Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.61 MB, 81 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60.38.01.03
Hà Nội — 2013
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Tôi xin cam đoan, kêt quả nghiên cứu trong luận văn là kêt quả lao động của</small>
<small>riêng tôi, chưa được công bô trong bát cứ công trình nghiên cứu nào.</small>
<small>Tác giả luận văn</small>
<small>Phạm Thị Hồng Phúc</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đôi, bố sung năm 201]
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 Pháp lệnh tố tụng dân sự
<small>Pháp lệnh Chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng,</small> người phiên dịch trong tố tụng 2012
<small>Quan hệ pháp luậtTịa án nhân dân</small>
Tịa án nhân dân tơi cao
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Chương 1. NHUNG VAN DE LÝ LUẬN VE NGHĨA VU CUA DUONG SỰ TRONG TO TUNG DAN SU’
Khái niệm, đặc điểm nghĩa vu của đương sự trong tố tụng dân sự Khái niệm nghĩa vụ của đương sự trong tổ tụng dân sự
Đặc điểm nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự
Cơ sở quy định nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự
<small>Cơ sở lý luận</small>
Cơ sở thực tiễn
Các điều kiện bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của đương sự trong to tụng <small>dân sự</small>
Tính thống nhất, đồng bộ, phù hợp của pháp luật về nghĩa vụ của đương sự trong tô tụng dân sự
Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự <small>Trách nhiệm của Tòa án</small>
Quy định của pháp luật một số nước trên thế giới về nghĩa vụ của đương sự trong tổ tụng dân sự
Kết luận Chương 1
Chương 2. NOI DUNG PHÁP LUAT TO TUNG DAN SỰ VIỆT NAM
<small>VE NGHIA VU CUA DUONG SU</small>
Khái quát về sự hình thành va phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ của đương sự
<small>Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tam năm 1945</small> Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Giai đoạn từ 1989 đến 2005
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành quy định về nghĩa vụ <small>của đương sự</small>
Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án
Nghĩa vụ chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Chương 3. THỰC TIỀN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÓ TỤNG CỦA DUONG SỰ VA MỘT SO KIÊN NGHỊ NHẰM HOÀN THIEN VÀ DAM THUC HIEN CÁC QUY ĐỊNH CUA PHÁP LUẬT TO TUNG DAN SỰ VE
<small>NGHIA VU CUA DUONG SU</small>
Thực tiễn thực hiện nghĩa vu tổ tụng của đương sự Đương sự không cung cấp chứng cứ và chứng minh Khơng chấp hành giấy triệu tập của Tịa án
Khơng chấp hành các quyết định của Tịa án trong thời gian giải quyết vụ <small>án</small>
<small>Duong sự không tôn trọng Tịa án, vi phạm nội quy phiên tịa</small>
Khơng nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng chỉ phí giám định, định giá Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ của đương sự
Cần tách các quy định quyền và nghĩa vụ của đương sự riêng thành từng <small>khoản</small>
Về nghĩa vụ giao nộp chứng cứ và biện pháp xử lý hành vi vi phạm Về thủ tục tố tụng trong trường hợp đương sự văng mặt hoặc đến muộn Về biện pháp xử lý đương sự khơng chấp hành các quyết định của Tịa án trong thời gian giải quyết vụ án dân sự
Bồ sung quy định thế nảo là hành vi không tôn trọng Tòa án, vi phạm nội <small>quy, trật tự phiên tòa và biện pháp xử ly</small>
Về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng chi phí giám định, định giá Về việc xử lý các hành vi không thực hiện nghĩa vụ của đương sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">MO DAU 1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việc giải quyết vụ án dân sự (VADS) tại Tòa án là do nhu cầu giải quyết các quan hệ pháp luật (QHPL) nội dung giữa các đương sự nên các đương sự là một thành phần chủ yếu, khơng thể thiếu của VADS. Khơng có đương sự thì cũng khơng thể có VADS tại Tịa án. Dé bảo đảm giải quyết nhanh chóng, đúng đắn các VADS, các đương sự cần thực hiện tốt nghĩa vụ của mình để không làm ảnh hưởng đến thời hạn xét xử và kết quả giải quyết VADS. Khi tham gia QHPL tố tung dân sự (TTDS), các đương sự thường chỉ quan tâm nhiều đến quyền của mình mà khơng để ý tới nghĩa vụ của mình đối với việc giải quyết VADS. Do đó, ý thức chấp hành quy định của pháp luật tố tụng dân sự (PLTTDS) về nghĩa vụ của đương sự thường không tốt dẫn đến gây trở ngại cho Tịa án, khó khăn cho các đương sự khác trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ. Đây cũng chính là một ngun nhân dẫn đến tình trạng án quá hạn của Tòa án ngày một nhiều, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết VADS, gây bức xúc cho các đương sự khác. Mặt khác, việc áp dụng chế tài đối với những hành vi vi phạm nghĩa vụ của đương sự chưa được thực thi trên thực tế khiến cho việc hiện nghĩa vụ của đương sự chưa được tốt.
<small>Nghĩa vụ của đương sự và các biện pháp xử lý việc không thực hiện nghĩa vụ của</small>
<small>đương sự trong PUTTDS Việt Nam được quy định tại chương VI, chương XIV và chương</small> XXXII Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Thực tế cho thấy trong BLTTDS có những quy định về nghĩa vụ của đương sự (gọi tắt là nghĩa vụ tố tụng - NVTT) của đương sự còn quy định rải rác, chưa thật cụ thé như quy định quyền và nghĩa vụ của đương sự trong cùng một điều luật nhưng không phân định rõ đâu là quyền và đâu là nghĩa vụ hoặc có những quy định đến nay vẫn chưa được ban hành như về thủ tục, thâm quyền xử phạt, mức tiền phạt đối với các hành vi cản trở hoạt động TTDS khiến cho Tham phán, Tịa án khơng có cơ sở để xử lý các hành vi không thực hiện nghĩa vụ của đương sự, dẫn đến việc chấp hành NVTT của đương sự chưa được nghiêm, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết VADS và làm <small>cho sự nghiêm minh của pháp luật không được bảo đảm.</small>
Đúng như Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã nhận định: “Ché định pháp luật dân sự và pháp luật về to tung tư
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">pháp còn nhiều bat cập, chậm được sửa đổi, bồ sung”. Do đó, nhiệm vụ đặt ra trong cải cách tư pháp là: “Hoan thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp” trong đó cần “tiếp tục hồn thiện thủ tục TTDS. Nghiên cứu thực hiện và phái triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước dé tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của mình.” theo hướng: “Hinh thành cơ chế pháp lý dé Chính phủ thực hiện quyên yêu cau xem xét, xử by bằng thủ tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình quan lý, t6 chức thi hành pháp luật”, “tạo điễu kiện thuận lợi cho người dân Ttham gia tố tụng, bảo dam sự bình dang của cơng dân và cơ quan cơng qun trước Tịa an”.
Do đó, việc nghiên cứu dé tài Nghĩa vụ của đương sự trong tổ tụng dân sự Việt Nam là hết sức cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay về cả lý luận và thực tiễn. Qua đó, có cách nhìn tông quan hơn, rõ ràng hơn về nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. Từ đó, tìm ra những thiếu sót, bấp cập trong việc áp dụng pháp luật để đưa ra các biện pháp khắc phục vướng mắc, kiến nghị sửa đổi và hoàn thiện pháp luật về van đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay chưa có một bài viết hay cơng trình khoa học nào nghiên cứu riêng, đầy đủ và chỉ tiết về nghĩa vụ của đương sự trong TTDS. Nghĩa vụ của đương sự trong TTDS chỉ được đề cập đến trong một phần bài viết, đề tài nghiên cứu về đương sự như: Bài viết
“Người tham gia TTDS” của ThS. Nguyễn Việt Cường đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân
(TAND), số 8/2005, tr. 14 — 20; Luận văn thạc sỹ luật học năm 2008, luận án tiến sỹ luật học năm 2010 với đề tài “Đương sự trong TTDS - Một số vấn đề ly luận và thực tiễn ” của tác giả Nguyễn Triều Dương và Khoá luận tốt nghiệp năm 2010 với dé tài “Duong sự trong TTDS” của tác giả Lê Thị Phượng... Tat cả đều nghiên cứu về khái niệm, thành phan, năng lực hành vi TTDS của đương su, quyền và nghĩa vụ của đương sự và thực tiễn đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng cũng chủ yếu nói về quyền của đương sự, còn nghĩa vụ của đương sự thì chỉ nói về nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập và hậu quả pháp lý của sự vắng mặt. Hoặc là chỉ nghiên cứu về một nghĩa vụ nào đó của đương sự như nghĩa vụ chứng minh của đương sự có Khố luận tốt nghiệp năm 1997 với đề tài “Nghĩa vu chứng minh của đương sự trong TTDS” của tác giả Lê Tién Ty ... hay chỉ nghiên cứu về bao đảm sự có mặt của bị đơn như bài viết “Bảo dam sự có mặt của bị đơn va những van dé liên quan khi giải quyết VADS” của tac giả Lê Xuân Tri đăng trên Tạp chí TAND số 1 năm 1998... Các tác giả trên đã đưa ra được một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện PLTTDS về
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">đương sự nhưng đến nay BLTTDS năm 2004 đã được sửa đôi, b6 sung năm 2011 phần nào đã giải quyết được một số bất cập và kiến nghị của các tác giả. Qua hơn một năm thi hành BLTTDS sửa đổi, thực tế vẫn có những bat cập mới chưa được giải quyết. Do đó, rất cần những đề tài nghiên cứu chỉ ra được những bat cập đó của PLTTDS hiện hành, dé từ đó đưa ra được những kiến nghị sửa đổi, b6 sung có tính khả thi, kịp thời hồn thiện PLTTDS về đương sự nói chung, về NVTT của đương sự nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, yêu cầu của đương sự tại Tòa án các cấp thì đương sự có nghĩa vụ dân sự đối với đương sự có quyền dân sự và có NVTT đối với Tịa án. Trong TTDS có loại thủ tục giải quyết vụ án dân sự (VADS) và có loại thủ tục giải quyết việc dân sự (VDS). Do giới hạn không cho phép nên đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ của đương sự trong q trình giải quyết VADS tại Tịa án cấp sơ thâm do luật TTDS điều chỉnh (hay cịn gọi là nghĩa vụ tơ tụng). Trong số NVTT của đương sự thì đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu về một số <small>nghĩa vụ quan trọng mà việc khơng thực hiện nghĩa vụ đó của đương sự sẽ làm ảnh hưởng</small> đến thời hạn và kết quả giải quyết đúng đắn của VADS đó.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác — Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Dang va Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ trương cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác nhau cũng được sử dụng như: phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, thống
kê, diễn giải, quy nạp ...
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ của <small>đương sự trong TTDS, từ đó phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật TTDS hiện</small> hành về NVTT của đương sự và thực tiễn thực hiện các quy định này ở Tòa án; đồng thời đi sâu nghiên cứu các biện pháp xử lý đối với trường hợp vi phạm nghĩa vụ TTDS nhằm dam bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của đương sự một cách đúng đắn, dé từ đó tìm ra giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật TTDS về NVTT của đương sự giúp cho hoạt động tố tụng tại Tịa án được bảo đảm, được tơn trọng và giữ gìn sự nghiêm minh của pháp luật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Đề dat được mục đích trên, nhiệm vu nghiên cứu được xác định trên những khía <small>cạnh sau:</small>
- Nghiên cứu làm rõ các vẫn đề lý luận về nghĩa vụ của đương sự trong TTDS như khái niệm, ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền của đương sự trong TTDS, mối quan hệ giữa nghĩa vụ TTDS của đương sự với hoạt động TTDS tại Tòa án, các yêu cầu bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của đương sự <small>trong TTDS.</small>
- Nêu khái quát về sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về nghĩa vụ của đương sự.
- Nghiên cứu quy định của PLTTDS một số nước về nghĩa vụ của đương sự để tìm ra những điểm phù hợp nhằm tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
- Phân tích làm rõ các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về nghĩa vụ của đương sự để tìm ra những hạn chế, bất cập của các quy định nảy.
- Tìm hiểu thực tiễn thực hiện các quy định về nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, để từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật TTDS về nghĩa vụ của
<small>đương sự.</small>
<small>6. Những đóng góp mới của luận văn</small>
Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, hệ thống các van dé lý luận va thực tiễn về <small>nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, luận văn có những dong øóp mới sau:</small>
<small>- Xây dựng được khái niệm nghĩa vụ của đương sự trong TTDS.</small>
- Phân tích và làm sáng tỏ những điểm bat cập của các quy định pháp luật tố tụng về <small>nghĩa vụ của đương sự.</small>
- Nêu ra thực tiễn việc thực hiện NVTT của đương sự tại một số Tịa án.
- Đưa ra một sơ kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về
<small>nghĩa vụ của đương sự và các biện pháp xử lý hành vi không thực hiện hoặc chậm thực</small>
<small>hiện NV TT của đương sự.</small>
7. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tồn diện, đầy đủ, có hệ thống về nghĩa vụ của đương sự trong TTDS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bồ sung và hồn thiện lý luận về nghĩa vụ của đương sự trong TTDS, qua đó có cơ sở lý luận để phân tích, đánh giá những bất cập của các quy định pháp luật TTDS hiện hành,
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật TTDS về nghĩa vụ của đương sự dé lam
cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS.
Luận văn có thể được sử dụng dé làm tài liệu tham khảo cho Tham phán, Thư ký trong cơng tác thực tiễn và có thé được sử dụng dé đóng góp vào việc sửa đổi, bố sung các quy định của BLTTDS về nghĩa vụ của đương sự và các biện pháp bảo đảm thực hiện <small>NVTT của đương sự.</small>
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tai liệu tham khảo, luận văn được kết cầu gồm 3 chương:
Chương 1: Những van đề lý luận về nghĩa vụ của đương sự trong tô tụng dân sự. Chương 2: Nội dung pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ của đương sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ tố tụng của đương sự và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ của đương sự.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>Chương 1</small>
NHỮNG VAN DE LÝ LUẬN VE NGHĨA VỤ CUA DUONG SU TRONG TO TUNG DAN SU
1.1. Khái niệm, đặc điểm nghĩa vụ của đương sự trong tố tung dân sự 1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ của đương sự trong tô tung dân sự:
Nghĩa vụ mà tiếng Anh và tiếng Pháp đều viết là “obligation” có nguồn gốc từ danh từ “obligatio” của tiếng Latin. Đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nghĩa vụ như: “Nghĩa vụ là một QHPL được xác lập giữa hai chủ thé theo đó một chủ thé (chủ thể quyển -người có quyên) có quyên yêu cau chủ thể kia (chủ thể nghĩa vụ - -người có nghĩa vụ) phải hoàn thành một yêu câu nhất định" [7, tr. 11]. Cuén từ điền pháp luật của Pháp mang tên “Petit Dictionnaire de Droit” định nghĩa: “Nghia vụ là một mối quan hệ pháp lý theo đó một người, được gọi là trái chủ, có thé sử dụng phương cách cưỡng chế của quyển lực công theo sự lựa chọn của anh ta đề buộc người khác, người thụ trải xác định, chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm việc gì đó ”[42]. Điều thứ 676 Bộ luật dân sự (BLDS) Trung Kỳ 1936 và Điều thứ 641 BLDS Bắc Kỳ đã định nghĩa: Nghia vụ là cái dây liên lạc về luật thực tế hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm gì đối với một hay nhiễu người nào đó.
Cịn "t6 tung" là việc thưa kiện (procès), "t6 tung pháp lý" là việc pháp luật quy định những thủ tục về cách tố tung (code deprocédure)" [9, tr. 302]. Sách Tiếng nói nơm na của Lê Gia, dẫn giải 30.000 từ tiếng Việt thường dùng có liên quan đến từ Hán Việt (NXB Văn Nghệ TP HCM, 1999) giải thích chi tiết hơn "7Ø tung" là vạch tội va đưa ra cửa công dé phân giải phải trái (trang 1027-1028). Thời Pháp thuộc, người ta dùng hai chữ "6 tung" dé dich chữ "procédure" (tiếng Pháp) hay “procedure” (tiếng Anh) đều bắt nguồn từ chữ La tinh procedere nghĩa là tiền bước, gợi lên ý tưởng một đường lối phải theo dé đi đến chỗ thắng kiện như trong Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng Bắc Kỳ năm 1921; Bộ dân sự, thương sự tô tụng Trung kỳ năm 1935. Dưới chế độ cũ ở miền Nam trước năm 1975, cũng có Bộ luật dân sự, thương sự tô tụng năm 1972. Hoặc theo Pothier, một luật gia tra danh cuối thé kỷ XIX đã định nghĩa: “T6 tung là hình thức phải theo để đệ don kiện, kháng biện, can thiệp, cứu xét, phán xử, thượng khống và thi hành án văn” [3 1].
vào một giao dịch dân sự và kết thúc khi người đó thực hiện xong nghĩa vụ của mình đối
<small>với người có qun dân sự. Nhưng khi có tranh chap vê quyên và nghĩa vu dân sự xảy ra va</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">được giải quyết tại Tịa án thì chỉ khi có phán quyết của Tịa án bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật thì mới xác định được đương sự nào có quyền dân sự và đương <small>sự nào có nghĩa vụ dân sự. Lúc này, đương sự có nghĩa vụ dân sự mới phải thực hiện nghĩa</small> vụ dân sự của minh. Nhung dé có được phán quyết của Tịa án một cách nhanh chóng, đúng dan thì việc giải quyết tranh chấp phải diễn ra trong một q trình TTDS mà ở đó đương sự vừa có quyền lại vừa có NVTT. Chỉ khi có việc giải quyết VADS tại Tịa án thì khi đó đương sự mới có NVTT. Việc giải quyết VADS được bắt đầu từ khi có đơn khởi kiện cho đến khi có phán quyết của Tòa án và đương sự phải thực hiện NVTT trong suốt quá trình giải quyết VADS.
Trong các văn bản pháp luật tố tụng từ trước đến nay đều khơng có khái niệm NVTT của đương sự mặc dù thuật ngữ “nghĩa vụ tố tụng dân sự” hoặc “nghĩa vụ tố tụng” đã được sử dụng trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) như Điều
20 quy định Quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự, Điều 23 quy định Quyền va
xã hội. BLTTDS năm 2004 cũng sử dụng thuật ngữ “nghĩa vụ tổ tụng” tại các Điều như 57, 62, 67, 74, 189, 192, 406. Đến năm 2011, BLTTDS 2004 được sửa đổi, b6 sung cũng vẫn sử dụng thuật ngữ “nghia vu tổ tung”. Trong các cơng trình nghiên cứu trước đây cũng như <small>các giáo trình của các trường đại học hay PLTTDS của nước ngoài cũng sử dụng thuật ngữnày nhưng cũng không đưa ra khái niệm nghĩa vụ của đương sự trong TTDS hay NVTT.</small> Tuy nhiên, từ các phân tích trên có thê đưa ra khái niệm nghĩa vụ của đương sự trong TTDS <small>một cách khái quát như sau:</small>
Nghĩa vụ của đương sự trong tô tụng dân sự (gọi tắt là NVTT của đương sự) là việc bắt buộc đương sự phải thực hiện theo quy định của pháp luật to tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vu việc
<small>dan sự được nhanh chóng, chính xác, cơng minh và đúng pháp luật.</small>
1.1.2. Đặc điểm nghĩa vụ của đương sự trong tô tung dân sự.
- Nghĩa vụ tổ tụng của đương sự có mỗi liên hệ mật thiết với nhiệm vụ và q trình giải quyết vụ án dân sự của Tịa án
Các chủ thé của hoạt động TTDS rất đa dang, bao gồm: Các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng (TGTT), người liên quan. Tùy thuộc vào mục đích <small>TGTT và địa vị pháp ly của moi chủ thê mà môi liên hệ giữa các chủ thê này với nhau</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">trong q trình giải quyết VADS tai Tịa án là khác nhau. Trong các chủ thé đó, đương sự là chủ thé có vai trị đặc biệt quan trong trong TTDS bởi lợi ích của họ là nguyên nhân và mục đích của q trình tố tụng. Mối liên hệ giữa đương sự và Tòa án là rõ nét nhất trong quá trình TTDS. Khi đương sự thực hiện nghĩa vụ của mình là cơ sở làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể khác như Tòa án, Viện kiểm sát và những người TGTT khác. Chăng hạn, về ngun tắc đương sự có nghĩa vụ chính trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp và có căn cứ, Tòa án chỉ tiến hành việc thu thập chứng cứ trong một số trường hợp nhất định do pháp luật quy định khi mà đương sự không tự thu thập được và có u cầu.
Trong q trình giải quyết VADS, đa phần nghĩa vu của đương sự là phải thực hiện đối với yêu cầu của Tòa án. Sau khi có phán quyết của Tịa án cấp sơ thâm, nếu Viện kiểm sát muốn kháng nghị bản án, quyết định của Tịa án thì có quyền u cầu đương sự cung cấp hồ sơ, tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thâm quyền kháng nghị thì đương sự sẽ có NVTT là cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với Viện kiểm sát. Ở một số quốc <small>gia như Cộng hịa Pháp thì đương sự cịn có nghĩa vụ với nhau như nghĩa vụ phải gửi cáctài liệu chứng cứ của mình cho phía bên kia nhưng PLTTDS Việt Nam lại không quy định</small> các đương sự có nghĩa vụ gì với nhau mà chỉ quy định đương sự có nghĩa vụ đối với Tịa án trong việc giải quyết VADS. Do đó, có thể nói rằng nghĩa vụ của đương sự trong TTDS Việt Nam là nghĩa vụ đối với Nhà nước, với Tòa án và trong một số trường hợp là đối với Viện kiêm sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Tòa án là chủ thê đặc biệt duy nhất được thực hiện quyền lực của Nhà nước dé giải quyết VADS. Dé thực hiện quyền lực của mình trong việc giải quyết VADS, Tịa án có quyền u cầu đương sự và những người TGTT khác phải thực hiện NVTT. Các đương sự có những nghĩa vụ chung mà bất cứ một đương sự nào khi đến Tòa án cũng phải thực hiện mặc dù không nhận được bat cứ một văn bản tố tụng tơ tụng nào của Tịa án như nghĩa vụ tơn trọng Tịa án, nghĩa vụ chấp hành nội quy phiên tịa. Có những nghĩa vụ mà đương sự phải thực hiện theo văn bản tố tụng của Tịa án như giấy triệu tập, thơng báo, quyết định, bản án... buộc các đương sự phải thi hành như nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tịa án, nghĩa vụ chấp hành các thơng báo, quyết định của Tịa án... Có những nghĩa vụ đương sự vừa có thê tự thực hiện vừa có thể phải thực hiện theo yêu cầu của Tòa án như nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Mỗi một VADS khác nhau lại có q trình tiến hành tố tụng khác nhau như thủ tục giải quyết vụ án,
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">thủ tục giải quyết việc. Trong thủ tục giải quyết vụ án có thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thủ tục hòa giải công nhận sự thỏa thuận, thủ tục đưa vụ án ra xét xử. Trong thủ tục giải quyết VADS thì có các thủ tục giải quyết các u cầu khác nhau, mỗi yêu cầu
lại có một thủ tục riêng. Như vậy, ở mỗi một VADS áp dụng thủ tục gì thì đương sự sẽ phải
<small>thực hiện nghĩa vụ theo quy định của thủ tục đó.</small>
Tịa án với tư cách là cơ quan tiễn hành tố tụng phải có trách nhiệm tạo điều kiện dé cho các đương sự thực hiện được đầy đủ các nghĩa vụ của mình. Các đương sự thực hiện <small>các NVTT cua mình một cách có thiện chí và đúng theo quy định của pháp luật thi sẽ bao</small> đảm cho việc giải quyết VADS được nhanh chóng và đúng đắn. Trường hợp đương sự chống đối, không hợp tác, không chấp hành các văn bản tố tụng của Tịa án, khơng đến Toa án theo giấy triệu tập... sẽ gây cản trở cho hoạt động tố tụng của vụ án đó, làm cho vụ án bị quá hạn luật định hoặc nếu xét xử được thì có thê khơng thực sự đúng sự thật khách quan vì chỉ xét xử theo tài liệu, chứng cứ của một bên cung cấp.
- Nghia vu to tung cua duong su mang tinh bắt buộc và phải chịu chế tài néu không thực hiện NVTT của đương sự là do PLTTDS quy định, bắt buộc các đương sự phải thực hiện khi khởi kiện và tham gia vào quá trình giải quyết VADS. Các đương sự đều phải thực hiện những NVTT bình đăng như nhau, khơng phân biệt tư cách TGTT. Cho dù đương sự là nguyên đơn, bị đơn, người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan thì đều có NVTT chung phải thực hiện như nhau như đều có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ, đều phải tơn trọng Tịa án và chấp hành các văn bản tố tụng của Tòa án.... Nhưng khi giải quyết từng yêu cầu cụ thể của đương sự và dựa vào từng kết quả giải quyết yêu cầu đó mà các đương sự lại có NVTT khác nhau như yêu cầu được chấp nhận thì nguyên đơn khơng phải chịu án phí, cịn bị đơn phải chịu án phí.... Chế tài áp dụng đối với các đương sự khi không thực hiện NVTT là khác nhau, phụ thuộc vào tư cách TGTT của đương sự đó như Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà ngun đơn khơng có mặt thì VADS sẽ được đình chỉ, cịn bi đơn vắng mặt thì vụ án vẫn được đưa ra xét xử văng mặt bị đơn...
- Nghĩa vụ tơ tụng của đương sự có moi liên hệ mật thiết với nghĩa vụ dân sự của đương sự và quyễn tô tụng của đương sự
NVTT của đương sự có mối liên hệ mật thiết với nghĩa vụ dân sự (NVDS) của đương sự. Chỉ có người có quyền dân sự và NVDS có tranh chấp tại Tịa án thì người đó mới trở thành đương sự và có NVTT. Chủ thé của NVDS là chủ thé của quan hệ pháp luật nội dung (quan hệ dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại). Khi chủ thể của
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">quan hệ pháp luật nội dung khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp và được Tòa án thụ lý giải quyết thì họ trở thành đương sự - chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS và họ có NVTT. Việc thực hiện NVTT của đương sự góp phần bảo đảm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích về dân sự của mình.
Khi TGTT tai Tịa án, cùng với việc được hưởng các quyền té tụng, đương sự cũng <small>phải thực hiện các NVTT. Đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật TTDS là các đương sự</small> có quyền bình dang về quyền và NVTT. Mọi quyền và nghĩa vụ của đương sự đều có mối liên hệ mật thiết với nhau. Thơng thường, quyền tố tụng có trước, NVTT có sau. Ví dụ như: ngun đơn có quyền khởi kiện khi cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm nên khi khởi kiện nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh rằng quyền và lợi ích của nguyên đơn bị xâm phạm. Bị don là người bị nguyên đơn khởi kiện nhưng cũng có quyền tố tụng trước là quyền được Tịa án thơng báo về việc bị khởi kiện rồi mới phải thực hiện NVTT là phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có (Điều 56, 58, 59, 175 BLTTDS 2004). Việc đương sự khơng thực hiện NVTT ảnh hưởng đến chính đương sự đó và những chủ thể khác. Đối với bản thân họ sẽ phải chịu chế tài như bị phạt tiền, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của đương sự .... Đối với Cơ quan tiến hành tô tụng và người tiến hành tố tụng thì gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, cản trở quá trình tìm ra cơng lý của quan Tịa. Đối với các đương sự khác thì gây mat thời gian, chi phi đi lại hoăc gây khó khăn trong q trình chứng minh của người đó. Trong khi đó, đương sự khơng thực hiện quyền của mình thì khơng phải chịu gì cả. Trên thực tế, quyền tô tụng là van dé các đương sự quan tâm hơn là NVTT và nếu có quan tâm thì đương sự bên này chỉ quan tâm đến NVTT của đương sự bên kia. Cơ quan tiến hành tố tụng hay người tiến hành tố tụng thì quan tâm đến việc chấp hành NVTT của các đương sự, còn các đương sự chỉ quan tâm đến quyền của mình khi TGTT. Bên cạnh đó, có một số nghĩa vụ của đương sự cũng là quyền của đương sự khi tham gia TTDS như quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Về nguyên tắc, để bảo đảm việc giải quyết VADS được khách quan, đúng pháp luật thì các đương sự phải bình đăng với nhau về nghĩa vụ TTDS. NVTT của các đương sự là bình đăng giữa nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, khơng phân biệt cá nhân hay cơ quan, tổ chức, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hố, nghề nghiệp. Moi cơ quan, tổ chức đều bình dang khơng phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu.
NVDS của đương sự do các bên thỏa thuận, pháp luật quy định hoặc theo phán quyết <small>của Tòa án. Còn NVTT của đương sự là do pháp luật TTDS quy định. Khi đương sự có</small> điều kiện thực hiện đầy đủ các NV TT cũng chính là lúc họ có điều kiện nhất trong việc bảo <small>vệ các quyên và nghĩa vụ dân sự.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">- Nghĩa vụ tổ tụng của đương sự có thể được thực hiện thơng qua người đại diện và có thể được chuyển giao cho người khác
Van đề này phụ thuộc vào NVDS, bởi chỉ có những NVDS được chuyền giao cho người khác (như NVDS về tài sản) thì NVTT của người đó mới được chun giao. Trong q trình Tịa án giải quyết VADS, đương sự có thé trực tiếp hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp tham gia vào bất kỳ giai đoạn nào của quá trình này để thực hiện các NVTT. Người đại điện của đương sự là người TGTT thay mặt đương sự thực hiện quyền và NVTT để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tịa án. Người đại diện có thể là đại điện theo pháp luật hoặc đại điện theo ủy quyền. Người đại điện theo pháp luật có đầy đủ tất cả các NVTT của đương sự, trừ quyền hịa giải trong vụ án ly hơn, cịn người đại diện theo ủy quyền chỉ phải thực hiện NVTT trong phạm vi được ủy quyền.
Trong q trình Tịa án đang giải quyết VADS có thể có một trong các đương sự là cá nhân chết hoặc đương sự là cơ quan tô chức đang TGTT phải chấm dứt hoạt động, bị giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyên đổi hình thức tơ chức thì NVTT của đương sự sẽ được chuyển giao cho những cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa NVDS về tài sản. Trường hợp NVDS của họ khơng được kế thừa thì Tịa án sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết VADS.
Từ khái quát và đặc điểm của nghĩa vụ của đương sự trong TTDS như trên, có thể đưa ra khái niệm cụ thê hơn về NVTT của đương sự như sau:
Nghĩa vụ của đương sự trong tô tụng dân sự (goi tắt là NVTT của đương sự) là việc bắt buộc đương sự phải thực hiện đối với Nhà nước, với cơ quan tiễn hành tô tụng dân sự, với đương sự và với cơ quan, tô chức, cá nhân khác, nếu khơng thực hiện thì sẽ bi áp dụng chế tài theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể tham gia to tụng và bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, <small>chính xác, cơng mình, đúng pháp luật.</small>
1.2. Cơ sở quy định nghĩa vụ của đương sự trong tố tung dân sự
Việc pháp luật quy định đúng, đầy đủ và hợp lý NVTT của đương sự trong TTDS là một bao đảm cho Tịa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn VADS. Vi vậy, việc làm rõ được các cơ sở quy định NVTT của đương sự là vô cùng cần thiết trong việc đánh giá các quy định của PLTTDS hiện hành về NVTT của đương sự. Qua việc nghiên cứu cho thấy, PLTTDS hiện hành quy định về NVTT của đương sự dựa trên những cơ sở sau:
<small>1.2.1. Cơ sở lý luận:</small>
Khi các chủ thể của các QHPLDS thực hiện việc yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, giải quyết u cầu và được Tịa án thụ lý thì các chủ thé của QHPLDS được Tòa án giải quyết trở thành đương sự trong TTDS. Lúc này, đương sự khơng chỉ dừng lại ở việc có
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">được các quyền và NVDS mà còn được PLTTDS quy định cho các chủ thé này các quyền và NVTT khi TGTT trong việc giải quyết VADS. Các quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự có mối liên hệ mật thiết với các quyền và NVDS của đương sự, trong đó, quyền và NVDS của đương sự và nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết VADS của Tòa án là nền tảng dé ghi nhận các quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự. Đồng thời việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự là bảo đảm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích về dân sự. Vì vậy, xét về mặt lý luận việc ghi nhận nghĩa vụ TTDS của đương sự phải dựa trên cơ sở, phù hợp với quyền và NVDS, cụ thé được thé hiện như sau:
- Khi TGTT tại Tòa án dé giải quyết VADS, đương sự có quyền về dân sự phải có NVTT là chứng minh rang họ là chủ thé có quyền, lợi ích về dân sự đang có tranh chấp. Đồng thời họ có nghĩa vụ chứng minh đương sự kia là người có nghĩa vụ về dân sự.
- Các chủ thé trong QHDS bình đăng với nhau về địa vị pháp lý, tức là bình dang trong việc hưởng quyên và bình dang trong việc thực hiện nghĩa vụ, cũng như chịu trách <small>nhiệm trong các QHDS mà mình tham gia. Vi vậy, việc ghi nhận các NVTT của đương sự</small> cũng phải dựa trên cơ sở bảo đảm các đương sự bình đăng với nhau về NVTT. Sự bình đăng về NVTT của đương sự trong TTDS không đồng nghĩa với việc các đương sự đều có nghĩa vụ giống nhau mà được hiểu là ngồi những NVTT giống nhau của đương sự thì mỗi đương sự TGTT với tư cách khác nhau sẽ có những NVTT khác nhau. Xét một cách tổng thê thì các đương sự TGTT với tư cách khác nhau nhưng bình đăng với nhau về điều kiện đề TGTT, điều kiện thực hiện NVTT.
- Việc quy định NVTT của đương sự phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa giữa việc ghi nhận NVTT của đương sự với nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết VADS của Tòa án va Viện kiểm sát cũng như quyền và NVTT của các chủ thé tố tụng khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch .... đúng với vai trị của mỗi chủ thể này trong TTDS. Bởi vì, cùng với việc quy định quyền của đương sự thì đồng thời phải xác định nghĩa vụ của các chủ thể khác trong việc bảo đảm quyền của đương sự và ngược lại, khi các chủ thé trong TTDS có các quyền tố tụng thì đồng thời xác định NVTT của chủ thé khác nhằm bảo đảm cho việc giải quyết VADS được nhanh chóng và đúng dan. Trong mối quan <small>hệ trung tâm giữa Tòa án với đương sự, việc ghi nhận các NVTT của đương sự phải bao</small> đảm sự tơn trọng của đương sự đối với Tịa án, khơng gây khó khăn và cản trở Tịa án thực hiện quyền lực Nhà nước, bảo đảm cho Tòa án giải quyết VADS một cách kịp thời và đúng dan nhưng Tịa án cũng phải có nghĩa vụ bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền và
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>NVTT của mình.</small>
Bồ sung hay mở rộng quyền của đương sự phải đi đôi với việc xác định NVTT của đương sự đó khi TGTT. Đồng thời, quy định các quyền hạn của Tòa án đối với đương sự dé Tịa án có cơ sở tiến hành giải quyết va áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời những hành vi vi phạm NVTT của đương sự nhằm thực hiện được mục đích của TTDS là bảo đảm việc giải quyết VADS được nhanh chóng, chính xác, công minh, đúng pháp luật
1.2.2. Cơ sở thực tiễn:
Thực tế hiện nay, các tranh chấp dân sự tại Tòa án ngày càng nhiều [xem Phụ lục 1], phong phú, đa dạng và phức tạp đòi hỏi Tòa án phải giải quyết nhanh chóng, đúng đắn và xử lý các hành vi vi phạm theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. Nhưng, do nhiều nguyên nhân khác nhau đã dẫn đến thời hạn theo quy định đề giải quyết một VADS bị kéo dài, ảnh hưởng đến tiến độ giài quyết VADS của Tòa án, gây mắt công sức đi lại và tiền của đương sự, mat thời gian của đương sự và của Tòa án.
Một trong những ngun nhân đó là do trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật của đương sự cịn rất hạn chế dẫn đến ý thức chấp hành pháp luật kém nên đã xảy ra tình trạng đương sự khơng thực hiện NVTT, có hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tịa án. Trước thực tế đó, đòi hỏi PLTTDS phải quy đỉnh rõ ràng NVTT của đương sự như phải quy định rõ đâu là
quyên, đâu là nghĩa vụ tố tụng của đương sự khi TGTT tại Tòa án, dé họ dễ nhận biết và thực
hiện, đồng thời phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc và kịp thời những hành vi vi phạm NVTT của đương sự đã gây can trở cho hoạt động tố tụng của Tịa án.
<small>Bên cạnh đó, cịn có ngun nhân khách quan hoặc chủ quan làm cho quá trình giải</small>
quyết VADS có sai lầm dẫn đến án bị hủy đi hủy lại nhiều lần, gây mất lòng tin của đương sự, dẫn đến sự chống đối của họ đối với q trình hoạt động tố tụng của Tịa án trong việc giải quyết VADS. Sai lầm này do những người tiễn hành tố tung đã chịu sự tác động, chi phối từ nhiều phía, có thể từ cơ quan, tổ chức hữu quan ở địa phương, từ cơ quan quản lý cấp trên, từ những người thân thích hoặc quen biết họ hoặc do hạn chế về chuyên môn, thái độ sách nhiễu, thiếu tinh thần trách nhiệm làm cho đương sự không tin vào phán quyết của Toa án nên đã có hành vi khơng thực hiện NVTT của mình, can trở hoạt động tố tụng của <small>Tịa án.</small>
Việc nhà nước quy định các NVTT của đương sự nhằm đảm bảo điều kiện thuận lợi dé cho các bên đương sự có thé bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp về nội dung của mình; tao điều kiện thuận lợi cho các bên đương sự thực hiện quyền TTDS của mình; giúp cho việc
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">giải quyết VADS được nhanh chóng và đúng đắn. Việc các đương sự thực hiện NV TT như thế nào sẽ có ý nghĩa nhất định đối với q trình giải quyết VADS. Do vậy, trong quá trình tố tụng các đương sự phải thực hiện NVTT cua minh một cách có thiện chí và đúng theo <small>quy định của pháp luật.</small>
1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự 1.3.1. Tính thông nhất, đồng bộ, phù hợp của pháp luật về nghĩa vụ của đương sự trong 16 tụng dân sự
Nghĩa vụ của đương sự và việc bảo đảm nghĩa vụ của đương sự là hai mặt không thé tach rời nhau. PLTTDS nếu chi dừng lại ở việc quy định day đủ nghĩa vu của đương sự thi vẫn chưa đủ mà cân phải có các quy định bảo đảm cho việc đương sự thực hiện tốt nghĩa vụ <small>của mình khi TGTT tại Tịa án. Bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của đương sự trong TTDS</small> là trách nhiệm thuộc về Tòa án và các cá nhân, cơ quan, tô chức khác.
Về cơ bản PLTTDS hiện hành đã có nhiều quy định nhăm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của đương sự như quy định các biện pháp bảo đảm cần thiết như cảnh cáo, phạt tiền người vi phạm, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu của đương sự... Tuy nhiên, vẫn còn thiếu những quy định cụ thể nhằm bảo đảm sự trợ giúp của cá nhân, cơ quan, tơ chức dé đương sự có thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Đồng thời, cịn thiếu những quy định cụ thê dé xử lý các hành vi vi phạm trong việc thực hiện nghĩa vụ của đương sự như thủ tục, thâm quyền xử phạt, mức tiền phạt hành vi vi phạm nghĩa vụ. Thực tế đó chứng tỏ PLTTDS hiện hành cần nhanh chóng hoàn thiện, đồng bộ với luật nội dung, bảo đảm tính nghiêm minh, cơng bằng, dân chủ và pháp chế, từ đó có những quy định cụ thé, thống nhất dé bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của đương sự nhất là bảo đảm việc bị đơn và người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải có mặt theo giấy triệu tập của Tịa án. Cần có sự thong nhat vé nhan thức cũng như bổ sung quy định của PLTTDS về việc đương sự không thực hiện NVTT thì sẽ khơng được hưởng qun tơ tụng. Cần thiết có thé bố sung quy định các chế tài nghiêm khắc hơn nữa đối với việc đương sự khơng có mặt theo giấy triệu tập của Tịa án và khơng tơn trọng Tịa án như phạt tiền nặng hơn hoặc có thê bị áp dụng biện pháp dẫn giải đương sự đó đến Tịa án hoặc khơng được hưởng một số quyền tố tụng...
Dé bảo đảm cho việc áp dụng chế tài đối với đương sự không thực hiện NVTT dat hiệu quả, cần thiết phải ban hành trình tự, thủ tục, biện pháp áp dụng và thi hành chế tài đó có tính khả thi nhất. Tránh việc Tòa án ban hành quyết định áp dụng các chế tài mà PLTTDS quy định nhưng không thê thực thi trên thực tế. Ví dụ như: Tịa án quyết định
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">phạt tiền đương sự nhưng Cơ quan thi hành án dân sự không thé thu tiền của đương sự được do họ không chịu nộp tiền hoặc khơng có tiền để nộp hoặc chi phí dé Cơ quan thi hành án phải bỏ ra dé cưỡng chế thi hành lớn hơn số tiền có thé thu được. Vậy giải pháp trong van dé này như thé nào cần có sự sửa đối, b6 sung PLTTDS một cách toàn diện va đồng bộ mới tạo điều kiện dé bảo đảm cho việc thực hiện tốt NVTT của đương sự.
1.3.2. Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự
Việc thực hiện tốt NVTT của đương sự nhất là bảo đảm sự có mặt của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn sẽ quyết định quá trình giải quyết VADS nhanh hay chậm, có hiệu quả hay khơng. Thực tế, trong q trình giải quyết VADS có nhiều trường hợp bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn đã khơng chấp hành theo giấy triệu tập của Tịa án, cơ tình trốn tránh, làm cho vụ án bị kéo dài, gây khó khăn cho việc Tịa án giải quyết vụ án. Có trường hợp đương sự khơng những cố tình trốn tránh, từ chối khai báo, mà còn thách thức cán bộ Tòa án, khi cán bộ Tòa án trực tiếp đến nhà đương sự để lấy lời khai, xem xét, định giá... Cịn về phía ngun đơn thì nhiều trường hợp chưa thực sự tích cực trong việc thu thập chứng cứ mà có tư tưởng y lại cho Tịa án. Nguyên nhân của sự việc đó có thé do ý thức chấp hành pháp luật của đương sự không tốt hoặc do đương sự khơng có lịng tin đối với việc giải quyết VADS của Tịa án. Do đó, có thé nói rằng ý thức chấp hành pháp luật của đương sự là một trong những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện tốt NVTT của đương sự.
Ý thức chấp hành pháp luật của đương sự còn bị ảnh hưởng bởi sự tư van mang tinh chất có tình gây khó khăn cho hoạt động tố tụng của Tịa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự đó về dân sự của một số luật sư, luật gia với mục đích bảo vệ thân chủ của mình đến cùng, bat chấp việc tư vấn đó có thé gây khó khăn, can trở cho hoạt động tố tụng <small>của Tòa án.</small>
<small>1.3.3. Trách nhiệm của Tòa an</small>
Tòa án là cơ quan thực hiện quyền lực của Nhà nước trong việc xét xử, giải quyết VADS, là cơ quan tiến hành tố tụng và là chủ thé có quyền áp dụng các thủ tục và biện pháp tố tụng đối với đương sự. Do đó, trách nhiệm của Tịa án cũng rất quan trọng trong việc thực hiện quyền của mình đối với NVTT của đương sự. Tịa án thực hiện quyền của mình một cách khách quan, vơ tư, cơng minh và bình đẳng đối với tất cả các đương sự, khơng phân biệt đương sự đó là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là cá nhân
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">hay cơ quan, tơ chức thì sẽ tạo điều kiện cho đương sự thực hiện được NV TT của mình một cách tốt nhất và tạo được lòng tin của đương sự vào việc giải quyết VADS.
Khi thực hiện quyền của Tòa án trong việc yêu cầu đương sự thực hiện NVTT như triệu tập đương sự đến Tịa án, thì Tịa án cũng cần phải có cách áp dụng một cách linh hoạt và khoa học như: Việc triệu tập đương sự trực tiếp hay gián tiếp qua bưu điện, qua chính quyền địa phương thì phải đảm bảo giấy đó đến tay đương sự trước đó ít nhất từ một đến hai ngày dé họ cịn sắp xếp cơng việc ở cơ quan và gia đình thì mới có thé có mặt đúng giờ theo giấy triệu tập của Tịa án được. Hoặc đương sự đã thơng báo trước với Tịa án là họ
bận cơng việc vào buổi sáng thì Tịa án cần triệu tập họ vào buổi chiều. Khi đã triệu tập
được đương sự đến Tịa án thì cần tận dụng hết thời gian đương sự có mặt ở Tòa án dé thực hiện các thủ tục tố tụng, tránh việc chỉ triệu tập lên dé giao tài liệu, chứng cứ hoặc nhận van bản tố tụng của Tòa án rồi lại dé họ về sẽ khiến cho đương sự khơng coi việc có mặt là quan trọng. Ngồi ra, cán bộ Tịa án cũng cần phải nâng cao trách nhiệm trình độ, năng lực chun mơn, bản lĩnh nghề nghiệp, thái độ tiếp đương sự thì mới tạo được niềm tin cho đương sự vào viỆc giải quyết VADS, từ đó họ sẽ thực hiện tốt NVTT của mình.
1.4. Quy định của pháp luật một số nước trên thế giới về nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự
PLTTDS của các nước trên thế giới quy định về nghĩa vụ của đương sự đều có những điểm tương đồng va cũng có những điểm khác biệt nhất định. Tìm hiểu các quy định về nghĩa vụ của đương sự trong pháp luật một số nước điển hình cho mỗi hệ thống pháp luật là điều cần thiết để tham khảo góp phân vào việc hồn thiện PLTTDS Việt Nam về <small>nghĩa vụ của đương sự.</small>
BLTTDS của nước Cộng hòa Pháp đã quy định đương sự có một số nghĩa vụ tố tụng như: nghĩa vụ viện dẫn, giải thích và chứng minh các tình tiết cụ thể làm căn cứ cho các yêu cầu của mình (Điều 6, 8, 9); có nghĩa vụ giúp thâm phán thực hiện các biện pháp thâm cứu và phải chịu mọi hậu quả trong trường hợp không giúp đỡ hoặc từ chối giúp đỡ; nếu một bên đương sự đang nắm giữ một yếu tố cấu thành chứng cứ, thì theo u cầu của bên kia, thẩm phán có thé ra lệnh cho họ cung cấp yêu tố cau thành chứng cứ đó, trong trường hợp cần thiết có thé áp dụng biện pháp phạt tiền dé cưỡng chế (Điều 11); có nghĩa vụ cung cấp những văn bản giải thích pháp luật cần thiết để giải quyết vụ tranh chấp theo yêu cầu của Thâm phán (Điều 13); phải thông báo cho nhau, trong một thời gian hợp lý, những tình tiết làm căn cứ cho những yêu cầu của mình, những chứng cứ đã xuất trình và căn cứ pháp luật đã viện dẫn, nhằm bảo đảm cho mỗi bên đương sự có thể tự tổ chức việc bảo vệ quyền lợi của mình (Điều 15); có nghĩa vụ tơn trọng Tịa án (Điều 24); bên đương sự đưa ra một
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">giấy tờ, tài liệu nào đó làm căn cứ có nghĩa vụ phải trao đổi giấy tờ, tài liệu đó cho các bên khác trong cùng vụ kiện (Điều 132); các bên đương sự phải có mặt trước Tịa, trước thâm phán hoặc trước Hội đồng xét xử (HDXX) theo yêu cầu của Thâm phán chịu trách nhiệm thâm cứu vụ kiện và của HDXX (Điều 184, 185); các bên đương sự phải tự mình trả lời những câu hỏi đặt ra cho họ mà không được đọc một bản trả lời sẵn nào (Điều 191);
Về hậu quả pháp lý đối với việc đương sự không thực hiện nghĩa vụ, BLTTDS Pháp quy định: đương sự bên kia nhận được tài liệu, giấy tờ phải hoàn lại cho đương sự bên này, nếu khơng hồn lại có thé bị phạt tiền và cưỡng chế (Điều 136); khi Tham phán yêu cầu bên nào phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định mà bên đó khơng nộp đúng hạn hoặc khơng chịu nộp hoặc từ chối nộp thì vụ kiện khơng được tiếp tục (Điều 269, 271); đương sự có thé bị phạt tiền từ 100 đến 1.000 Phò-răng, bồi thường thiệt hại nếu yêu cầu thay đổi Thâm phán không được chấp nhận (Điều 353); nếu khơng có lý do chính đáng mà ngun đơn khơng ra trước Tịa, bị đơn có thé yêu cầu cứ xét xử tranh chấp coi như có mặt cả hai bên. Tham phán cũng có thé mặc nhiên tuyên bố việc nguyên đơn triệu tập bị đơn ta Tịa là vơ hiệu (Điều 468); nếu sau khi đã đến phiên tòa, một trong các đương sự không chịu thực hiện các hành vi tố tụng trong thời hạn yêu cầu, Thâm phán sẽ xử như có tranh trụng giữa hai bên trên cơ sở những tài liệu hiện có; nếu khơng đương sự nao thực hiện các hành vi tố tụng trong thời hạn yêu cầu, thâm phán có thể mặc nhiên xóa số thụ lý vụ kiện và các bên khơng có quyền kháng cáo quyết định này (Điều 468, 469); bị đơn vắng mặt có thê được triệu tập lại theo yêu cầu của nguyên đơn hoặc theo quyết định của thấm phán, nếu giấy triệu tập lần trước không đến tay họ (Điều 471); néu bi don khơng ra Tịa, việc kiện vẫn có thể được xét xử và quyết định về nội dung. Khi có nhiều bị đơn được triệu tập về cùng một việc, nếu một người không đến, việc xét xử coi như có mặt tất cả các bị đơn nếu quyết định còn được kháng cáo (Điều 472); bên thua kiện phải chịu án phí, trừ khi Tịa án có quyết định ghi rõ đầy đủ căn cứ buộc bên kia phải chịu toàn bộ hoặc một phần án phí (Điều 696); giấy triệu tập gửi bị đơn có giá trị như giấy gọi ra Tòa và ghi rõ nếu bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, Tòa chỉ dựa trên các tài liệu do nguyên đơn cung cấp và có thể ra quyết định bất lợi cho bị đơn (Điều 847-2)
BLTTDS Liên bang Nga năm 2003 quy định: Các bên có NVTT như nhau (Điều 38); người có quyên lợi nghĩa vụ liên quan có NVTT như nguyên đơn (Điều 42); người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu độc lập có NVTT như các bên (Điều 43); trong trường hợp một bên không thê TGTT (công dân chết, thay đôi pháp nhân do giải thé, cham dứt; chuyền giao quyền yêu cầu, chuyền giao nghĩa vu và những trường hợp thay thé khác), thì bên đó được thay thế bằng người kế thừa NVTT. Việc thay thế được tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào của tố tụng (Điều 44); trong trường hợp đương sự khơng thực hiện NVTT thì phải chịu hậu quả pháp ly do PLTTDS quy định (Điều 34, 35); mỗi bên có nghĩa
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">vụ phải chứng minh những tình tiết làm co sở cho những yêu cầu của minh hay sự phản đối yêu cầu của bên kia (Điều 56); nếu người được tống đạt từ chối tiếp nhận giấy gọi hoặc giấy báo của Tịa án thì người được tống đạt coi như đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án hoặc thơi gian và địa điểm thực hiện hoạt động tố tụng (Điều 117); <small>những người TGTT và những người có mặt tại phịng xử án có nghĩa vụ tuân thủ trật tự</small> phiên tòa (Điều 158). Người vi phạm bị chủ tọa phiên tòa cảnh cáo. Nếu vi phạm trật tự phiên tòa lần thứ hai thì bị đi khỏi phịng xử án một thời gian hoặc trong toàn bộ thời gian xét xử hoặc bị phạt tiền với mức đưới 10 lần lương tối thiểu. Trường hợp hành vi của người vi phạm trật tự phiên toa có dấu hiệu tội phạm, Tham phan chuyén cho Kiểm sát viên khởi tố về hình sự (Điều 159); đương sự đã được triệu tập nhưng vắng mặt một trong những người TGTT mà không được thông báo thì tạm hỗn phiên tồ (Khoản 2 Điều 167); Tịa án có quyền xét xử vụ án trong trường hợp vắng mặt một trong những người TGTT đã được thông báo về thời gian và địa điểm mở phiên toà, nếu người đó khơng đưa ra lý do vắng mặt hoặc Tòa án cho rằng lý do văng mặt là khơng chính đáng. Tịa án có quyền xét xử vụ án VỚI Sự vắng mặt của bị đơn đã được thông báo về thời gian và địa điểm mở phiên tồ, nếu bị đơn khơng thơng báo cho Tịa án lý do vắng mặt chính đáng của mình và khơng yêu cầu Tòa án xét xử vụ án với sự vắng mặt của bị đơn.
BLTTDS Trung Quốc quy định các đương sự có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập, ngun đơn có giấy gọi nhưng khơng có lý do chính đáng mà khơng ra tồ, có thể xử vắng <small>mặt, các đương sự có nghĩa vụ tuân thủ kỷ luật phiên tịa, hay đương sự có trách nhiệm đưa</small> ra chứng cứ về những chủ trương của mình nêu ra (Điều 64).
Theo pháp luật TTDS của Anh thì đương đương sự khơng thanh tốn đầy đủ án phí sẽ bị phạt tiền [21, tr.105]. Khi nhận được giấy triệu tập của Tịa án, bị đơn phải trình diện trước Tịa hoặc ít nhất phải phúc đáp Tịa án trong thời hạn 14 ngày. Bị đơn khơng trình diện hoặc khơng nộp bản tự bảo chữa thì quyết định triệu tập đương sự đương nhiên có hiệu lực như một quyết định xét xử vắng mặt và có hiệu lực thi hành. Khi bị đơn phản đối đơn kiện thì luật sư tư vấn của nguyên đơn phải nộp bản giải trình nội dung đơn khởi kiện trong thời hạn 14 ngày (có thể gia hạn nếu được sự đồng ý của bị đơn). Trong thời hạn 14 ngày tiếp theo, luật sự tư vẫn của bị đơn phải đáp lại bằng một văn bản tự bào chữa và các yêu cầu phản tố nếu có. Tại phiên xét xử, luật sư biện hộ của các bên thay mặt cho các bên trình bày các tình tiết của vụ án (tr.170-172).
Phần nhiều các đương sự trong Pháp luật TTDS Mỹ cũng trao quyền cho đại diện là các luật sư dé thực hiện NVTT. Các đương sự đều bình đắng trước pháp luật, không phân <small>biệt địa vị xã hội, cơ quan nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Khi khởi kiện, nguyên đơn</small> phải thực hiện việc “phát lệnh khởi kiện” cho bị đơn băng cách gửi bản sao của đơn khởi kiện và giấy triệu tập thông qua một cảnh sát trưởng, một viên thừa phát lại hoặc gửi qua
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">đường bưu điện ... tùy theo quy tắc của Tòa án thụ lý vụ kiện. BỊ đơn khi nhận được trát của Tòa án có nghĩa vụ phải nộp một “tờ biện minh” dé trả lời cho đơn khởi kiện của nguyên đơn. Các đương sự có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ để chứng minh cho các yêu cầu của mình; đương sự thua kiện có nghĩa vụ phải chịu án phí; đương sự kháng cáo phải nộp tiền dự phí kháng cáo. Một trong những thủ tục tô tụng bắt buộc đối với đương sự là các đương sự phải tuyên thệ rằng việc trình bày của họ là ngay tình. Nếu đương sự gian trá, Tịa án có thê trừng phạt đương sự đã cố tình tạo ra sự gian trá đó.
So sánh các quy định của PLTTDS nước ngồi với PLTTDS Việt Nam nhận thấy: PLTTDS Việt Nam đã tiếp thu và học hỏi cách làm luật TTDS của nước Cộng hòa liên bang Nga trước đây cả về cách bố cục, cách hành văn và quy định về NVTT của đương sự. Nhìn sang các nước khác, chúng ta thấy cần phải học hỏi và rút kinh nghiệm quy định của họ về NVTT mang tính chất thực sự tranh tụng và bao đảm việc đương sự thực hiện NV TT một cách tốt nhất. Một số quy định về NVTT của đương sự của các nước đó mà PLTTDS Việt Nam có thé tiếp thu dé sửa đối, b6 sung như quy định: đương sự có nghĩa vụ viện dẫn, giải thích các tình tiết cụ thể làm căn cứ cho các u cầu của mình; có nghĩa vụ cung cấp những văn bản giải thích pháp luật cần thiết dé giải quyết vụ tranh chấp; phải thông báo cho nhau, trong một thời gian hợp lý, những tình tiết làm căn cứ cho những yêu cau của mình, những chứng cứ đã xuất trình và căn cứ pháp luật đã viện dẫn, nhăm bảo đảm cho mỗi bên đương sự có thé tự tổ chức việc bảo vệ quyền lợi của mình; bên đương sự đưa ra một giấy tờ, tài liệu nào đó làm căn cứ có nghĩa vụ phải trao đơi giấy tờ, tài liệu đó cho các bên khác trong cùng vụ kiện. Duong sự bên kia nhận được tai liệu, giấy tờ phải hồn lại cho đương sự bên này, nếu khơng hồn lại có thể bị phạt tiền và cưỡng chế; khi thâm phán yêu cầu bên nào phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định mà bên đó khơng nộp đúng hạn hoặc không chịu nộp hoặc từ chối nộp thì vụ kiện khơng được tiếp tục; đương sự có thé bi phat tiền, bồi thường thiệt hại nếu yêu cầu thay đôi thâm phán không được chấp nhận; nếu sau khi đã đến phiên tòa, một trong các đương sự không chịu thực hiện các hành vi tố tụng trong thời hạn yêu cầu, thâm phán sẽ xử như có tranh trụng giữa hai bên trên cơ sở những tài liệu hiện có; nếu khơng đương sự nào thực hiện các hành vi tố tụng trong thời hạn yêu cau, thâm phán có thé mặc nhiên xóa số thu lý vụ kiện và các bên khơng có quyền kháng cáo quyết định này (BLTTDS của nước Cộng hòa Pháp); néu người được tống dat từ chối tiếp nhận giấy gọi hoặc giấy báo của Tịa án thì người được tống đạt coi như đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án hoặc thơi gian và địa điểm thực hiện hoạt động tố tụng (BLTTDS <small>Liên bang Nga).</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Kết luận Chương 1
Nghĩa vụ của đương sự trong TTDS (gọi tắt là NVTT của đương sự) là việc bắt buộc đương sự phải thực hiện đối với Nhà nước, với cơ quan tiễn hành tố tụng dân sự, với đương sự và với cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, nếu không thực hiện thì sẽ bị áp dụng chế tài theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thê tham gia và bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự được nhanh chóng, chính xác, <small>cơng minh, đúng pháp luật.</small>
NVTT của đương sự mang tinh bắt buộc và chế tài, có mối liên hệ mật thiết với nhiệm vụ và quá trình giải quyết VADS của Tịa án, với NVDS của đương sự và qun tơ tụng của đương sự, có thể được thực hiện thơng qua người đại diện và có thể được chuyền <small>giao cho người khác.</small>
Các quy định của PLTTDS hiện hành về NVTT của đương sự được xây dựng trên cơ sở lý luận phù hợp với quyền và NVDS và thực tiễn việc thực hiện nghĩa vụ của đương sự trong q trình giải quyết VADS tại Tịa án.
Dé bảo đảm cho việc thực hiện NVTT của đương sự thì cần có những quy định pháp luật định đúng, đầy đủ và hợp lý kết hợp với chế tài nghiêm và có tính khả thi. Ngồi ra, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự và trách nhiệm của Tòa án cũng là một trong những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện NVTT của đương sự. Và cần có các quy định về xử lý các vi phạm NV TT của đương sự và các biện dé đương su có thể thực hiện NVTT của mình. Đồng thời, cần nâng cao ý thức pháp luật của đương sự trong việc thực hiện NVTT <small>cua mình cũng như nâng cao trách nhiệm cua Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện NVTTđương sự.</small>
Trên cơ sở tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới quy định về nghĩa vụ của <small>đương sự và các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của đương sự, từ đó đánh giá</small> tính ưu khuyết của các quy định đó để làm cơ sở cho việc sửa đổi, bố sung quy định của PLTTDSVN về nghĩa vụ của đương sự.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>Chuong 2</small>
NOI DUNG PHAP LUAT TO TUNG DAN SU VIET NAM VE NGHIA VU CUA DUONG SU
2.1. Khai quát về sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ của đương sự
<small>2.1.1. Giai đoạn trước Cách mang thang Tam năm 1945</small>
Năm 1884, thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta, chấm dứt thời kỳ xã hội Việt Nam “thudn” phong kiến chuyền sang chế độ thực dân nửa phong kiến. Chế độ phong kiến qua di nhưng van dé lại những dấu vết đậm nét về hoạt động lập pháp với nhiều bộ luật khác nhau nhưng có quy mơ và hồn thiện nhất vào lúc bấy giờ phải ké đến ba bộ luật lớn là Quốc Triều Hình Luật (nhà Lê thế kỷ XV), Quốc Triều Khám Tụng Điều Lệ (thế kỷ XV - XVIII), Hoàng Việt Luật Lệ (luật Gia Long). Do mang ảnh hưởng nặng nề của tu tưởng phong kiến nên các bộ luật này mang tính chất hà khắc, vai trị của con người, của cơng dân, của đương sự không được dé cao, thủ tục xét hỏi, thâm van được quy định phổ biến, các chế tài áp dụng mang tính chất hình sự. Nghĩa vụ của đương sự trong vụ kiện dân <small>sự được quy định một cách tản mạn và không rõ ràng. Tuy vậy, đây cũng là những viên</small> gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc quy định nghĩa vụ của đương sự sau này. Lần đầu tiên trong bộ Quốc Triều Khám Tung Điều Lệ quy định: “Những người kiện tụng có don cáo trạng khiếu nại về: ruộng đất khơng xuất trình văn khé, cưới xin không sinh lễ, treo hỏi, tài sản khơng có trúc thư, tiền nợ khơng có văn tự, đánh nhau khơng có biên bản thương tích, <small>an mạng khơng có nghiệm an, trộm cướp khơng có tang vật, cị bạc khơng có tang chứng,</small> ức hiếp khơng phải là người hiền quý danh vọng thì các nha mơn khơng được khám tụng. Nếu nhận bừa thì gom xét sự việc trước sau luận bác đi”. Nghĩa vụ của đương sự lần đầu tiên được nhắc đến một cách rõ ràng trong việc chứng minh yêu cầu của mình bằng cách cung cấp chứng cứ trong những vụ việc cụ thé, nếu khi yêu cầu giải quyết mà đương sự khơng đưa ra được bằng chứng thì quan xét xử sẽ bác bỏ đơn kiện. Trong tập V bộ Hồng
<small>Việt Luật Lệ có quy định “pham đơn gửi Toa án chỉ cho phép một đơn thưa một việc thưa</small>
việc phạm tội thật có bằng chứng. Thừa thẩm quan lúc xử kiện cung chứng đã xác thực mà có 1, 2 người khơng đến hau tịa thì khơng liên quan đến bản án”. Đây là hai quy định được áp dụng phơ biến khi có việc thưa kiện. Nó được áp dụng rộng rãi khi giải quyết các vấn đề kiện tụng thuộc cả luật hình sự, dân sự và hơn nhân gia đình.
Bằng hai bản thỏa ước ngày 5/6/1882 cắt đứt miền Nam bao gồm 6 tỉnh để sát nhập vào lãnh thổ Pháp gọi là Nam Kỳ, thỏa ước ngày 6/6/1884 biến miền Bắc và miền Trung thành lãnh thổ bảo hộ của Pháp và đạo dụ năm 1898 của Hoàng đề Đồng Khánh nhượng 3
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">thanh phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng thành đất nhượng địa cho Pháp, Việt Nam chính thức bị thực dân Pháp đơ hộ. Khi đến nước ta chúng thiết lập một chế độ đô hộ hà khắc nhằm bóc lột và vơ vét của cải đặc biệt thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa trên quy mô lớn. Nhằm phục vụ cho mưu đồ của mình chúng thay đổi nước ta thành một nước thực dân nửa phong kiến. Việc đầu tiên là ban hành các bộ luật nhằm 6n định tình hình trong nước, thiết lập sự đô hộ. Liên quan đến hoạt động TTDS, trong giai đoạn này chúng ban hành một số bộ luật khác nhau như Bộ dân sự tố tụng Nam Ky năm 1910, Bộ dân sự tô tụng Bắc Kỳ năm 1917, Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng Bắc Kỳ năm 1921, và Bộ Hộ sự và thương sự Trung Kỳ năm 1942... Các bộ luật này mang tư tưởng phong kiến và dựa trên khuôn mẫu của BLDS Pháp 1807. Trong giai đoạn này, nghĩa vụ của đương sự được quy định như “Về phương diện dan chứng... buộc bên đương sự nào nại ra phải có nghĩa vụ dan chứng.. ” va “Các đương sự trong mot vu kiện phải dẫn chứng. Mỗi người muốn viện dan một sự kiện hay một hành vi pháp lý phải chứng mình sự kiện, hành vi đó” [43, tr 191]. Đây là một quy định hiểm hoi có thể tiếp cận được bởi các văn bản thời kỳ này được viết hồn tồn băng tiếng Pháp, khơng dịch ra chữ Quốc Ngữ cũng như khơng có các cơng trình nghiên cứu chỉ tiết. Mặt khác, giai đoạn này sử dụng một cách đồng loạt các án lệ nơi Tòa án nên các quy tắc thành văn “cb yếu vạch sẵn ty mỉ những l lỗi phải theo như một thơng tư hành chính chứ ít có điều khoản chính xác định thức một nguyên tắc pháp lý tổng quát” - mang tính chất thủ tục [31, tr. 22]. Đồng thời với đó là việc duy trì hai hệ thống Tòa án khác nhau với việc phân chia hai loại đương <small>sự khác nhau. Tòa án do pháp lập xét xử các công dân của Pháp hoặc những người đượcbiệt đãi như người pháp, Tòa án của Việt Nam xét xử những đương sự là người Việt nhưng</small> vẫn bị những nhà cầm quyền người Pháp thâu tóm và thống trị, Việt Nam trong giai đoạn này “khơng có một nên tư pháp thuần túy bởi vì tat cả các quyên hành hư hay thực đều do nhà cam quyên Pháp nam giữ [55].
2.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa — nhà nước dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á được thành lập, đánh dấu sự thay đổi toàn diện về mọi mặt trong đời song xã hội, trong lĩnh vực tư pháp, tô tụng.
Ngày 10/10/1945 nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 47/SL cho tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ mà không trái với bản chất của nhà nước cách mạng. Tuy nhiên, sắc lệnh trên chỉ đề cập đến việc cho áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung của chế độ cũ mà không không đề cập đến việc có cho tiếp tục áp dụng các quy định về hoạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">động tố tụng hay khơng. Tiếp theo đó, nhà nước ban hành nhiều quy định khác nhau liên quan đến hoạt động TTDS ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Sắc Lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch thâm phán, Sắc Lệnh 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về thâm quyền của Tòa án các cấp, Sắc Lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 bồ xung sắc lệnh số 51, Sắc Lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc Lệnh 159/SL ngày 7/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn ... các quy định về nghĩa vụ của đương sự được quy định khá nhiều trong các văn bản này.
Tại Thông tư số 2386 — NCPL ngày 19/12/1961 của TANDTC hướng dẫn: “Trong ban án sơ thẩm phải chỉ ra: Nguyên don yêu cau giải quyết những vấn đề cụ thé gì và nêu ra những bằng chứng gì làm căn cứ — ý kiến của bị don đổi với những lời thỉnh cẩu của nguyên đơn: có chấp nhận hay khơng lời thỉnh cau đó hoặc chỉ chấp nhận đến mức nào thơi, dan những bằng chứng gì làm căn cứ cho những ÿ kiến đó ”. Khi đương sự có u cầu giải quyết thì buộc phải dẫn ra những chứng cứ bảo vệ cho yêu cầu của mình, nguyên đơn phải nêu rõ những vấn dé yêu cau, bi đơn phải nêu rõ mình có chấp nhận hay không hoặc chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đến mức nào và cũng có nghĩa vụ dẫn chứng.
Theo đề án năm 1964 của TANDTC về chuyên hướng tô chức các Tịa án địa phương có hướng dan: “7rong các vụ kiện về dân sự, các bên đương sự có trách nhiệm chứng minh các u cau của mình và dé xuất các chứng cứ. Nếu các chứng cứ do các bên đương sự xuất trình chưa đây đủ thì Tịa án sẽ u cau họ xuất trình các chứng cứ bổ sung...” và “ Các đương sự có quyên dé xuất những yêu cau và có nhiệm vụ trình bày những chứng cứ, ly lẽ để chứng minh những yêu cau và bảo vệ quyên lợi hợp pháp của minh.” Duong sự có quyền và nghĩa cụ xuất trình chứng cứ. Tịa án sẽ u cầu, hướng dẫn họ xuất trình chứng cứ trong trường hợp chứng cứ chưa đầy đủ. đương sự nào có u cầu thì có trách nhiệm chứng minh cho u câu đó.
Cơng văn số 96/NCPL ngày 08/2/1977 của TANDTC quy định: “Nếu các ẩương sự đã có qun lợi thì họ cũng có những nghĩa vu trong TTDS. Nghĩa vụ bao trùm của họ là phải sử dụng những quyên về tô tụng một cách thiện ÿ, do đó, họ có những nhiệm vu cụ thé là: dé xuất chứng cứ, khai báo dung sự thật mà không được mua chuộc nhân chứng hoặc dung tài liệu giả mao trong t6 tụng, có mặt tại Toa an khi được triệu tap va chấp hành nghiêm chỉnh bản án. Nguyên don đã được triệu tập mà khơng đến Tịa án, néu khơng có lÿ do chính đáng, thì vụ kiện của họ sẽ bị tạm xếp. Bị đơn vắng mặt khơng có lý do chính đáng có thể bị xử vắng mặt. Người sử dung tài liệu giả mạo có thể bị truy tơ về hình sự. Người di kiện mà bị bác yêu câu thì phải chịu án phi...” (Mục A — Phần thứ nhất)
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Trong bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thấm về dân sự kèm theo thông tư số 96 — NC/PL ngày 8/2/1977 của TANDTC hướng dan: “Dé bảo vệ quyển lợi của mình các đương sự có nhiệm vụ dé xuất chứng cứ nhưng TAND không được phép chỉ dựa vào lời khai của đương sự và những giấy tờ mà họ xuất trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải dùng mọi biện pháp can thiết dé làm sáng tỏ sự thật.” Mặc dù đương sự có nghĩa vu đề xuất những chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nhưng Tịa án với vị trí của cơ quan xét xử không được thiên vị bất cứ bên nào mà phải xem xét một cách toàn diện cũng như tìm mọi biện pháp dé có thé làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án bảo vệ quyền lợi của các bên.
Tại Thông tư liên ngành cố 02/TTLN ngày 02/10/1985 của TANDTC-VKSNDTC-BTP-BLĐ-TCDN quy định: “Thi rưởng cơ quan, giám đốc xí nghiệp hoặc đại diện của Ủy ban nhân dân trong việc kiện phải có mặt khi được Toa an triệu tập đề diéu tra hoặc xét xử, nhưng cũng có thé cử người đại điện cho mình TGTT” (Mục 2 — Phần IV)
2.1.3 Giai đoạn từ 1989 đến 2005
Năm 1989 được đánh dấu bằng sự ra đời của PLTTGQCVADS, tiếp theo đó là PLTTGQCVAKT năm 1994 và PLTTGQCTCLĐ năm 1996. Đây là ba pháp lệnh tiền thân của BLTTDS hiện nay, nó đã bước đầu khắc phục được tính chất tản mạn của các quy phạm pháp luật, thu trình tự giải quyết vụ việc về những văn bản thống nhất và có giá trị cao. Tuy nhiên, ba pháp lệnh này lại mang tính chất chung chung, định hướng, các quy định còn chưa thực sự rõ ràng, vẫn chưa thê thống nhất VADS về một trình tự thủ tục chung gây khó khăn cho đương sự và Tòa án. Về nghĩa vụ của đương sự tại các pháp lệnh này được
<small>quy định như sau:</small>
PLTTGQCVADS ngày 29/11/1989 quy định: Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ; thi hành quyết định, thực hiện u cầu của Tồ án; phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; BỊ đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn văng mặt khơng có lý do chính đáng thì có thê bị Tồ án phạt tiền từ hai mươi nghìn đồng đến năm mươi nghìn đồng (khoản 3 Điều 20); Người đại điện được uỷ quyên thực hiện quyền và nghĩa vụ tổ tụng của đương sự trong phạm vi được uỷ quyền (Điều 23); Nếu đương sự chết mà quyền hoặc nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế TGTT; Nếu pháp nhân sáp nhập, phân chia hoặc giải thê thì pháp nhân nào tiếp tục nhiệm vụ, tiếp thu tài sản của pháp nhân cũ có quyền và nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân đó (Điều 27); Nguyên đơn; bị đơn có yêu cầu đối với nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải nộp tiền TƯAP, trừ những trường hợp được miễn (Điều 31, 32); Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn văng mặt khơng có lý do chính đáng thì Tịa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 3 Điều 46); Người vi phạm trật tự phiên tồ, tuỳ trường hợp, có
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ phiên toa và thi hành lệnh của chu toa phiên toa về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người gây rối trật tự phiên toà (Điều 54).
Pháp lệnh này không quy định việc áp giải đương sự cho nên Tịa án khơng có quyền u cầu áp giải bị đơn cố tình vắng mặt. Đối với các trường hợp Tòa án đã triệu tập nhiều lần mà bị đơn khơng chịu đến trụ sở Tịa án để Tịa án lấy lời khai, hịa giải, thì Tịa án có thé phối hợp với Ủy ban nhân dan(UBND) cấp xã triệu tập họ đến trụ sở UBND dé lay lời khai, ủy quyền cho UBND lấy lời khai hoặc trực tiếp đến nhà họ để lấy lời khai. Nếu đã làm như vậy mà vẫn không lấy được lời khai của bị đơn, thì Tịa án thu thập chứng cứ cần thiết từ các nguồn khác và phản ảnh rõ trong hồ sơ việc không lay được lời khai của bị đơn. Sau đó Tịa án tự mình hoặc đề nghị UBND cấp xã niêm yết giấy triệu tập phiên tòa tại trụ sở UBND và tại nơi ở của bị đơn. Nếu bị đơn triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn khơng đến phiên tịa, thì Toa án xét xử vụ an văng mặt của họ theo quy định tại khoản 3 Điều 48 của Pháp lệnh. (Nghị quyết 02/1990/HDTP của HDTP TANDTC)
PLTTGQCVAKT ngày 16/3/1994 cũng quy định: “Duong sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh dé bảo vệ quyển lợi của mình” (Điều 3), phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tịa (khoản 3 Điều 21)
PLTTGQCTCLĐ ngày 11/4/1996 có quy định: “Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ dé bảo vệ quyên lợi ích hợp pháp của mình” (Điều 2), phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa (Khoản 3 Điều 20)
NVTT của đương sự trong các pháp lệnh trên và vẫn đề chứng minh trong giai đoạn từ 1989 đến trước khi BLTTDS 2004 có hiệu lực cịn có nhiều hạn chế do sự nhận thức chưa đúng đắn trên cơ sở của một nền kinh tế, xã hội kém phát triển, các giao lưu dân sự còn đơn giản, tranh chấp diễn ra không nhiều với độ phức tạp không cao. Với những hạn chế chung về chứng minh, ba pháp lệnh không đề cao vai trò chứng minh của đương sự cũng như khơng tạo điều kiện để đương sự có thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chứng minh
<small>của mình.</small>
2.2. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành quy định về nghĩa vụ của đương sự Nghĩa vụ của đương sự được quy định chung với quyền của đương sự tại Điều 58 BLTTDS năm 2004. Nhưng Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 khơng sửa đổi, bố sung gì về nghĩa vụ của đương sự. Trong điều luật lại không quy định tách bạch khoản nào quy định quyền, khoản nào quy định về nghĩa vụ mà chỉ liệt kê đương sự có những quyền và nghĩa vụ từ điểm a đến điểm y khoản 2 Điều 58 BLTTDS sửa đổi.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Theo cách liệt kê này thì có thé được hiểu những quy định ở phan trên của khoản 2 là quy định về quyền, còn những quy định ở phần dưới là quy định về nghĩa vụ. Nhưng thực tế lại không phải như vậy. Bởi lẽ, nếu hiểu theo cách trình bày như vậy thì cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh chỉ là quyền của đương sự. Nhưng tại Điều 6 BLTTDS quy định một nguyên tắc cơ bản là: Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Như vậy, cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh trong TTDS vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của đương sự. Với cách hiểu thông thường quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTDS thì khi TGTT, đương sự có các nghĩa vụ như sau: Cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho u câu của mình là có căn cứ và hợp pháp (điềm b), phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án (điểm p), tơn trọng Tịa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà (điềm r), nộp tiên TƯAP, tạm ứng lệ phí, án phi, lệ phí và chi phí theo quy định của pháp luật (diém u).
Chính sự quy định khơng rõ ràng như vậy nên cũng có quan điểm cho rang ngoài các <small>nghĩa vụ như trên thì đương sự cịn có nghĩa vụ “tham gia phiên toa”. Tham gia phiên tòa</small> vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự. Ở khía cạnh là quyền thì Tịa án phải triệu tập hợp lệ dé đương sự được tham gia phiên tòa dé ho bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ở khía cạnh là nghĩa vụ thì đương sự phải tham gia phiên tòa dé trả lời các câu hỏi của HDXX, dé đối đáp, tranh luận với đương sự phía bên kia nhằm làm rõ các tình tiết của <small>vụ án. Khi tham gia phiên tòa, đương sự phải trả lời các câu hỏi của HDXX chứ khơng chilà có mặt tại phiên tịa nhưng khơng nói, khơng hỏi gì cả thì sự có mặt của họ tại phiên tịalà khơng có ý nghĩa.</small>
BLTTDS Việt Nam cịn quy định quyền và nghĩa vụ riêng, đặc thù của từng đương sự như quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn (Điều 59), của bị đơn (Điều 60), của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Điều 61), kế thừa quyền và NVTT (Điều 62). Nhưng ở mỗi
<small>quy định riêng đó cũng khơng có quy định thêm nghĩa vụ riêng của từng tư cách TGTT của</small>
các đương sự mà chỉ quy định thêm quyền của đương sự. Cho nên các đương sự dù là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều khơng có nghĩa vụ riêng
mà chỉ có nghĩa vụ chung của đương sự. Nhưng khi khơng thực hiện NVTT thì ở mỗi tư
cách TGTT thì đương sự lại phải chịu những biện pháp chế tài khác nhau.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">2.2.1. Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng mình:
Theo điểm b khoản 2 Điều 56 BLTTDS và các điều từ Điều 79 đến Điều 98 BLTTDS thì về cơ bản việc thu thập chứng cứ và chứng minh thuộc về đương sự, Tòa án chỉ thực hiện việc thu thập chứng cứ khi đương sự khơng thê tự mình thu thập và khi có yêu cầu của đương sự. Điều này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS. Nguyên tắc này được kế thừa từ các quy định trong PLTTGQCVADS năm 1989 (Điều 3), PLTTGQCVAKT năm 1994 (Điều 3) và PLTTGQCVALD năm 1996 (Điều 2). Tuy nhiên, nếu đi vào cu thé từng điều luật có thé thấy các pháp lệnh trước đây đã đồng nhất nghĩa vụ chứng minh với nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Việc đồng nhất hai nghĩa vụ này với nhau là khơng có cơ sở bởi việc cung cấp chứng cứ chỉ là một phần trong hoạt động chứng minh bao gồm nhiều hoạt động từ thu thập, cung cấp đến nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Từ đó sẽ khơng nhận thức được đầy đủ về vai trò chứng minh của đương sự cũng như không thể tạo ra những cơ chế hữu hiệu để đương sự có thé hồn thành được nghĩa vụ của mình, ảnh hưởng đến các qun và lợi ích hợp pháp. Nguyên nhân là lúc đó vẫn tồn tại hoạt động điều tra của Tòa án đối với mỗi vụ án cụ thể. Từ việc điều tra, thu thập chứng cứ Tịa án sẽ phân tích, đánh giá và quyết định. Chính vì vậy mà trong một thời gian dài vai trò chứng minh của đương sự trong việc giải quyết VADS không được quan tâm và đề cao. Khắc phục những hạn chế trước đây và phù hợp hơn với hoàn cảnh hiện tại, BLTTDS năm 2004 đã bỏ đi han phan điều tra trong TTDS, dé cao hơn nghĩa vụ chứng minh của đương sự và được cụ thé hóa tại Điều 79 BLTTDS.
Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản và có tính chỉ đạo xun suốt vì xuất phát từ bản chất của TTDS là giải quyết các tranh chấp giữa các bên trên cơ sở pháp luật, mục đích là dé bảo vệ các quyền và lợi ích của mọi chủ thể của QHPLDS. Theo đó, khơng có sự can thiệp của quyền lực nhà nước, các bên hồn tồn bình đăng trong quan hệ tố tụng. Đương sự là trung tâm của hoạt động tố tụng, là chủ thé của QHPL nội dung đang tranh chấp. Quyền và lợi ích của họ sẽ do chính họ quyết định thơng qua hoạt động thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nhà nước khơng can thiệp mà chi công nhận các quyền lợi khi xem xét chứng cứ thấy có căn cứ và hợp pháp thông qua hoạt động chứng minh của đương sự. Việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết VADS. Tịa án chỉ có thé giải quyết đúng đăn VADS khi có đầy đủ các chứng cứ và các tình tiết của VADS đã được làm sáng tỏ.
<small>Nhìn chung, việc cung câp chứng cứ là nghĩa vụ của đương sự đơi với u câu của mình,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">bởi vì họ là người trong QHPL phát sinh tranh chấp, hơn ai hết họ là người hiểu rõ nhất nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, nội dung vụ án, họ cũng là người đưa ra yêu cầu do vậy họ phải cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh làm rõ các tình tiết của vụ án. Tuy nhiên, việc cung cấp chứng cứ của đương sự phải tuân theo quy định của BLTTDS vẻ trình tự và thủ tục.
Về phía đương sự thì việc cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh vừa là quyền vừa là nghĩa vụ. Cịn về phía Tịa án, khi đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh thì cũng là lúc Tòa án tiến hành biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình. Do đó, khi đương sự có hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án như: Khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật, từ chối khai báo hoặc từ chối cung cấp tài liệu ... thì tùy theo mức độ vi phạm sẽ phải chịu biện pháp xử lý theo quy định tại Điều 3§5 BLTTDS như bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính hoặc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung, về cơ bản những quy định của BLTTDS về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm giải quyết VADS đúng thời hạn và đúng đắn. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLTTDS cho thấy, đa số các bản án bị hủy, sửa là do sai sót trong việc thu thập, xác minh chứng cứ; thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự cũng cho thấy khơng phải lúc nào đương sự cũng có thể tự thu thập chứng cứ dé chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của minh. Điều này thê hiện các quy định của BLTTDS về cung cấp chứng cứ, chứng minh cịn có những bắt cập nhất định như: Những quy định của BLTTDS về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự chủ yếu là về nguyên tắc, thiếu những quy định cụ thé bao đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự.
Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ dé thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Vậy, dé thực hiện nghĩa vụ chứng minh thì đương sự phải xuất trình chứng cứ. Đương sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án bằng hoạt động giao nộp chứng cứ vào hé sơ vụ án. Điều 84 BLTTDS quy định: Trong q trình Tịa án giải quyết VADS, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án; đương sự giao nộp cho Tòa án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiêu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. Đương sự là nguyên đơn phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ ngay khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án theo quy định tại Điều 165 BLTTDS. Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">và những yêu cau của ho là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên trong trường hợp vì lý do khách quan nên họ không thé nộp ngay đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, thì họ phải nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ khác người khởi kiện phải tự mình bồ sung hoặc bồ sung theo yêu cầu của Toa án trong quá trình giải quyết vụ án.
Ví dụ: Khi gửi đơn khởi kiện cho Tồ án yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng, thì người khởi kiện phải gửi kèm theo bản sao hợp đồng có tranh chấp, hố đơn thanh tốn tiền, nhận tai sản, biên bản thanh ly...; nếu họ chưa có thé gửi đủ các tài liệu, chứng cứ này, thì cùng với đơn khởi kiện họ phải gửi bản sao hợp đồng (Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP của <small>TANDTC)</small>
Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi Tịa án thơng báo về việc khởi kiện của nguyên đơn. Trong thời hạn mười lam ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có. Trong trường hợp cần gia hạn thì người được thơng báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Tịa án nêu rõ lý do; néu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Tịa án phải gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày (khoản 1 Điều 175).
Để thực hiện được nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ thì đương sự phải giao nộp
tài liệu, chứng cứ có sẵn hoặc thực hiện biện pháp thu thập chứng cứ. Trong trường hợp
đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn khơng thê tự mình thu thập được thì có thé yêu cầu Tòa án tiễn hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết VADS đúng đắn. Đương sự yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình khơng thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tô chức đang quản lý, lưu trữ chứng cứ cần thu thập đó. (Điều 94 BLTTDS)
Trong q trình giải quyết VADS đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không day đủ sẽ phải chịu những hậu quả về việc đó, nếu đương sự khơng nộp hoặc nộp khơng đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc khơng nộp hoặc nộp khơng day đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 1 Điều 84 ).
Cung cấp chứng cứ là một nghĩa vụ thì hậu qủa của việc đưa ra các yêu cầu nhưng lại không cung cấp đầy đủ các chứng cứ cho Tịa án thì họ sẽ phải chịu hậu quả khơng có
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">lợi do bản án mà Tịa án tuyên chỉ căn cứ vào các chứng cứ do đương sự khác cung cấp hoặc do tự Tòa án thu thập được. Có quan điểm cho rằng khơng nên quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ hoặc nghĩa vụ chứng minh các yêu cầu của chính các đương sự mà chỉ nên quy định các đương sự có quyền cung cấp chứng cứ dé thực hiện quyền lực tham gia vào quá trình chứng minh của mình. Như vậy, nếu xét thấy cần thiết, đương sự có thể tự mình quyết định cung cấp hoặc khơng cung cấp những chứng cứ, tài liệu liên quan đến việc bảo vệ quyền, hoặc lợi ích hợp pháp của mình. Quy định như trên sẽ dẫn đến một số điểm cần tranh luận như sẽ xử lý như thế nào trong trường hợp đương sự từ chối thực hiện quyền của mình nhưng việc từ chối cung cấp chứng cứ của họ có thé làm phương hại đến quyền <small>và lợi ích chung hoặc của người khác. Do đó, buộc các đương sự phải có nghĩa vụ chứng</small> minh trong TTDS là một điều rất cần thiết. Do vậy, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự được quy định trong phan các nguyên tắc của BLTTDS. Đương sự cung cấp chứng cứ có thể do ý thức chủ động của họ hoặc do thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Trong quá trình cung cấp chứng cứ, nếu đương sự có hành vi làm giả, huỷ hoại những chứng cứ quan trọng gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án của Tòa án; khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật; từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thé bị Tịa án quyết định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính hoặc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. (Điều 385 BLTTDS)
Do pháp luật quy định cung cấp chứng cứ vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ và không giới hạn thời gian cung cấp chứng cứ của đương sự nên đương sự đã chây y, chống đối việc cung cấp các chứng cứ bất lợi cho mình cũng như lựa chọn thời điểm thích hợp để cung cấp chứng cứ có lợi cho mình. Theo quy định của BLTTDS hiện nay, trong quá trình giải quyết VADS việc giao nộp chứng cứ có thé được thực hiện bất cứ giai đoạn nào của q trình tơ tụng, không quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ của các đương sự. Đây là điều bất cập và thiếu tính thống nhất, BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử của Tịa án nhưng lại khơng quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự nên có nhiều trường hợp chứng cứ được cung cấp tại cấp phúc thẩm, các bên đương sự cịn lại khơng thé có thời gian thu thập những chứng cứ dé phản bác lại lập luận dựa trên chứng cứ mới của bên kia gây bắt lợi cho họ.
BLTTDS hiện nay chỉ quy định nghĩa vụ của đương sự cung cấp chứng cứ cho Tịa án mà khơng quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho nhau hoặc cũng khơng quy định
<small>trách nhiệm của Tịa án cơng bô các chứng cứ của đương sự này cho các đương sự khác</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">biết. Mặc dù, đương sự có quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tịa án thu thập ” (điểm d khoản 2 Điều 58). Nguyên đơn có nghĩa vụ cung cấp địa chỉ của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nếu nguyên đơn đã cung cấp được nhưng khơng có người ở địa chỉ đó nữa thì giải quyết như thé nào? Có thuộc trường hợp đình chi, trả lại đơn khởi kiện theo điểm i khoản 1 Điều
192 BLTTDS hay khơng thì chưa có hướng dẫn cụ thé.
<small>PLTTDS đặt ra nghĩa vụ chứng minh cho đương sự là vì QHDS là quan hệ riêng tư</small> của các bên, do các bên tự quyết định, tự giải quyết là chủ yếu và chỉ khi các bên khơng tự giải quyết được thì họ cũng tự quyết định có yêu cầu nhà nước can thiệp, hỗ trợ hay không. Mặt khác, các bên đương sự là những người hiểu rõ vụ việc của mình nhất, biết rỡ tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu. Do đó, khi các bên đã đưa việc tranh chấp của họ ra Tịa án thì Tịa án chỉ là trọng tài, giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách khách quan và đúng pháp luật, chứ không thê làm thay, chứng minh thay cho đương sự. Trong một số vụ án, có đương sự khơng hiểu đây là nghĩa vụ chứng minh của mình cho nên khơng những khơng cung cấp chứng cứ cho Tịa án mà cịn khơng hợp tác với Tịa án khi Tịa án thu thập chứng cứ, như khơng cho Tịa án xem xét đối tượng tranh chấp, không cho định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ đối với nhà đất, triệu tập đến dé lấy lời khai nhưng không đến... Vi vậy, có những trường hợp Tịa án đã phải căn cứ vào các chứng cứ bên kia cung cấp và các tài liệu đã thu thập được dé giải quyết vụ án.
Một trong những biện pháp dé hoàn thiện vai trò chứng minh của đương sự là đảm bảo sự bình đăng giữa các đương sự trong hoạt động chứng minh và sự triệt để tuân thủ pháp luật. Bình đẳng ở đây nghĩa là khơng có bất cứ sự phân biệt nào về quyền và nghĩa vụ
đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, dù là cá nhân hay cơ quan, tổ chức. Đồng thời, hậu quả pháp lý bất lợi sẽ áp dụng cho tất cả các đương sự không thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Bên cạnh đó, nhà nước pháp quyền địi hỏi mọi hoạt động phải dựa trên quy định của pháp luật. Không chỉ đương sự phải triệt dé tuân thủ pháp luật khi thực hiện hoạt động chứng minh mà địi hỏi cả từ phía các cơ quan tơ chức có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ đương sự. Một mặt cần nâng cao ý thức trách nhiệm của những cơ quan, tổ chức này mặt khác phải quy định các biện pháp chế tài cụ thể để áp dụng khi họ vi phạm, quy kết trách nhiệm về từng cá nhân cụ thể. Như vậy, hoạt động tố tung mới diễn ra thuận lợi và suôn sẻ. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự là một trong những phương thức pháp lý
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">quan trong dé Toa án va những người TGTT giải quyết VADS đúng pháp luật. Dé chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, đương sự phải đưa ra những chứng cứ hợp pháp, những lý lẽ thuyết phục. Bởi lẽ, quyền lợi của cá nhân, tô chức chỉ có nghĩa ly nếu họ chứng tỏ được sự hiện hữu của nó. Vì vậy, cung cấp chứng cứ dé chứng minh là van dé quan trong dé bảo vệ quyền lợi. Thiếu sự chứng minh này quyên lợi nhiều khi có cũng <small>như khơng.</small>
Ngun đơn phải chứng minh mọi sự kiện và hành vi đối kháng với bị đơn. Bị đơn khơng phải làm gì cả, có thể giữ thái độ thụ động, chống đối lại nguyên đơn nếu cho rằng bị đơn u cầu khơng có căn cứ. Nhưng trước chứng cứ đầy đủ của nguyên đơn, bị đơn nại ra ly lẽ dé chống lại yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn phải chứng minh cho lý lẽ nại ra của mình. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh (mà chúng ta muốn áp đặt cho các đương sự) phải chăng chỉ bao hàm một ý nghĩa là đương sự phải xuất trình các chứng cứ khi đưa ra yêu cầu từ đó chứng tỏ cho Tòa án thấy rằng yêu cầu của ho là đúng? Ngược lại, néu ho không chứng tỏ được điều đó thì coi như họ khơng chứng minh được u cầu của mình. Hay nói như cách hiểu của từ điển Tiếng Việt: Chứng minh nghĩa là làm cho thấy rõ là có sự thật, là đúng; cịn có thật hoặc có đúng hay khơng là phụ thuộc vào người đánh giá. Nếu như vậy nghĩa vụ chứng minh của các đương sự thực chất là các đương sự phải thuyết phục được Tòa án và những người TGTT răng những øì họ trình bày là đúng. Tuy nhiên Tịa án có bị thuyết phục dé tin những gì đương sự đưa ra là đúng hay không lại là một van đề khác. Do đó, điều quan trọng có thể không phải là chứng minh mà là chứng cứ. Nếu đương sự chỉ xuất trình chứng cứ một cách khách quan thì khơng cần đương sự chứng minh. Băng hoạt động của mình, Tịa án cũng có thể tìm ra được sự thật khách quan của vụ an. Nếu hiểu khái niệm chứng minh chỉ đơn thuần là việc đưa ra các chứng cứ và lập luận răng các chứng cứ đó là đúng và do vậy yêu cầu của đương sự là đúng thì hơi vội vàng. Theo chúng tơi hiểu thì đương sự cần thiết phải có nghĩa vụ chứng minh. Cụ thé là họ đưa ra bat kỳ một yêu cầu nao họ phải xuất trình các tài liệu, chứng cứ hoặc lý lẽ dé lập luận rằng yêu cầu của họ là đúng. Chắc chăn là cũng không ai đưa ra yêu cầu mà lại cho rằng u cầu đó là khơng đúng. Tuy vậy, nếu chỉ một mình đương sự hoặc thậm chí cả đương sự và luật sư của đương sự đều xuất trình các chứng cứ và lập luận rằng chứng cứ đó là đúng thi cũng chưa hăn yêu cầu đó là đúng. Việc chấp nhận yêu cầu của đương sự hay bác yêu cầu đó là trách nhiệm, đồng thời là quyền hạn của thâm phán. Như vậy, nếu hiểu đúng ra là đương sự xuất
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">trình chứng cứ va Toa án chứng minh (trên cơ sở yêu cầu của đương su và sử dung các chứng cứ của đương sự cung cấp) là yêu cầu đó đúng hay sai.
Nghĩa vụ chứng minh rộng hơn nghĩa vụ cung cấp chúng cứ bởi để chứng minh thì ngồi việc cung cấp chứng cứ đương sự còn sử dụng lý lẽ, lập luận, căn cứ pháp lý. Đương <small>sự có nghĩa vụ chứng minh có nghĩa là đương sự phải thực hiện hoạt động chứng minh.</small> Điều này khơng có nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt động chứng minh. Như khi cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân khác thì tư cách đương sự thuộc về người được khởi kiện nhưng họ không bắt buộc phải chứng minh cho qun và lợi ích hợp pháp của mình là có căn cứ mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan, tô chức đã khởi kiện, bị đơn cũng không bắt buộc phải chứng minh... Nghĩa vụ chứng minh nói một cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu. Thuật ngữ “yêu cẩu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về sự công nhận là đúng, là có lý và cả u cầu cơng nhận là khơng đúng, khơng có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề ra đối tượng chứng minh. Nội dung đối tượng chứng minh thuộc về phía đương sự bao gồm yêu cầu và phản đối. Trong yêu cầu có yêu cầu ban đầu (đơn khởi kiện), yêu cầu thay đổi, bố xung trong quá trình giải quyết vụ việc, u cầu phản tố (địi hỏi cơng nhận lợi ích của bị đơn) và u cầu độc lập (đòi hỏi của người thứ ba về việc tham gia vụ án). Phản đối bao gồm phản đối về nội dung (là sự phủ nhận của bị don), phản đối về mặt tố tụng (bị đơn cho rằng ngun đơn khơng có quyền kiện họ: ví du như khơng có tư cách hoặc kiện ở tịa khơng có thâm quyên... Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu băng cách khởi kiện thì họ phải có nghĩa vụ chứng minh trước; họ phải xuất trình các chứng cứ, đưa ra lý lẽ dé chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, đồng thời họ phải chỉ ra quy định của pháp luật cho phép chấp nhận yêu cầu của họ (tính hợp pháp của yêu cầu); bên phản đối yêu cầu phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu cũng phải chứng minh...
Điều đó cho thấy, theo quy định của BLTTDS thì nghĩa vụ chứng minh không chỉ đặt ra với bên khởi kiện mà đặt ra với cả bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi khơng đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Quy định này thé hiện sự bình đăng, ngang bằng về nghĩa vụ chứng minh, khơng có loại đương sự nào được miễn trừ nghĩa vụ
<small>chứng minh, dù đương sự đó khởi kiện bảo vệ lợi ích của mình hay lợi ích chung hoặc u</small>
cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng không được miễn trừ nghĩa <small>vu này.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">Đồng thời với việc phải làm thì nghĩa vụ cịn mang lại một hậu quả pháp lý. Hậu quả pháp lý này là việc được Toa án công nhận các quyền và lợi ich hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ và chính xác nghĩa vụ chứng minh. Ngược lại, khi đương sự không thực hiện hoặc thực hiện một cách khơng đầy đủ nghĩa vụ chứng minh thì u cầu đưa ra sẽ không được chấp nhận và sẽ phải chịu hậu quả. Không loại trừ trường hợp người đưa ra yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh nhưng hậu quả pháp lý mang lại không phải là một hậu quả bất lợi như khi bị đơn phản đối yêu cầu của nguyên đơn lại không thực hiện nghĩa vụ chứng minh mà chỉ “chối dài” nhưng phản đối đó vẫn được chấp nhận, trường hợp này phải thấy được rằng hậu quả bất lợi ở đây đã thuộc về phía ngun <small>đơn vì họ đã khơng thực hiện được nghĩa vụ chứng minh của mình nên đã khơng được cơng</small> nhận quyền và lợi ích. Do đó, nếu bên đương sự có nghĩa vụ dua chứng cứ dé chứng minh <small>mà không đưa ra được chứng cứ hoặc khơng đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của</small> việc không chứng minh được hoặc chứng minh khơng day du, đó là, nếu họ là nguyên đơn sẽ bi bác yêu cầu, nếu là bị đơn sẽ bị xử thua kiện, sẽ phải chấp nhận các yêu cầu đã được <small>chứng minh của nguyên đơn.</small>
Quá trình chứng minh là việc sử dụng chứng cứ đúng đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao gồm các hoạt động: cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Các hoạt động này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có hoạt động trước mới có hoạt động sau, và hoạt động sau sẽ là cơ sở dé đánh giá tinh đúng dan và triệt dé của hoạt động trước. Phải có hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và kết quả của <small>họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận thức từ VADS, nhận</small> thức này có đúng đắn, khách quan và tồn diện hay khơng hồn tồn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy đủ và đúng hay không. Bốn hoạt động này kéo dài, nối tiếp và đan xen nhau, không thể tách bạch cơ học từ thời điểm nào đến thời điểm nào là hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh giá chứng cứ. Nhưng có thể nhận thấy rằng những hoạt động này kéo dài suyên suốt quá trình giải quyết VADS, nó chỉ kết thúc khi Tịa án ra phán quyết. Nếu cho răng đương sự có nghĩa vụ chứng minh có nghĩa là đương sự có thê hoặc cần thiết phải tham gia vào tồn bộ q trình chứng minh, bao gồm cả nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Điều đó cần thiết phải được xem xét một cách cân thận và khoa học. Về thực chất, đương sự khơng có đầy đủ cơ hội và khơng có đủ quyền (theo quy định của pháp luật) dé biết được một cách đầy đủ về tat cả các chứng cứ có trong hồ sơ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Đương sự chỉ biết được những chứng cứ do họ cung cấp. Trong phan tranh luận tại phiên tịa, họ có thể biết được những chứng cứ khác thông qua HĐXX hoặc thơng qua q trình tranh luận. Tuy vậy, họ khơng biết được toàn bộ chứng cứ của vụ án. Trong trường hợp khơng biết được tồn bộ chứng cứ của vụ án mà tham gia vào quá trình đánh giá chứng cứ và có nghĩa vụ chứng minh thì việc chứng minh đó sẽ rất khó khăn. Theo quy định hiện nay của pháp luật về tố tụng, chỉ có Tòa án, Viện kiểm sát, các luật sư bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của các đương sự mới có khả năng tiếp cận được tất cả các chứng cứ của vụ án. Ở các nước mà pháp luật quy định việc TGTT của luật sư là bắt buộc hoặc gần như bắt buộc dé thay mặt đương sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì việc các đương sự có nghĩa vụ chứng minh đồng nghĩa với việc luật sư của đương sự phải thực hiện nghĩa vụ
đó. Ở Việt Nam, khả năng tự bảo vệ của các đương sự rất yếu. Sự hiểu biết pháp luật của họ
còn hạn hẹp. Hơn nữa chế định TGTT bắt buộc của luật sư trong TTDS chưa có và cũng chưa có điều kiện để thực hiện. Nếu quy định các đương sự có nghĩa vụ chứng minh tồn bộ thì có thé dẫn đến đương sự khơng có khả năng chứng minh dé bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và hậu quả là quyền và lợi ích hợp pháp của họ khơng được bảo vệ.
<small>Trong lúc đó, một bên đương sự khác được hưởng lợi khơng có căn cứ chỉ do đương sự u</small>
cầu đã khơng có khả năng chứng minh được quyền của mình. Do đó, trong trường hợp đương sự do thiếu hiểu biết pháp luật nên không biết phải chứng minh cái gi, chứng minh như thế nào thì Tịa án cần phải thơng báo cho đương sự biết họ phải cung cấp chứng cứ gì dé chứng minh cho van dé gì chứ khơng phải chỉ thơng báo chung chung là: cưng cấp tồn bộ chứng cứ dé chứng minh cho các yêu cau của mình là có căn cứ pháp luật thì đương sự mới biết là họ cần phải có chứng cứ gì để chứng minh. Trường hợp đương sự biết được cần phải có chứng cứ gì để chứng minh nhưng chứng cứ đó đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ mà đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể u cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn. Đương sự yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ van dé cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình khơng thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tô chức đang quản lý, lưu trữ chứng cứ cần thu thập đó.
<small>Quy định hiện nay của BLTTD đã khơng phân được ranh giới giữa nghĩa vu chứng</small> minh của đương sự (Điều 6 BLTTDS) với trách nhiệm nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án (Điều 85 BLTTDS). BLTTDS xác định nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự và nếu
</div>