẳng định vị trí làm chủ của nhân ta bằng
việc công nhận nhân dân ta có quyền bầu cử, ứng cử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,…
Và sau này trong các bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp 1992
các quyền cơ bản của công dân lại tiếp tục được khẳng định, mở rộng và phát triển thành
chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Đến nay quyền công dân được phân chia thành 5
nhóm quyền: Quyền chính trị, quyền dân sự, quyền kinh tế, quyền văn hóa và các nhóm
quyền xã hội.
Pháp luật dân sự là công cụ để thực hiện quyền dân sự của cá nhân. Quyền dân sự đã trở
thành quyền cơ bản không thể thiếu được của mỗi cá nhân, gắn liền với mỗi cá nhân thể
hiện dưới hai dạng: Quyền về tài sản và quyền nhân thân của cá nhân.
Quyền nhân thân là một trong những quyền dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng được
pháp luật của các quốc gia trên thế giới ghi nhận và bảo vệ. Kể cả trong công ước quốc tế
là những văn bản pháp lý cấp cao nhất cũng đã đề cập tới vấn đề quyền nhân thân của con
người như tại công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 hay tại bộ luật
nhân quyền thế giới…Cùng với các văn bản pháp luật khác, Bộ luật dân sự ( BLDS ) của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận và có những cơ chế để bảo vệ
quyền nhân thân của chủ thể. Chính vì thế em đã lựa chọn đề tài “Quyền nhân thân và
phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân” để nghiên cứu. Trong quá
trình làm bài không tránh khỏi những sai sót về mặt nội dung cũng như hình thức trình bày
kính mong quý thầy cô thông cảm!
Sinh viên, Nguyễn Thị Hồng Anh


MSSV 360366

NỘI DUNG
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

I, NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN NHÂN THÂN:
1,Cơ sở hình thành và phát triển quyền nhân thân của cá nhân
1.1.Cơ sở lý luận:
Trong mối quan hệ giữa tự nhiên, xã hội và con người, thì tự nhiên là cái có trước con
người, nhưng con người không chỉ thích ứng với tụ nhiên, mà còn cải tạo tự nhiên. Quá
trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình cong người phát triển và tự hoàn thiện
mình. Khác với tự nhiên, xã hội không thể xuất hiện trước con người, mà ra đời cùng với
con người. Xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành con người, vig không thể
có con người sống ngoài xã hội.Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm
của xã hội. Nói cách khác con người là một thực thể sinh học – xã hội, vừa là một cơ thể
sống, vừa mang bản chất xã hội. Điều này đã làm cho con người khác với những thực thể
sinh học khác ở chỗ chỉ con người mới được hưởng những đặc lợi do địa vị làm người
mang lại, đó chính là quyền con người.
“Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng
trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định”. Xuất hiện, tồn tại, vận
động và phát triển gắn với quá trình tiến hóa của lịch sử xã hội loài người, quyền con
người được coi là một hiện tượng lịch sử xã hội có quá trình phát triển lâu dài đi từ đơn lẻ
đến đa dạng, phong phú về nội dung.
Tư tưởng về quyền con người manh nha từ thời cổ đại và trung đại, thể hiện trong quan
niệm về sự bình đẳng và tự do giữa những con người trong xã hội của nhà triết học
Protagera: “Thượng đế tạo ra mọi người, đều là người tự do, tự nhiên không ai biến thành
nô lệ cả. Thế kỷ XVII, XVIII là thời kỳ hình thành và hưng thịnh các tư tưởng và học

thuyết về quyền con người. Lần đầu tiên những nguyên tắc cơ bản về quyền con người
được thiết lập. Một nội dung nổi bật trong các nguyên tắc đó là: Mục đích của nhà nước là
bảo đảm quyền con người và tự do cho các công dân. Bản thân con người sinh vốn là tự do
và bình đẳng về quyền lợi va luôn luôn phải được đảm bảo để tự do và bình đẳng. Nguyên
tắc này đã được hoàn chỉnh dần trở thành tiền đề của quyền con người cơ bản.
Trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển, quyền con người là một khái niệm rộng
lớn, phức tạp thậm chí đầy mâu thuẫn. Mặc dù vậy, khi nói đến bản chất của quyền con
người, bao giờ nó cũng thể hiện tính tự nhiên và tính xã hội. Hai thuộc tính này tồn tại tất
yếu và có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Tính tự nhiên cho thấy quyền con
người là đặc quyền vốn có của con người( quyền tự nhiên), nhưng những quyền này lại bị
chi phới bởi sự phát triển của xã hội, làm cho nội dung quyền con người chứa đụng tính
đặc thù, gắn liền với lịch sử truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội của mỗi quốc gia. Tuy nhiên có những quyền mà dù ở quốc gia nào thì nó vẫn

2


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

luôn được đảm bảo, sự hiện diện của những quyền này là ranh giới khẳng định việc có hay
không có quyền con người, đó chính là những quyền con người cơ bản.
Quyền con người cơ bản được đề cập đến lần đầu tiên trong Tuyên ngôn độc lập của hợp
chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 khi cho rằng: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng và đấng tạo
hóa dành cho họ một số quyền không thể bị tước đoạt, trong các quyền đó có quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn đã nhấn mạnh bốn quyền cơ bản
nhất của con người đó là quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Đây là những quyền quyết định cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Đồng thời cũng là những quyền mà con người mong muốn được thừa nhận đầu tiên trong
những đặc quyền của mình.
Dù là quyền con người hay quyền con người cơ bản thì đều là những khái niệm thể hiện xu

hướng, yêu cầu, quan niệm; thể hiện năng lực khả năng và ý chí. Cuộc sống xã hội hiện tại
đòi hỏi quyền con người phải được xác định với những nội dung cụ thể và hiện thực. Trong
đời sống cuộc tế hiện nay, quyền con người được chia làm hai nhóm chính như sau: Nhóm
các quyền dân sự và chính trị; Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, văn hóa. Mỗi nhóm
quyền là sự thể hiện quyền con người ở một khía cạnh đặc trưng riêng. Đây chính là nền
tảng để các quốc gia nội luật hóa quyền con người trong pháp luật của đất nước mình.
Một trong những đặc trưng rất quan trọng của quyền con người đó là được đảm bảo bởi
Nhà nước và pháp luật. Nhà nước và pháp luật là công cụ, là phương tiện để đảm bảo thực
hiện quyền con người. Thông thường, Nhà nước ghi nhận quyền con người dưới dạng
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Khi quyền con người trở thành đối tượng điều
chỉnh của pháp luật, được xác nhận trong hệ thống quyền và nghĩa vụ của công dân thì
quyền con người mới được thể hiện thành thực. Quyền con người và quyền công dân là hai
khái niệm phân biệt nhưng lại có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, không có sự đối
lập giữa quyền con người và quyền công dân. Không thể có quyền công dân bên ngoài
quyền con người, ngược lại, không có quyền con người nào thoát ly khỏi quyền công dân,
không coi quyền công dân như một bộ phận, một nội dung cơ bản của nó. Một mặt khái
niệm quyền con người không loại trừ khái niệm quyền công dân và cũng không thay thế
được nó. Mặt khác khía niệm quyền công dân cũng không bao trùm hết được những nội
dung của quyền con người.
Quyền công dân tạo nên địa vị pháp lý của công dân trong xã hội, thể hiện mối liên hệ về
mặt pháp lý giữa một cá nhận và một quốc gia. Mối liên hệ này sẽ ràng buộc hành vi của
công dân vào hệ thống pháp luật của quốc gia, đầu tiên là Hiến pháp, sau đó là các văn bản
pháp luật khác.

3


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Hiến pháp là văn bản quy phạm chứa đựng quyền công dân ở khía cạnh cơ bản nhất, chung

nhất mang tính nguyên tắc, cụ thể hóa nó là nhiệm vụ của các nghành luật, trong đó có luật
dân sự.
Luật dân sự là nghành luật độc lập chứa đựng những quyền công dân ở lĩnh vực dân sự. Có
thể nói đây là lĩnh vực phổ biến và có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với sự tồn tại của cá
nhân.
Trong đời sống dân sự, giá trị tài sản và giá trị nhân thân đóng vai trò quan trọng ngang
nhau, là cơ sở hình thành nên những quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật
dân sự. Quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân tồn tại như hai mặt của một vấn đề, trong đó
quan hệ tài sản mang lại những lợi ích vật chất, còn quan hệ nhân thân mang lại những lợi
ích tinh thần cho con người. Pháp luật dân sự được xây dựng để điều chỉnh hai nhóm quan
hệ đó.
1.2.Cơ sở pháp lý:
1.2.1.Cơ sở pháp lý quốc tế:
Việc trở thành các thành viên hoặc gia nhập các điều ước quốc tế về quyền con người là
biểu hiện của sự quan tâm đến vấn đề quyền con người nói chung, quyền nhân thân của cá
nhân nói riêng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên của Liên hợp quốc đề cập đến vấn đề quyền nhân thân là
tuyên bố thế giới về quyền nhân thân năm 1948. Trên cơ sở “thừa nhận phẩm giá vốn có và
các quyền bình đẳng và bất di bất dịch của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền
tảng của tự do công bằng và hòa bình thế giới”. Tuyên ngôn đã quy định mọi người đều có
quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân(điều 3); không ai bị bắt giữ làm nô lệ(điều 4);
không ai bị tra tấn hoặc nhục hình (điều 4); không ai bị bắt bớ, giam cầm, đầy ải một cách
vô cớ(điều 9); không ai phải chịu sự can thiệp vô cớ đến đời sống tư, gia đình, nhà cửa,
danh dự, uy tín cá nhân(điều 12); mọi người đều có quyền có một quốc tịch(điều 15); có
quyền kết hôn(điều 16).
Trên cơ sở nội dung trong tuyên ngôn nhân quyền, Liên hợp quốc đã thông qua hai văn bản
chuyên biệt đánh dấu sự phát triển về quyền nhân thân của cá nhân. Đó là công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa năm 1966.
Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị quyền nhân thân được quy định

đầu tiên là quyền sống: “Mỗi người đều có quyền được sống. Quyền này được pháp luật
bảo vệ. Không ai bị tước đoạt mạng sống một cách vô cớ.(Điều 6). Đây là sự khẳng định
lại một lần nữa quyền cơ bản nhất của con người. Ngoài ra, còn có một số quyền nhân thân
khác như quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân(điều 9); quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng và tôn giáo(điều 80; quyền tự lập hội(điều 22); quyền kết hôn và thành lập gia đình
của nam và nữ khi đến tuổi(điều 23).

4


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Thể hiện quyền nhân thân của cá nhân ở một khía cạnh khác, trong Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, quyền nhân thân của cá nhân đươc thừa nhận như là
một đảm bảo cho con người được sống không bị sợ hãi và thiếu thốn. Công ước đã ghi
nhận các quyền như quyền bình đẳng giữa nam và nữ(điều 3); quyền có việc làm(điều 6);
đặc biệt Công ước thừa nhận quyền của mọi người được có một mức sống no đủ, quyền
được ăn đủ, mặc đủ và có nha ở; quyền được cải thiện không ngừng điều kiện sống(điều
11).
Những quy định trong văn bản pháp lý quốc tế là điều kiện ràng buộc các quốc gia trong
việc nội luật hóa pháp luật quốc tế. Đây là một đòi hỏi mang tính nguyên tắc, đồng thời
cũng là biểu hiện của cơ sở pháp lý quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người, quyền
nhân thân của cá nhân.
1.2.2.Cơ sở pháp lý quốc gia:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta, mở ra một trang mới cho lịch sử dân tộc, đồng thời cũng là mốc
đánh dấu quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam.
*Các bản Hiến pháp:
Ngay trong bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thừa nhận quyền con người cơ bản, qua đó thể hiện tư

tưởng vì nhân quyền và dân quyền của nhà nước ta. Tư tưởng ấy đã xuyê suốt trong lịch sử
lập hiến và lập pháp.
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta(Hiến pháp năm 1946), việc bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ của công dân đã trở thanh một trong ba nguyên tắc cơ bản. Với Hiến
pháp mới, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, những người dân nô lệ trước đây thực sự trở
thành người chủ đất nước được bảo đảm các quyền tự do, dân chủ.
Trong 26 quyền cơ bản của công dân mà Hiến pháp năm 1946 quy định, các quyền dân sự
chiếm đa số(12 quyền). Điều đó nói lên rằng nhà nước ta rất quan tâm đến đời sống dân sự
của người dân. Những quyền nhân thân của cá nhân lần đầu tiên được quy định trong Hiến
pháp bao gồm: Quyền tự do ngôn luận; quyền tự do xuất bản; quyền tự do tín ngưỡng;
quyền tự do cư trú trong nước; quyền tự do đi lại trong nước; quyền tự do ra nước ngoài;
quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền bất khả xâm phạm nhà ở; quyền bất khả xâm
phạm về thư tín.
Hiến pháp năm 1959 là bước phát triển mới trong việc ghi nhận quyền con người, trong đó
có những quyền nhân thân của cá nhân và những đảm bảo pháp lý cho chúng. Hiến pháp
năm 1959 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đã có những thay đổi lớn trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, xã hội, theo xu hướng ngay càng mơt rộng các quyền con người. Bên cạnh việc
kế thừa những quyền dân sự nói chung, quyền nhân thân nói riêng trong Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp 1959 đã xác định quyền nhân thân mới là quyền tự do biểu tình (điều 17)

5


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

đồng thời quy định rõ ràng hơn quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại không phân biệt
trong nước hay ngoài nước như Hiến pháp 1946.
Hiến pháp năm 1980 ra đời trong điều kiện nước nhà thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội, các quyền dân sự của cá nhân được bổ sung và phát triển; đặc biệt riêng đối
với quyền nhân thân của cá nhân, đã có những quyền lần đầu tiên xuất hiện đó là: Quyền

được pháp luật bảo hộ về tính mạng(điều 70); quyền được pháp luật bảo hộ về danh
dự(điều 70); quyền được pháp luật bảo hộ về nhân phẩm; quyền được bảo đảm bí mật về
điện thoại; quyền được bảo đảm bí mật về điện tín; quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp(điều 72).
Đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ quyền nhân thân của cá nhân là sự ra đời của Hiến
pháp 1992. Bên cạnh việc kế thừa những quyền nhân thân của Hiến pháp năm 1980, Hiến
pháp năm 1992 đã bổ sung những quyền nhân thân của cá nhân hoàn toàn mới đó là:
Quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe( điều 13); quyền đi ra nước ngoài theo quy định
của pháp luật( điều 25); quyền từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật (điều
26); quyền được thông tin theo quy định của pháp luật(điều 29); quyền được nhà nước bảo
hộ quyền tác giả(điều 36); quyền được nhà nước bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (điều
38).
Năm 2001 khi chúng ta tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, chế định quyền và
nghĩa vụ của công dân đã được giữ nguyên bên cạnh việc bổ sung thêm quyền học tập(điều
59).
*Bộ luật dân sự:
Có thể nói rằng, Bộ luật dân sự là văn bản pháp lý chuyên biệt có giá trị pháp lý cao nhất
quy định một cách có hệ thống về quyền nhân thân của cá nhân. Lần đầu tiên, vấn đề
quyền nhân thân của cá nhân được đề cập một cách rõ ràng, chi tiết và có hệ thống trong
BLDS năm 1995.
Bộ luật dân sư năm 1995 đã dành 22 điều luật quy định về quyền nhân thân của cá nhân, và
đã xác định rằng: “Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Không
ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền lợi ích hợp pháp của người khác. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền
nhân thân của người khác” (điều 26).
Bên cạnh đó, lần đầu tiên cá nhân có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền nhân thân của mình
khi bị người khác vi phạm(điều 27); lần đầu tiên quyền nhân thân của cá nhân được quy
định thành một hệ thống các quyền, có 20 quyền được quy định chi tiết trong 20 điều luật.
Tính đến thời điểm hiện nay, sau hơn 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự năm 1995 đã có

nhiều thành tựu đạt được, Bộ luật dân sự năm 1995 đã góp phần làm ổn định các quan hệ
dân sự nói chung nói chung, quan hệ nhân thân nói riêng, các chủ thể có được công cụ
pháp lý hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy vậy, cùng với sự phát

6


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

triển của các quan hệ xã hội, các quan hệ dân sự cũng ngày càng phức tạp hơn, đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay, khi những giá trị về tinh thần đang dần tìm được chỗ đứng quan
trọng trong đời sống cá nhân. Với những quyền thân nhân được quy định trong bộ luật dân
sự năm 1995 so với thực tiễn đã có sự thiếu hụt rất lớn, việc sử đổi bộ luật dân sự năm
1995 là yêu cầu tất yếu đặt ra.
Bộ luật dân sự năm 2005 được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 7 thông qua và có hiệu lực từ
ngày 1/1/2006 đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử pháp luật dân sự. Riêng đối
với chế định quyền nhân thân, bên cạnh việc kế thừa hoàn toàn 20 quyền nhân thân được
quy định trong bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 đã bổ sung thêm 6
quyền nhân thân mới đó là: Quyền được khai sinh (điều 29); quyền được khai tử(điều 30);
quyền hiến bộ phận cơ thể(điều 33); quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết( điều 34);
quyền nhận bộ phận cơ thể người(điều 35); quyền xác định lại giới tính(điều 36).
*Các văn bản pháp lý khác:
Mặc dù đến BLDS năm 1995 được thông qua, khái niệm về quyền nhân thân cảu cá nhân
mới được hình thành nhưng trước đó, những quyền nhân thân cụ thể đã được thừa nhận
trong một số văn bản pháp lý khác. Cụ thể là trong Luật bảo đảm quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân 24/1/1957.
Ngay tại điều 1 Luật này đã quy định: “Quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm
đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm.Không ai được
xâm phạm các quyền ấy”.
Quyền nhân thân của cá nhân trong các lĩnh vực hôn nhân, gia đình cũng được quy định

trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Thông qua việc quy định về quyền bình đảng
giữa vợ, chồng(điều 19), về việc tôn trọng danh dự nhân phẩm, uy tín của vợ chồng; Cấm
vợ chồng co hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của
nhau(điều 21).
2, Khái niệm quyền nhân thân của cá nhân:
2.1. Định nghĩa quyền nhân thân của cá nhân:
Quyền nhân thân( Personality rights) là thuật ngữ pháp lý để chỉ những quyền gắn liền
với bản thân của mỗi người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân. Từ xưa đến
nay, nói đến quyền nhân thân người ta thường liên tưởng ngay đến những quyền có liên
quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân. Nói chung, quyền nhân thân là
thứ quyền để bảo vệ cái “danh” của mỗi người bao gồm nhiều khái niệm danh dự, danh vị,
danh tiếng, danh hiệu…Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ càng được
mở rộng bao nhiêu, thì con người ngày càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các quyền
nhân thân cũng ngày càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với những
biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả.
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự gắn liền với đời sống tinh thần của cá
nhân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
7


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Trong lịch sử lập pháp của nước ta nói chung, và pháp luật dân sự nói riêng, thuật ngữa
quyền nhân thân được ra đời khá muộn. Bộ luật dân sự năm 1995 là văn bản pháp lý đầu
tiên đề cập đến quyền nhân thân, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong qua trình
hiện thực hóa quyền con người. Lần đầu pháp luật Việt Nam thừa nhận sự tồn tại tất yếu
của những quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân. Điều đó cũng chứng minh được rằng,
pháp luật dân sự không chỉ là công cụ bảo vệ những quan hệ tài sản, bảo vệ những giá trị
vật chất mà pháp luật dân sự còn là phương tiện hữu hiệu để cá nhân bảo vệ những giá trị
tinh thần của mình.

Kế thừa BLDS năm 1995, BLDS năm 2000 quy định về quyền nhân thân của cá nhân tại
điều 24: “ Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyền giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”.
Quyền nhân thân có mối liện quan mật thiết đến tự do cá nhân, đóng vai trò quan trọng đối
với cá nhân. Về bản chất, quyền nhân thân mang đặc tính quyền cá nhân, chính vì thế thực
hiện và bảo đảm quyền nhân thân tức là thỏa mãn quyền tự do, lợi ích của cá nhân.
Quyền nhân thân hiểu dưới góc độ pháp luật nói chung đó là một dạng quyền của cá nhân
trong lĩnh vực dân sự. Dưới góc độ pháp lý dân sự, quyền nhân thân là tiền đề hình thành
nên quan hệ nhân thân. Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị
nhân thân của cá nhân, tổ chức. Đây cũng đồng thời là nhóm quan hệ dân sự thứ hai trong
hai nhóm quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật dân sự.
Nếu so sánh với quan hệ tài sản thì quan hệ nhân thân thể hiện những đặc trưng riêng vốn
có như: được hình thành từ những giá trị nhân thân nên chúng không có nội dung kinh tế,
không gắn với quyền lợi về tài sản của chủ thể, không áp dụng biện pháp bảo đảm khi thực
hiện; thiệt hại trong quan hệ nhân thân là yếu tố không định lượng được một cách trực tiếp.
2.2. Đặc điểm quyền nhân thân của cá nhân:
- Quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể và một nguyên tắc không thể chuyển dịch
cho chủ thể khác:
Quyền nhân thân trở thành một thuộc tính của chủ thể mà không bị phụ thuộc , chi phối
bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ, giới tính, tôn giáo…. Pháp luật dân
sự thừa nhận quyền nhân thân cho mỗi cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể
khác, mỗi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân thân. Các quyền dân sự nói chung và
quyền nhân thân nói riêng do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa trên điều kiện kinh
tế, xã hội nhất định. Do vậy về nguyên tắc quyền nhân thân không thể chuyển giao cho
người khác cũng đồng nghĩa là quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch
mua bán, trao đổi, tặng cho… Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một số quyền nhân thân
có thể chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Quyền công bố,
phổ biến tác phẩm của tác giả , khi tác giải chết đi thì quyền này có thể chuyển giao cho
chủ thể khác hay các quyền khác về tinh thần của tác giả đối với tác phẩm như quyền được

tôn trọng tác phẩm…

8


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

- Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền:
Quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản hay
không gắn với tài sản mà thôi. Vì không phải là tài sản nên quyền nhân thân và tiền tệ
không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Do vậy,
quyền nhân thân không thể bị định đoạt hay mang ra chuyển nhượng cho người khác. Một
người không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ. Vì sự cụ thể nó thành tài sản, tiền tệ
là điều không thể. Thực ra, đây là vấn đề rất khó trong lý thuyết về quyền nhân thân cũng
như áp dụng thực hiện quyền nhân thân. Thông thường, một quyền nhân thân không thể
định đoạt có nghĩa là không thể là đối tượng giao dịch. Nhưng trên thực tế lại xuất hiện
nhiều hợp đồng liên quan tới quyền nhân thân. VÍ dụ: trong lĩnh vực đời tư liên quan tới
hình ảnh, nhiều người được công chúng biết đến như là minh tinh màn bạc ký hợp đồng
với các cơ quan thông tin, xuất bản.Vậy làm thế nào để dung hòa đặc điểm này của quyền
nhân thân với tình trạng giao dịch hợp pháp về hình ảnh ngày càng phát triển và rầm rộ
như hiện nay.
- Hành vi xâm phạm quyền nhân thân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại:
Đối mỗi hành vi được coi là xâm phạm tới quyền nhân thân thì có thể gây ra thiệt hại hoặc
không gây ra thiệt hại. Điều đó có nghĩa là thiệt hại không phải là căn cứ bắt buộc để xác
định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm hại. Trên thực tế, ngay cả trong trường hợp
bị xâm phạm quyền nhân thân không những là không gây thiệt hại gì cho người bị xâm hại
mà thậm chí là còn có lợi cho họ. Nhưng về nguyên tắc, nếu không có sự đồng ý của cá
nhân thì đều coi là vi phạm.
- Thiệt hại khi quyền nhân thân bị xâm phạm không có tiêu chí để định lượng:
Trong các quyền nhân thân, quyền nhân thân liên quan tới đời sống tinh thần của cá nhân

luôn chiếm một số lượng lớn. Đó chính là những quyền liên quan tới đời sống tinh thần của
con người, là quyền của cá nhân phát sinh trong sinh hoạt nội tâm của con người.Do vây,
đối với mỗi cá nhân thì giá trị đó không có chuẩn mức chung để cụ thể nó thành giá trị. Vì
thế, thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền nhân thân không được cân,đo,đong, đếm bằng
những đại lượng cụ thể. Đặc trưng này không loại trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi
hành vi xâm hại tới quyền nhân thân.
3,Các nhóm quyền nhân thân cơ bản của cá nhân:
BLDS 2005 liệt kê tương đối nhiều các quyền nhân thân (từ Điều 26 đến Điều 51), bao
gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được
khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức
khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác
định lại giới tính; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư;
quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành
viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi
9


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền
lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo. Điều 738 và Điều 751
BLDS 2005 còn quy định thêm một số quyền nhân thân như: quyền đặt tên cho tác phẩm;
quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác
phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên
tạc tác phẩm; quyền đứng tên tác giả trong văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng, thiết kế
bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
Các quyền nhân thân này có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi tiêu chí
thể hiện một khía cạnh pháp lý đặc thù..Tuy nhiên cách phân loại cụ thể và rõ ràng nhất đó

là dựa vào đối tượng điều chỉnh của quyền mà các quyền nhân thân được phân thành 5
nhóm sau đây:
3.1. Nhóm các quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân:
Trong nhóm quyền liên quan tới thân thể của cá nhân bao gồm: quyền được đảm bảo an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể ( Điều 32), quyền hiến bộ phận cơ thể( Điều 33),
Quyền hiến xác,nhận bộ phận cơ thể sau khi chết( Điều34), Quyền nhận bộ phận cơ thể
người( Điều 35). Theo đó thì có những quyền thì cá nhân có thể tự mình thực hiện khi cá
nhân đó còn sống, có những quyền lại có mối quan hệ với nhau như tại Điều 33 và Điều 35
và có những quyền thì chỉ thực hiện được khi cá nhân đó không còn sống.
Quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là quyền nhân
thân của cá nhân, thể hiện sự tự định đoạt của họ đối với các bộ phận cơ thể, xác của mình
sau khi chết do vậy cần thiết phải có hành lang pháp lý để điều chỉnh vấn đề này. Và BLDS
2005 ra đời, với quy định mới này đã bổ sung kịp thời cho sự hạn chế và thiếu sót của
BLDS 1995. Với tư cách là quyền nhân thân, quyền hiến bộ phận cơ thể mang những đặc
điểm chung của quyền nhân thân đó chính là tính cá nhân tuyệt đối, tính không xác định
được bằng tiền và không vì mục đích thương mại.Tuy nhiên việc quy định quyền nhân thân
mới này trong BLDS 2005 cũng mang những đặc điểm riêng biệt của chúng. Khi cá nhân
thực hiện quyền này lại không mang lại mục đích cho họ mà lại mang lại lợi ích cho người
khác, lợi ích cho toàn xã hội mà mục đích căn bản của quyền này là chữa bệnh nhân đạo
cứu người hoặc phục vụ giảng dạy trong các trường hoặc là dùng cho nghiên cứu khoa học.
Nhưng nó vần được ghi nhận là một quyền nhân thân của cá nhân.Ghi nhận quyền này
chính là một bảo đảm cho sự tự lựa chọn hành động của mình trong lĩnh vực đặc thù và hết
sức nhạy cảm này. Vì đây là một vấn đề còn rất mới mẻ ở nước ta, trong thực tế thì phát
sinh chưa phổ biến rộng rãi nên BLDS chỉ quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc,
với tính chất là một quyền dân sự về nhân thân, còn các vấn đề cụ thể về trình tự, thủ tục
hiến bộ phận của cơ thể, sử dụng xác của người chết sẽ được quy định tại các văn bản
riêng. Pháp luật đa số các nước không cho phép mua bán bộ phận cơ thể như một tài sản.

10



BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Nếu cân nhắc giữa việc bảo vệ trật tự công cộng và lợi ích của xã hội với việc bảo đảm sự
tự do ý trí của cá nhân thì rõ ràng là bảo đảm trật tự xã hội phải đặt nên hàng đầu.
Quyền hiến bộ phận cơ thể và nhận bộ phận cơ thể thực chất là hai mặt của một vấn đề,
một bên có quyền nhận, một bên có quyền hiến. Quyền hiến là tiền đề cho quyền nhận.
Trên thực tế thì quyền nhận sẽ thực hiện phức tạp, nhạy cảm hơn quyền hiến, nếu không
thực hiện tốt thì vấn đề này thực sự trở thành bức bối cho xã hội.Cùng với Điều 34, quyền
hiến xác,bộ phận cơ thể sau khi chết. Đây được xem là những quy định rất mới mẻ ở VIệt
Nam, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của chúng ta quy định cho cá nhân có quyền hiến,
nhận bộ phận cơ thể khi còn sống và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể khi chết bên cạnh
quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể.Quy định này là bước đột
phá và được coi là cuộc cách mạng trong quan niệm về sự sống, cái chết của con người
trong một xã hội đang phát triển mà trong lòng xã hội đó còn chứa nhiều quan điểm khác
nhau về sự sống và sự chết của cá nhân.
Hiện nay, xuất phát từ sự thay đổi trong nhận thức của mỗi người, số có người mong
muốn hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác đang ngày càng gia tăng. Chúng ta đã có rất nhiều
tấm gương cao cả tự nguyện hiến cho người khác. Bên cạnh đó, còn rất nhiều người muốn
hiến mô, hiến bộ phận cơ thể của mình mà không biết hiến ở đâu, hiến bằng cách nào. Ví
dụ trường hợp của anh Nguyễn Lê Minh Anh, sinh năm 1986 quê ở Nha Trang và hiện
đang làm nghề bốc vác tại một cảng ở TPHCM. Trong thư anh gửi cho báo điện tử
Vietnamnet ngày 5/7/2006, anh viết” tôi đã nghe và đọc rất nhiều những thông tin về nỗi
khổ của những người đang phải chạy thận nhân đạo, không biết ở Việt Nam chúng ta đã
ghép thận được hay chưa? Tôi thiết nghĩ có hiến máu nhân đạo thì cũng có chương trình
hiến thận cho những người đã và đang vật nộn tùng ngày từng giờ với căn bệnh đó. Tôi có
ước nguyện được hiến quả thận của mình cho những người đang phải chống chọi từng
ngày với căn bệnh đau khổ đó. Thế nên tôi không biết làm cách nào làm được với suy nghĩ
của tôi”. Đây là một thực tế đã cho thấy sự hoàn thiện quy định của pháp luật chưa tốt và
chưa thiết thực để mỗi cá nhân có thể dễ dàng thực hiện được quyền nhân thân của mình,

đặc biệt là những quyền khá nhạy cảm này.
3.2.Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của cá nhân:
Trong nhóm này được LDS quy định bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự. nhân phẩm, uy
tín( Điều37); quyền bí mật đời tư( Điều 38), quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở( Điều 46);
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo( Điều 47);quyền tự do đi lại, tự do cư trú( Điều 48);
quyền lao động (Điều 49); quyền tự do kinh doanh( Điều 50); quyền tự do nghiên cứu sáng
tạo( Điều 51). Đây là những quyền đã được Hiến định và quy định tại các văn bản pháp
luật khác.Đây là những quyền nhân thân của cá nhân gắn với những lợi ích và giá trị tinh
thần của mỗi cá nhân. Mặc dù là các quyền này đã được Hiến định và được các văn bản
pháp luật khác cụ thể hóa nhưng tất cả vẫn còn những khiếm khuyết cần phải nhìn nhận.
11


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Tại Điều 37 quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín” danh dự, nhân
phẩm, uy tín của được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”.Pháp luật bảo vệ quyền nhân
thân này nhưng cũng không có văn bản pháp luật nào nêu khái niệm của nó là gì.Nhưng
chúng ta cũng có thể hiểu”danh dự “ là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân dựa
trên phẩm chất chính trị, năng lực…của cá nhân đó hay chính là danh tiếng đi kèm với tài
năng.”Nhân phẩm” là phẩm giá của con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tư
cách là một con người.”Uy tín” là việc cá nhân được biết đến theo chiều hướng tích cực
thông qua hoạt động thực tiễn của mình.Một khi hành vi xâm phạm tới các quyền liên quan
tới lợi ích tinh thần của cá nhân, biện pháp đầu tiên là cá nhân đó tự bảo vệ.Sau đó thì cá
nhân có thể yêu cầu cơ quan tổ chức bảo vệ quyền lợi cho mình. Cá nhân có quyền được
bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, có quyền buộc bên xâm hại phải chấm dứt hành vi xâm
hại, phải xin lỗi, cải chính công khai, buộc bên xâm hại phải thực hiện thực hiện nghĩa vụ
dân sự, buộc bồi thường thiệt hại.Trên thực tế, BLDS chỉ quy định cách thức xác định thiệt
hại khi xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín trong phần xác định thiệt
hại mà không quy định bồi thường thiệt hại do hành vi xâm hại tới quyền được pháp luật

bảo vệ danh dự, nhân phẩm uy tín. Do vậy BLDS cần quy định đây là một trong trường
hợp bồi thường thiệt hại cụ thể trong phần” bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp
cụ thể”( từ Điều 613 đến Điều 630). Điều này gây khó khăn trong thực tiễn xác định hành
vi xâm phạm.
Những năm gần đây, số lượng những vụ việc xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự,nhân
phẩm, uy tín được giải quyết tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tăng lên đáng kể đặc biệt
là số vụ được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại tòa án. Mặc dù những vụ việc này chủ yếu
được giải quyết tại một số thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM liên quan tới cá nhân, tổ
chức hoạt động văn hóa nghệ thuật. Tuy nhiên điều này chứng tỏ mức độ nhận thức cao
hơn của cá nhân, tổ chức về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm,uy tín. Khị quyền này
bị xâm hại, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sự tồn tại và phát triển của bên bị xâm
hại. Chính vì vậy, cần phải hoàn thiện các quy đinh pháp luật liên quan tới quyền được bảo
vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Quyền tự do đi lại( Điều48), quyền lao động( Điều 49), quyền tự do kinh doanh( Điều 50),
quyền tự do sáng tạo, nghiên cứu( Điều 51). Đây là những quyền nhân thân của cá nhận,
trực tiếp tạo cơ hội và điều kiện cho các cá nhân phát huy khả năng vốn có của mình. Đặc
biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế như hiện nay thì việc quy định những quyền nhân thân
này có ý nghĩa hơn bao giờ hết.Thực hiện các quyền nhân thân và hoàn thiện nó là yêu cầu
được đặt ra cho hệ thống pháp luật của chúng ta. Hoàn thiện và tạo cơ hôi cho cá nhân thực
hiện nó chính là cơ hội tạo ra những hạt nhân và nhân tố quan trọng cho sự tồn tại và phát
triển bền vững của đất nước trong thời kỳ này.
3.3.Nhóm các quyền nhân thân đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ:
12


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Các quyền này bao gồm: quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền tác giả, quyền liên quan tới
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng.
Xuất phát từ các giá trị tinh thần ban đầu, các chủ thể sẽ được hưởng các lợi ích vật chất từ

việc chuyển quyền đối với kết quả hoạt động sáng tạo.Đối với kết quả của hoạt động sáng
tạo tinh thần đã được luật sở hữu trí tuệ quy định và bảo vệ khá toàn diện. Khi chuyển giao
các đối tượng này thì người nhận chuyển giao có thể thanh toán một lợi ích vật chất cho
người chuyển giao.Tuy nhiên giá trị tinh thần trong các quyền nhân thân thì không thể
chuyển giao trong giao lưu dân sự.Việc buộc chủ thể xâm phạm quyền nhân thân phải bồi
thường thiệt hại chỉ nhằm bù đắp phần nào tổn thất tinh thần đã xảy ra cho người bị thiệt
hại.
Qua việc tìm hiểu và phân tích những nội dung cơ bản của quyền nhân thân theo quy định
của LDS thì việc thực tiễn thực hiện quyền nhân thân cũng được đề cập tới.Và chúng ta
cũng đã phần nào nhân thấy được những mặt tích cực và mặt hạn chế cần được sửa đổi bổ
sung về quyền nhân thân theo quy định của LDS hiện hành.
3.4.Nhóm các quyền liên quan đến sự cá biệt hóa cá nhân:
Các quyền nhân thân thuộc nhóm này được BLDS ghi nhận bao gồm : quyền đối với họ
tên ( Điều 26), quyền thay đổi họ tên ( Điều 27 ),quyền được khai sinh( Điều 29), quyền
được khai tử ( Điều 30 ),quyền của cá nhân đối với hình ảnh ( Điều31), Quyền xác định
dân tộc( Điều 28), quyền xác định lại giới tính( Điều36), quyền đối với quốc tịch
( Điều45). Trong tất cả các quyền nhân thân mà BLDS đã ghi nhận thì quyền nhân thân
thuộc nhóm quyền này thể hiện rõ nhất đặc trưng của LDS. Việc phân biệt cá nhân này với
cá nhân khác và phân biệt cá nhân với những chủ thể của quan hệ pháp luật không những
có ý nghĩa trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể mà còn có ý nghĩa trong việc
xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật nói chung và quan
hệ pháp luật dân sự nói riêng. Những quyền nhân thân liên quan tới sự cá biệt hóa cá nhân
là những quyền năng cơ bản và thể hiện rõ sự cá biệt gắn liền với chủ thể và không thể
chuyển giao cho người khác.
Mỗi người sinh ra đều có một tên gọi của mình do cha mẹ hoặc ai đó đăt cho để phân biệt
cá nhân này với cá nhân khác.Trên thực tế thì quyền này mặc nhiên là có để mỗi chúng ta
có thể phân biệt nhau.Điều 26 và Điều 27 quy định quyền đối với họ tên và quyền thay đổi
họ tên. Đây là là quyền dân sự cơ bản gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân. Việc xác
lập họ tên là rất quan trọng và gắn liền với chủ thể đó tới suốt đời. Mặc dù mỗi cá nhân có
thể có nhiều tên gọi khác nhau như :bí danh, tên thường gọi,biệt danh, tên khai sinh…. Họ

tên không chỉ đơn thuần là yếu tố về mặt nhân thân, mà nó còn là yếu tố pháp lý quan trọng
để cá nhân xác lập thực hiện quyền cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý nhân danh
chính mình. Do vậy họ tên của một người cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
13


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

công nhận bằng việc cấp giấy đăng ký khai sinh cho một người. Và cá nhân khi tham gia
vào quan hệ pháp luật chỉ được công nhận mang một tên riêng để phân biệt với các chủ thể
khác. Đó chính là tên được ghi trong giấy khai sinh. Quyền đối với họ tên là quyền nhân
thân của cá nhân, cá nhân có quyền này kể từ khi sinh ra. Tuy nhiên việc thực hiện quyền
này lại không do chính họ thực hiện mà lại hoàn toàn phụ thuộc vào người có quyền và
trách nhiệm đi khai sinh. Rõ ràng quyền và lợi ích của cá nhân đã bị phân tán. Trong
trường hợp người có quyền và nghĩa vụ đi khai sinh cho trẻ mà không thực hiện vậy ai sẽ
chịu trách nhiệm, không những thế nếu trẻ chưa được đăng ký khai sinh đã lớn và đã có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì có thể tự mình đi đăng ký khai sinh được không? Đây là
một câu hỏi mà đã gặp khá nhiều ở nhà nước ta hiện nay và vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ.
Do vậy pháp luật dân sự cẩn bổ sung và hoàn thiện quyền nhân thân này để bao trùm hết cả
trường hợp trên.
Quyền xác định lại dân tộc là quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Theo
quy định của BLDS,tại Điều 28 quy định thì quyền xác định dân tộc của cá nhân lại khá là
ngược so với quyền đối với họ tên. Nước ta hiện nay có 54 dân tộc cùng sinh sống. Việc
xác định dân tộc cho cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào dân tộc của cha hoặc của mẹ chứ cá
nhân mỗi người lại không có quyền tự xác định dân tộc của mình. Và việc xác định dân tộc
của cá nhân cũng được ghi vào trong giấy khai sinh của cá nhân. Mặc dù vậy nhưng theo
quy định tại khoản 3 Điều16 nghị định 15 của Chính phủ về hướng dẫn đăng ký hộ tịch thì
trong trường hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi thì phần cha, me, dân tộc được bỏ trống. Như
vậy thì trong trường hợp mà trẻ không thể xác định được cha, mẹ của mình thì quyền nhân
thân này của trẻ mãi không được đảm bảo. Đối với trường hợp này chúng ta nên quy định

một dân tộc nào đó hoặc một dân tộc mà chiếm đa số tại nơi trẻ được phát hiện. Ngoài việc
quy định xác định dân tộc là một quyền nhân thân thì là quyền được xác định lại dân tộc.
Nhưng việc xác định lại dân tộc phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định và
trong những trường hợp nhất định.
Quyền cá nhân đối với hình ảnh được quy định tại Điều 31 BLDS 2005 đã thể hiện sự tiến
bộ của pháp luật dân sự Việt Nam, bởi vì không phải quốc gia nào quyền cá nhân đối với
hình ảnh cũng được quy định cụ thể trong BLDS. Trước hết chúng ta cần hiểu rằng khái
niệm hình ảnh của cá nhân bao gồm mọi hình thức nghệ thuật ghi lại hình dáng của con
người như chụp ảnh, ảnh vẽ, ảnh chép và suy rộng ra là có thể bao gồm cả bức tượng của
cá nhân và cả hình ảnh có được do ghi hình. Theo quy định của pháp luật thì việc sử dụng
hình ảnh của cá nhân phải được sự đồng ý của cá nhân đó. Tuy nhiên pháp luật lại không
quy định như thế nào là”đồng ý”. Nhưng chúng ta có thể hiểu là việc sử dụng hình ảnh của
cá nhân vào bất cứ mục đích gì mà không có sự đồng ý của cá nhân đó đều coi là vi phạm
pháp luật. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân là một vấn đề nhậy cảm và khá phức tạp
trong cuộc sống. Để tránh việc sử dụng tùy tiện hình ảnh của cá nhân và đảm bảo cho
quyền nhân thân đó, pháp luật cần quy định rõ những trường hợp nào thì pháp luật cho
phép sử dụng hình ảnh của cá nhân và quy định chặt chẽ về sử dụng hình ảnh của cá nhân
trong những trường hợp cụ thể.

14


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Quyền xác định lại giới tính được BLDS 2005 quy định tại Điều 36. Đây là quyền nhân
thân của cá nhân và là quy định bổ sung cho quy định về quyền nhân thân của BLDS 1995.
Như chúng ta đã biết thì chuyển đổi giới tính là vấn đề mới và rất phức tạp về mặt xã hội,
mới chỉ xảy ra một số ít các trường hợp và chưa có tình phổ biến. Do vậy cần có thời gian
để tìm hiểu thực tế và nghiên cứu thêm kinh nghiệm của các nước trên thề giới. Như vậy,
BLDS 2005 quy định việc xác định lại giới tính của một người chỉ được thực hiện trong

trường hợp giưos tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác
mà cần có sự can thiệp của Y học, nhằm xác định rõ về giới tính. Quyền thay đổi giới tính
không thể thực hiện một cách tùy tiện. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với tình hình xã
hội và truyền thống đạo đức của xã hội ta hiện nay. Nhưng trong các quy định hiện hành
thì chưa có quy định cụ thể như thế nào đối với trường hợp những người được chuyển đổi
giới tính này ra sao. Đặc biệt là trong trường hợp này liên quan tới quyền lợi của họ trong
lĩnh vực hôn nhân gia đình.
3.5.Nhóm quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ hôn nhân gia đình:
Trong quan hệ hôn nhân gia đình, một trong những mối quan hệ rất đặc biệt của đời sống
xã hội, các quyền nhân thân của cá nhân luôn đặt trong mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân
đó với tư cách là một thành viên trong gia đình với các chủ thể có liên quan trong mối quan
hệ gia đình; giữa các thành viên đó với tư cách là một thành viên trong xã hôi với các chủ
thể khác với mục đích không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích của họ mà còn của cả các thành
viên trong gia đình và toàn xã hội. Các quyền đó do pháp luật quy định bao gồm: quyền kết
hôn ( Điều 39 ); quyền bình đẳng của vợ chồng( Điều40); quyền được hưởng sự chăm sóc
giữa các thành viên trong gia đình( Điều 41); quyền ly hôn( Điều 42); quyền nhận, không
nhận cha, mẹ,con ( Điều 43), quyền được nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi( Điều
44).Quyền kết hôn là quyền nhân thân gắn liền với nhân thân của chủ thể không thể chuyển
giao cho người khác. Đảm bảo quyền tự do kết hôn của cá nhân luôn được pháp luật hướng
tới; nhưng cá nhân chỉ có thể thực hiện quyền kết hôn khi đáp ứng được một số điều kiện
nhất định hay là không được kết hôn trong những trường hợp pháp luật cấm như nam phải
từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được quyền kết hôn… vấn đề này đã được luật
hôn nhân gia đình quy định cụ thể. Nói vậy không có nghĩa là quyền kết hôn bị hạn chế mà
nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, đảm thuần phong mỹ tục và hạn chế bớt hậu quả
xảy ra trong việc kết hôn tùy tiện. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng Điều 40 BLDS quy
định” vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mội mặt trong gia
đình, và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc bền vững”. Thực chất đây là quyền cũng đồng thời là nghĩa vụ của chồng. Vợ
chồng cùng nhau thực hiện các quyền này cũng đồng thời chung tay cùng với cộng đồng
xây dựng một xã hội phồn vinh. Bởi khi thực hiện các quyền này thì sẽ xây dựng một gia

đình tốt. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt được. Điều 42 quy
định về ly hôn, quyền này được đặt trong mối quan hệ hôn nhân gia đình là quyền nhân
thân gắn với vợ chồng. Sự bình đẳng của quyền ly hôn thể hiện trong việc cả hai vợ chồng,
hoặc vợ, hoặc chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Xét về hậu quả của ly
hôn là không thể lường trước được, do vậy để sự tự do ly hôn thực sự là sự giải thoát cho
vợ chồng, sự bần cùng mới cần sử dụng tới, Luật hôn nhân gia đình cũng đã quy định
những vấn đề cần thiết liên quan tới việc ly hôn.
15


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Đối với những quyền nhân thân liên quan tới mối quan hệ giữa cha,mẹ và các thành viên
khác trong gia đình như tại Điều 41, Điều43, Điều 44. Cụ thể hóa các điều luật này đã
được Luật hôn nhân gia đình Việt Nam thực hiện và bảo đảm thực hiện nó trên thực tế một
các chi tiết và đồng bộ. Đối với quyền nhận, không nhận cha mẹ con theo Điều 43 và Điều
41 BLDS. Theo đó,người con có quyền được xác định cha mẹ và được cha mẹ mình chăm
sóc và bảo vệ. Đây là một quyền nhân thân đặc biệt và quan trọng trong các quyền cơ bản
đối với trẻ em. Một khi trẻ em được sinh ra mà không được cha mẹ, hoặc cha, hoặc mẹ
không thừa nhận thì trẻ em đó có thể bảo vệ quyền của mình bằng các phương thức khác
nhau theo Điều 43 đã quy định. Trong thực tế, nhóm quyền đặc biệt này của người con
luôn bị xâm hại, không đảm bảo được quyền của trẻ em nói chung và quyền của người con
nói riêng. Việc này cho dù là có những chế tài hay không thì nhóm quyền nhân thân này
đôi lúc là rất khó đảm bảo. Hoặc khi đã thực hiện quyền đó rồi thì xác định vấn đề trách
nhiệm của cha mẹ trong một quãng thời gian dài đã chốn tránh trách nhiệm với người con
như thế nào. Đây thực sự là vấn đề mà pháp luật dân sự cũng như pháp luật hôn nhân gia
đình của nước ta đã và đang bị bỏ ngỏ. Do vậy pháp luật của chúng ta trong thời gian tới
cần bổ sung vấn đề về hậu quả pháp lý đối với việc xác định cha, mẹ, cho con để giảm bớt
tình trạng thiếu trách nhiệm của một số ông bố, bà mẹ như hiện nay. Ngoài ra, quyền được
nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi quy định tại Điều 44 BLDS. Theo đó thì

những quyền này đã được pháp luật bảo hộ và công nhận. Và để được pháp luật bảo hộ
những quyền và lợi ích liên quan của người nhận nuôi con nuôi và người được nhận nuôi
con nuôi thì việc nhận nuôi con nuôi phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Quyền được nuôi con nuôi đã tạo ra quyền làm cha, làm mẹ của người nhận nuôi con nuôi
nhằm tạo ra sự gắn bó tình cảm giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trong quan
hệ cha mẹ và con. Ngoài các quyền nhân thân được quy định trong BLDS 2005 liên quan
đến quan hệ hôn nhân gia đình, Luật hôn nhân gia đình đã chi tiết hóa các quyền này như
quyền xác định cha mẹ và con, cha mẹ có quyền đại diện, giám hộ cho con theo quy định
của pháp luật. Bên cạnh đó là các quyền nhân thân giữa các thành viên trong gia đình.
Tóm lại, BLDS 2005 đã có nhiều quy định cụ thể về quyền nhân thân trong nhóm quan hệ
này. Ngoài ra là luật hôn nhân gia đình 2000, cũng đã quy định chi tiết các quyền nhân
thân thuộc nhóm này. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để các cá nhân trong mối
quan hệ hôn nhân gia đình được tôn trọng và bảo vệ.
4. Vấn đề bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân chống lại sự xâm hại và lạm dụng:
Theo quy định tại điều 169 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu của cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác được pháp luật công nhận. Không ai có thể bị hạn chế, bị
tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền tựu
bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm
đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.
Trong trường hợp thạt cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà
nước trung mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản cho cá nhân, pháp nhân hoặc của
chủ thể khác theo quy định của pháp luật. Đây là nguyên tắc chung rất cơ bản trong việc
bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu.

16


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Về các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, điều 255 bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Chủ

sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại
tài sản chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm
hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự
bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện
pháp theo quy định của pháp luật.
5, Tìm hiểu một vụ việc thực tiễn liên quan tới quyền nhân thân:
Vụ việc: Theo đơn khởi kiện của kỹ sư Lê Văn Tạch, anh vào làm việc tại công ty TMV từ
tháng 3/2003. Trong quá trình công tác, anh Tạch đã phát hiện nhiều lỗi kỹ thuật đã đề xuất
với ban lãnh đạo công ty triệu hồi xe đã bán để khắc phục lỗi nhưng không được chấp
nhận. Do vậy, ngày 29/3/2011, anh Tạch đã buộc phải gửi hồ sơ sang Cục Đăng kiểm Việt
Nam mong muốn với trách nhiệm quản lý nhà nước, Cục Đăng kiểm sẽ có ý kiến chính
thức. Chính vì vậy, TMV đã ra quyết định kỷ luật lao động số 435/2011/TMV-QĐ đối với
anh Tạch. Để tìm ra lý do cũng như trong và sau khi xử lý kỷ luật lao động đối với anh
Tạch, TMV đã có những hành vi xâm phạm đến nhân phẩm, uy tín và quyền bí mật đời tư
của anh Tạch. Cụ thể, ngày 24/8/2011, TMV tổ chức phiên họp xét xử lý kỉ luật lao động
đối với anh Tạch. Trong và sau cuộc họp, TMV cho biết, ngày 29/6/2011, TMV đã tiến
hành kiểm tra nội dung hòm thư nội bộ của anh Tạch (tại địa chỉ
) , đọc các email cá nhân của anh Tạch mà không hề có sự đồng
ý của anh. Việc kiểm tra nội dung các email cá nhân trong hộp thư điện tử của anh Tạch
cũng được TMV lập biên bản vào ngày 29/6/2011. Hậu quả của việc thu thập và công bố
thông tin, suy diễn của TMV đối với anh Lê Văn Tạch như “có quan hệ ngoài vợ chồng”
với người khác đã làm xuất hiện những hiểu lầm và mâu thuẫn nghiêm trọng trong cuộc
sống của vợ chồng của anh Tạch, đe dọa cuộc sống bình thường của anh. Những thông tin
bịa đặt về việc anh Tạch có ý định làm cho công ty đóng cửa mà TMV đưa ra cũng làm
cho các đồng nghiệp trong TMV có sự nhìn nhận không chính xác về bản thân anh Tạch.
Vì vậy anh Tạch đã làm đơn lên TAND tỉnh Vĩnh Phúc kiện Công ty TMV yêu cầu công ty
TMV phải hủy bỏ quyết định kỷ luật lao động đối với anh Lê Văn Tạch đồng thời lãnh đạo
công ty phải xin lỗi anh trước toàn thể cuộc họp hội đồng của công ty.
Giải quyết của tòa án: Ngày 11/4/2012, TAND thị xã Phúc Yên (Vĩnh Phúc) đã đưa ra xét

xử sơ thẩm vụ án tranh chấp yêu cầu xin lỗi cải chính công khai do xâm phạm các quyền
nhân thân giữa nguyên đơn là KS Lê Văn Tạch và bị đơn là Công ty ôtô Toyota Việt Nam
(TMV). Ngày Tại tòa, TMV cho rằng đơn vị đã mua tên miền (toyota.com.vn) sử dụng
trong địa chỉ của các email và cung cấp cho nhân viên trong đơn vị. Do đó, công ty có
quyền kiểm tra email vì các email đó là tài sản nội bộ của công ty. Lập luận của TMV nhận
được sự đồng tình của Hội đồng xét xử(HĐXX). Do đó, HĐXX quyết định không chấp
thuận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của KS Tạch, đã ra phán quyết nội quy lao động của TMV
được lập theo đúng trình tự và thủ tục quy định của pháp luật lao động và việc TMV ra
quyết định kỷ luật về việc xử lý kỷ luật lao động đối với kỹ sư Lê Văn Tạch là hoàn toàn

17


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

phù hợp với các quy định tại Điều 83 Bộ luật lao động và các nghị định, quy định liên quan
nên nội quy này là hợp pháp.
Nhận xét về cách giải quyết của tòa án: Cách giải quyết trên của tòa án là hoàn toàn
không hợp lý, Nội quy lao động của TMV đã được cấp toà sơ thẩm ra sức bảo vệ; trong khi
các quy định trong Luật Công đoàn, Bộ luật dân sự 2005 của Nhà nước Việt Nam lại
không được áp dụng, việc viện dẫn các quy định khác của pháp luật còn quá mập không
quan tâm đến việc bảo vệ quyền nhân thân cho cá nhân anh Tạch, cụ thể: TMV kiểm soát
thư điện tử của anh Tạch mà không dẫn ra được bất kỳ một quyết định nào của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, cũng như quy định cụ thể nào của pháp luật cho phép TMV kiểm soát
thư điện tử của người lao động, do đó, hành vi này của TMV rõ ràng đã xâm phạm đến
quyền bí mật đời tư, là vi phạm pháp luật. Điều 38, BLDS quy định: “Việc thu thập, công
bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý” và “thư tín, các hình
thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật”, “việc kiểm soát
thư tín, các hình thức thông tin điện tử khác được thực hiện trong trường hợp pháp luật có
quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Về việc, TMV loan

truyền các thông tin cho rằng anh Tạch đã viết “hàng chục bức thư tình”, “có quan hệ
ngoài vợ chồng” với “người phụ nữ có địa chỉ email là...”, theo luật sư Phất: Việc một cá
nhân viết thư tình hay có quan hệ ngoài vợ chồng hay không là những thông tin, tư liệu về
đời tư của cá nhân đó. Trong khi Điều 38, BLDS quy định: “Việc thu thập, công bố thông
tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý” thì bất luận những thông tin
nêu trên do TMV loan truyền là chính xác hay không thì việc thu thập, công bố những
thông tin đó đều là phạm pháp. Những nội dung công bố cũng không trực tiếp phục vụ việc
xử lý kỷ luật lao động, do đó có thể kết luận mục đích của việc thu thập và công bố đó của
TMV có mục đích bôi nhọ nhân phẩm, hạ thấp uy tín của anh Lê Văn Tạch. Những điều
này không hề được TAND thị xã Vĩnh Yên ( Vĩnh Phúc) nhắc tới.
Qua ví dụ thực tiễn trên thì chúng ta có thể nhận thấy việc xử lý việc xâm phạm quyền
nhân thân theo biện pháp dân sự thì hệ thống pháp luật dân sự của chúng ta đã chưa thực
sự cụ thể hóa hết và nhiều quy định còn ở mức chung chung và khái quát nên việc áp dụng
việc thực hiện còn nhiều bất cập và khó thực hiện.Vậy nên việc đảm bảo quyền nhân thân
của cá nhân còn nhiều vướng mắc.Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải có phương hướng hoàn
thiện quy định của pháp luật về quyền nhân thân
II, PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN NHÂN THÂN:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự nói chung , hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quyền nhân thân nói riêng là một trong những nội dung luôn được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm.BLDS 2005 ra đời là một bước phát triển khá mạnh mẽ trong các quy định về
quyền nhân thân. Tuy nhiên chúng ta càng tự hào thì chúng ta sẽ càng lạc hậu với chính xã
hội và với các nước khác trên thế giới. Để luôn kịp đáp ứng những nhu cầu và xã hội ngày
18


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

càng phát triển như hiện nay thì những quy định về quyền nhân thân cần được hoàn thiện
trên một số phương diện sau:
Thứ nhất, các quy định về quyền nhân thân trong BLDS luôn xuất phát từ mục tiêu vì

lợi ích của con người, coi con người là trung tâm
Thứ hai, hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền nhân thân cần tính đến một số
quan hệ mới phát sinh như vấn đề về quyền được chết, vấn đề mang thai hộ, vấn đề
chuyển đổi giới tính… mà một số các quốc gia trên thế giới đã đề cập tới.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định về quyền nhân thân phải luôn đặt trong mối quan hệ
tổng thể với hệ thống pháp luật nói chung, các quy định pháp luật chuyên nghành nói
riêng để đảm bảo hệ thống pháp luật thống nhất và hài hòa.
Thứ tư, trong việc hoàn thiện về quyền nhân cần chú ý sửa đổi những quy định của
BLDS hiện hành về nội dung của một số quyền nhân thân như, bổ sung quy định về
quyền cá nhân đối với hình ảnh, dân tộc, quốc tịch… cho phù hợp hơn với điều kiện kinh
tế, chính trị hiện đại; cần quy định rõ hơn về các phương thức bảo vệ quyền nhân thân một
cách cụ thể, cần làm rõ một số khái niệm quy định thế nào là bí mật đời tư, thế nào là danh
dự, nhân phẩm, uy tín… Bởi trong thời gian qua. Tòa án đã tỏ ra khá lúng túng khi gặp
phải những vụ kiện liên quan tới vấn đề đó.
Thứ năm, cần xây dựng những điều khoản quy định cụ thể về quyền nhân thân của
pháp nhân, tổ chức. Trong toàn bộ chương IV quy định về pháp nhân, BLDS cũng không
có điều khoản nào quy định về quyền nhân thân của pháp nhân. Như vậy, BLDS có điều
chỉnh quan hệ nhân thân được phát sinh trên cơ sở giá trị nhân thân của tổ chức, nhưng
chưa có quy định riêng nào quy định cụ thể một pháp nhân, tổ chức có những giá trị nhân
thân cụ thể nào. Sự thiếu hụt này cần được bổ sung trong BLDS, bởi lẽ, sự tồn tại của một
pháp nhân hay một tổ chức bao giờ cũng gắn liền với uy tín, danh dự của pháp nhân hay tổ
chức đó. Việc chủ thể xâm phạm đến uy tín và danh dự của pháp nhân là căn cứ áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, điều này đồng nghĩa với việc chúng ta đã
thừa nhân uy tín, danh dự của pháp nhân được pháp luật bảo vệ. Do vậy, cần xây dựng điều
luật quy định cụ thể về quyền nhân thân của pháp nhân, tổ chức.
Thứ năm, ta cần phải xây dựng những phương thức bảo vệ quyền nhân thân riêng đối
với mỗi quyền nhân thân khi nó bị xâm phạm. Điều 25 BLDS quy định về bảo vệ quyền
nhân thân . Có thể nói rằng đây là những phương thức chung để bảo vệ quyền nhân thân
của cá nhân khi quyền nhân thân đó bị xâm phạm. Tuy nhiên, trên thực tế, sự vi phạm từng
quyền nhân thân lại có những biểu hiện hoàn toàn khác nhau, và hậu quả của hành vi vi

phạm cũng không giống nhau. Ví dụ điều 27 BLDS quy định về quyền thay đổi họ, tên “Cá
nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ,
tên…”. Quyền thay đổi họ tên là một quyền nhân thân của cá nhân, nhưng nó có đặc thù là
19


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

việc thực hiện quyền đó gắn liền với hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy
khi cơ quan nhà nước có hành vi cản trở, gây khó khăn cho cá nhân khi thực hiện quyền
trên thì liệu cá nhân có thể áp dụng những phương thức bảo vệ quyền nhân thân như điều
25 đã quy định?. Khi cá nhân không thể thực hiện được quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ
thể vì sự cản trở của những người thân trong gia đình thì việc áp dụng những phương thức
bảo vệ quyền nhân thân mà pháp luật đã quy định liệu có đạt hiệu quả không?. Rõ ràng, đối
với mỗi quyền nhân thân bởi vì nó có tính chất hoàn toàn khác nhau nên trên thực tế không
thể áp dụng chung một phương thức bảo vệ được.
Thứ sáu, vấn đề về thời hiệu khởi kiện bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân cũng cần
được quy định rõ trong BLDS. Pháp luật dân sự quy định nội dung và cách thức bảo vệ
quyền nhân thân khi quyền nhân thân bị xâm phạm nhưng không có quy định về thời hiệu
khởi kiện. Vậy trong khoảng thời gian bao lâu cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền bảo vệ quyền nhân thân của mình?. Xuất phát từ đặc thù của mỗi quyền
nhân thân chúng ta thấy, có những quyền thời hạn khởi kiện sẽ là vô hạn ví dụ quyền được
bảo vệ danh dự, nhâm phẩm, uy tín; Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; Quyền đối với
họ tên nhưng có những quyền nhân thân không thể áp dụng thời hiệu khởi kiện vĩnh viện
được như quyền hiến tặng bộ phận cơ thể, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết;
quyền xác định lại giới tính…

KẾT LUẬN
Quyền nhân thân là quyền để con người có thể sống và tồn tại theo đúng nghĩa, nó gắn liền
với những giá trị tinh thần, chúng ta nên quan niệm rằng quyền nhân thân như là thuộc tính

vốn có của cá nhân, từ đó có những biện pháp thích hợp để những quyền này phát huy hết
giá trị trên thực tế.
Một xã hội càng tiến bộ, phát triển bao nhiêu thì quyền nhân thân của cá nhân càng phải
được pháp luật tôn trọng và mở rộng bấy nhiêu. Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đặt con
người vào vị trí trung tâm của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu và động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, do đó quyền con người trong đó có quyền nhân thân
của cá nhân là nhân tố cơ bản tạo nên động lực của sự phát triển đất nước, điều 50 Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”.

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
20


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

I, NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN NHÂN THÂN
1, Cơ sở hình thành và phát triển quyền nhân thân của cá
1.1. Cơ sơ lý luận

trang 2
trang 2
trang 2

1.2.Cơ sở pháp lý

trang 4


1.2.1.Cơ sở pháp lý quốc tế

trang 4

1.2.2.Cơ sở pháp lý quốc gia

trang 5

2, Khái niệm quyền nhân thân của cá nhân

trang 7

2.1. Định nghĩa quyền nhân thân của cá nhân

trang 7

2.2. Đặc điểm quyền nhân thân của cá nhân

trang 8

3, Các nhóm quyền nhân thân cơ bản của cá nhân

trang 9

3.1. Nhóm quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá nhân

trang 10

3.2. Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của cá nhân


trang 11

3.3. Nhóm các quyền nhân thân đối với các đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ

trang 13

3.4. Nhóm các quyền liên quan đến sự cá biệt hóa cá nhân

trang 13

3.5. Nhóm quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong
quan hệ hôn nhân gia đình

trang 15

4. Vấn đề bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân chống
lại sự xâm hại và lạm dụng

trang 16

5. Tìm hiểu một vụ việc thực tiễn liên quan tới quyền nhân thân

trang 17

II, PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN NHÂN THÂN

trang 18


KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 1, 2012, Trường đại học Luật Hà
Nội, Nxb.CAND.
Bộ Luật dân sự 2005, Nxb. Lao động.
21


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
-

-

Bộ luật Lao động
Luật Công đoàn Việt Nam.
Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 1, chủ biên Lê Đình Nghị, Nxb.Giáo
dục, 2009.
Bảo vệ quyền nhân thân của người lao động theo quy định của pháp luật
lao động Việt Nam : Khoá luận tốt nghiệp / Nhâm Thuý Lan ; Người
hướng dẫn: Th. S. Nguyễn Kim Phụng, 2004.
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, Nguyễn Ngọc Điện, Nxb.Chính trị
Quốc gia, 2010.

Các website tham khảo:
-


www.ecolaw.vn
www.luathoc.cafeluat.vn
www.thongtinphapluat.vn
www.thuviendientu.vn

22



×