Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

tiểu luận cao học nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.2 KB, 32 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỞ ĐẦU1. Lý do lựa chọn đề tài</b>

Tham gia vào q trình thơng tin đến cơng chúng, ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình đóng một vai trị hết sức quan trọng. Ngơn ngữ hình ảnh ở đây khơng phải là lời bình càng khơng phải là âm thanh, tiếng động mà đó chính là những hình ảnh xuất hiện trong các tác phẩm truyền hình. Khi các nhà lý luận đưa đặc trưng “hình ảnh chuyển động liên tục” lên hàng đầu để danh xưng cho nghệ thuật điện ảnh thì nghiễm nhiên hình ảnh đã được định đoạt là một ngơn ngữ.Để biến hình ảnh với tư cách là một ngơn ngữ thì trong quá trình làm tác phẩm truyền hình, nhà báo hay các nhà làm phim đã không quên việc sắp đặt chúng trong một tổng thể của lời bình, tiếng động và âm nhạc. Một hình ảnh tốt sẽ là một đề dẫn tốt cho lời bình. Lời bình đúng, hay sẽ là nhịp cầu để dẫn gợi một hình ảnh mới.

Một hình ảnh có ý nghĩa hơn nhiều những bài viết. Qua quá trình khảo sát cho thấy việc tiếp nhận, tiếp cận thơng tin bằng hình ảnh của cơng chúng, đặc biệt là nhóm cơng chúng giới trẻ, là phần lớn. Và việc thơng tin bằng hình ảnh cũng mang lại hiệu quả trực tiếp, tác động trực tiếp đến nhận thức của công chúng. Từ việc tiếp nhận trực tiếp bằng hình ảnh, cơng chúng sẽ tự đưa ra cho mình những chuẩn mực riêng của cá nhân, từ đó hình thành xu hướng trong lối sống, suy nghĩ và hành động của một bộ phận giới trẻ.

Từ những chuẩn mực về ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình và vai trị của nó đối với xã hội thì hiện naynhiều khi vẫn cịn tồn tại sự sai sót và kém hiệu quả trong việc sử dụng ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình. Có thể thấy, những tác phẩm truyền hình hiện nay ít giàu ngơn ngữ hình như trước đây điển hình là ở những phim tài liệu, các phóng sự truyền hình vì sự đầu tư cho nó càng ngày càng ít và u cầu đối với ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình ngày càng bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác. Chính vì vậy, việc “ nâng cao hiệu quả sử dụng ngơn ngữ hình ảnh” đang là một u cầu thiết yếu đặt ra đối với ngành truyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

hình. Và đây cũng là vấn đề khiến những người làm truyền hình, những nhà báo, biên tập viên, quay phim…phải trăn trở, suy nghĩ bấy lâu nay.

Để có được một hệ chuẩn ngơn ngữ báo chí đã là điều khó, chuẩn ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình lại càng khó hơn. Bởi do những đặc điểm về loại hình, và từng thể loại khác nhau trên truyền hình cùng với đó là đối tượng người xem khác nhau, báo truyền hình có những cách sử dụng ngơn ngữ hình ảnh riêng. Khácvới các loại hình báo chí khác đó là ngơn ngữ có tác dụng trực tiếp và quyết định tới hiệu quả của thông tin trên báo chí, nhưng ở truyền hình thì khác, ngơn ngữ hình ảnh đóng vai trị là cầu nối thơng tin, tác động trực tiếp đến cơng chúng. Chính vì vậy, ngơn ngữ hình ảnh trên trun hình phải có những chuẩn mực nhất định vàmuốn đạt được những chuẩn mực đó, chúng ta phải khắc phục những sai lầm, những vấn đề đang tồn tại trong việc sử dụng ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình. Vì thế, phát hiện ra những hạn chế trong việc sử dụng ngôn ngữ hình ảnhtrên truyền hình và chỉ ra được nguyên nhân, cách khắc phục chúng là điều vô cùng cần thiết. Hơn nữa, truyền hình là kênh thơng tin hướng đến cơng chúng, nó được đơng đảo khán giả, với đủ mọi lứa tuổi đón nhận, vì thế nó có tầm ảnh hưởng rất lớn tới xã hội, đặc biệt tới thế hệ trẻ. Cho nên, việc nâng cao hiệu quả sử dụng ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình nói chung và trong phóng sự trun hình nói riêng là điều thiết yếu mà bất kỳ người làm truyền hình nào cũng cần hướng tới.

Bởi những lý do trên, tiểu luận với đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình” (khảo sát trên chương trình “Chuyển động 24h và “Vấn đề hôm nay” từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2015) sẽ tập trung nghiên cứu những hạn chế cơ bản trong việc sử dụng ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình thơng qua việc khảo sát các chương trình tiêu biểu của Đài Truyền hình Việt Nam. Qua đó, tiểu luận chỉ ra những ngun nhân chính gây nên những vấn đề đó và đưa ra cách giải quyết, đề xuất biện pháp một cách khái quát nhất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>2. Tình hình nghiên cứu</b>

Trong một số tài liệu, giáo trình về ngơn ngữ, hay những nghiên cứu của những người làm phim, những nhà nhiếp ảnh, điện ảnh tuy không nghiên cứu ngôn ngữ hình ảnh như một đối tượng riêng biệt nhưng các tác giả cũng đã phần nào đề cập đến loại ngôn ngữ này nhưng hầu hết đều chỉ đề cập đến những vấn đề khái quát, chẳng hạn như một số cơng trình tiêu biểu dưới đây:

<i>- Vũ Quang Hào, (2012), Ngơn ngữ báo chí, Nxb Thơng tin.</i>

<i>- Hồng Anh, (2003), Một số vấn đề về sử dụng ngôn ngữ trên báo chí,</i>

Nxb Lao Động.

<i>- Học viện Báo chí và Tuyên truyền, (2007), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb</i>

Lý luận chính trị.

<i>- Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hồng Trọng Phiến, (2013), Cơ sởngôn ngữ học và Tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam.</i>

- Bùi Thái Dương, (2013), Tạo hình điện ảnh là chất liệu cơ bản của ngơn ngữ điện ảnh.

- Trần Chí Kong, (2013), Ngơn ngữ hình ảnh và âm thanh trong phim tài liệu truyền hình.

- Nhóm nghiên cứu Học viên Báo chí và Tun truyền, Hình ảnh và vai trị của hình ảnh trong tác phẩm truyền hình.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu những vấn đề về sử dụng ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình hiện nay, cụ thể là khảo sát trên các chương trình truyền hình “Chuyển động 24h” (cụ thể là “Chuyển động 24h” tối phát sóng vào khung giờ 6h30 hàng ngày) và “Vấn đề hơm nay” của Đài Truyền hình Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 3 năm 2015.

<b>4. Phướng pháp nghiên cứu</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác xít và các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung, tiểu luận có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

Phương pháp thống kê, phân loại: phương pháp này được sử dụng trong quá trình thống kê số lượng phóng sự, và các số liệu, sự kiện, dữ liệu khi khảo sát các phóng sự trong 2 chương trình truyền hình của Đài Truyền hình Việt Nam là “ Chuyển động 24h” và “Vấn đề hôm nay” từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2015. Từ đó phân loại những phóng sự có vấn đề trong việc sử dụng ngơn ngữ hình ảnh.

Phương pháp phân tích dữ liệu: phương pháp này dùng để phân tích các thơng tin có sẵn trong tài liệu, giáo trình để từ đó rút ra những thơng tin thực sự cần thiết phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài.

Phương pháp phân tích nội dung: phương pháp này nhằm phân tích các nội dung của phóng sự được chiếu trong 2 chương trình truyền hình để từ đó phát hiện ra những vấn đề trong việc sử dụng ngơn ngữ hình ảnh của phóng sự truyền hình.

Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được dùng để tổng hợp các kết quả sau khi đã sử dụng các phương pháp trên. Ngoài ra, phương pháp tổng hợp còn tổng hợp các kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra các luận cứ, luận điểm khái quát nhất nhằm đạt được tốt nhất mục đích mà đề tài đặt ra.

<b>5 . Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận</b>

Về lý luận, tiểu luận là cơng trình nghiên cứu có hệ thống và hồn chỉnh về ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình. Với những khảo sát thực tiễn, đề tài tiểu luận góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về sử dụng ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình nói chung và sử dụng ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình nói riêng. Từ đó, tiểu luận lý giải nguyên nhân và đề xuất những

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

biện pháp khắc phục các vấn đề đó nhằm tạo nên những tác phẩm phóng sự truyền hình thực sự có chất lượng.

Về thực tiễn, tiểu luận bổ sung thêm một số những thông tin và các tài liệu thiết thực cho sinh viên, học viên học chun ngành Báo Truyền hình. Tiểu luận cịn có giá trị tham khảo nhất định đối với các sinh viên, các phóng viên, người làm truyề nhình, các kênh truyền hình, đài truyền hình và các nhà nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>NỘI DUNGCHƯƠNG 1</b>

<b>LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỬ DỤNG NGƠN NGỮ HÌNH ẢNH TRONGPHĨNG SỰ TRUYỀN HÌNH</b>

<b>1.1 Các khái niệm chung</b>

<i><b>1.1.1 Khái niệm ngôn ngữ</b></i>

Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngơn ngữ là phương tiện duy nhất thoả mãn được tất cả các nhu cầu của con người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năng của con người vì nó song hành cùng con người, từ khi con người xuất hiện cho đến hiện nay. Phương tiện giao tiếp ấy được bổ sung và hồn thiện dần theo lịch sử tiến hố của nhân loại, theo những trào lưu và xu hướng tiếp xúc văn hố có từ cổ xưa đến tận bây giờ. Để định nghĩa về ngôn ngữ, Từ điển Tiếng Việt đã giải thích như sau: “Ngơn ngữ là hệ thống ngữ âm, những từ và quy tắc kết hợp chúng mà người trong cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau”. Ngồi ra, ngơn ngữ cịn được hiểu là “hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài người, là phương tiện tư duy và là công cụ giao tiếp xã hội”. Ngơn ngữ bao gồm ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết, trong thời đại hiện nay, nó là cơng cụ quan trọng nhất của sự trao đổi văn hóa các dân tộc.

Như vậy, ngôn ngữ là một trong những phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Điều này đã nói lên được vai trị quan trọng và chức năng của ngôn ngữ trong cuộc sống của chúng ta, đó là chức năng giao tiếp và chức năng phản ánh tư duy của con người, phản ánh thế giới khách quan xung quanh ta.

<i><b>1.1.2 Khái niệm ngơn ngữ hình ảnh</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Ngơn ngữ hình ảnh là một loại ngơn ngữ cũng có vần điệu, có cú pháp, có văn chương, có cả ngơn ngữ bình dân và ngơn ngữ bác học ở trong đó. Khác với ngơn ngữ khác, ngơn ngữ hình ảnh khơng thể hiện dưới dạng chữ viết mà sẽ thể hiện nội dung thông qua hình ảnh và nó được biểu hiện ra bên ngồi mà người đọc, người xem có thể nhìn thấy, nghe thấy và cảm nhận chân thực thơng qua hình ảnh.

Ngơn ngữ hình ảnh cũng giống như ngơn ngữ biểu tượng,tức là dùng ngơn ngữ hình ảnh để nói lên một vấn đề nào đó, như dùng hình ảnh chim Bồ câu trắng để nói lên khát vọng hịa bình. Vì lẽ đó, ngơn ngữ hình ảnh là ngơn ngữ mang đầy màu sắc và tính biểu tượng.

Để có thể hiểu được ngơn ngữ hình ảnh cũng cần phải tìm hiểu những mẹo luật, cấu trúc, để có thể hiểu được tác giả muốn nói gì. Ngay trong văn chương, không phải khi nào cũng dễ hiểu, văn càng ngắn, càng ẩn tàng và hình ảnh cũng thế. Chính vì vậy, muốn hiểu được ngơn ngữ hình ảnh hay bất kỳ một ngôn ngữ nào khác cũng cần phải hiểu được cấu trúc của ngơn ngữ đó.

<i><b>1.1.3Khái niệm ngơn ngữ hình ảnh phóng sự truyền hình</b></i>

Ngơn ngữ hình ảnh phóng sự truyền hình cũng giống như ngơn ngữ hình ảnh đó là thể hiện nội dung tác phẩm thơng qua một chuỗi hình ảnh và được sắp xếp theo ý đồ của tác giả. Nhưng hình ảnh phóng sự truyền hình là hình ảnh động, có tính tuyến tính, chuyển động theo thời gian, không gian của sự vật, sự việc.

Ngơn ngữ hình ảnh phóng sự truyền hình gắn liền với tính chất của thể loại phóng sự truyền hình đó là hình ảnh mang tính chất thời sự, đi sâu vào những vấn đề của xã hội và hơn nữa hình ảnh phải thể hiện được chân thực, sâu sắc vấn đề mà tác giả muốn truyền tải tới khán giả. Không chỉ đơn tuần là mang tính chất thơng báo và giới thiệu như ở tin truyền hình, ở đây ngơn ngữ hình ảnh phóng sự truyền hình ngồi thơng báo và giới thiệu ra cịn phải phân tích, lý giải và bàn luận về vấn đề đó một cách sâu sắc và thuyết phục.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Như vậy, ngơn ngữ hình ảnh phóng sự truyền hình là loại ngơn ngữ thể hiện những vấn đề thời sự nóng hổi, khai thác sâu những vấn đề xung quanh đời sống xã hội đang được công chúng quan tâm thơng qua những hình ảnh mà quay phim ghi lại và được thể hiện dưới dạng phóng sự do biên tập viên biên tập và thể hiện. Ngơn ngữ hình ảnh phóng sự truyền hình mang tính chiều sâu và logic, do vậy tính chất và đặc điểm của ngơn ngữ hình ảnh phóng sự truyền hình có những điểm khác biệt so với những ngơn ngữ hình ảnh trong các thể loại khác.

<i><b>1.2.Vai trị của ngơn ngữ hình ảnh trên phóng sự truyền hình</b></i>

<i>- Ngơn ngữ hình ảnh làm tăng tính thời sự nóng hổi và chiều sâu của sự kiệntrong phóng sự truyền hình.</i>

Nếu như ở thể loại tin truyền hình, hình ảnh chỉ mang tính chất thơng báo ngắn gọn về kết quả của một sự kiện, ở “điểm nút” của sự kiện thì ở phóng sự truyền hình, ngơn ngữ hình ảnh là sự phản ánh chi tiết một sự kiện hấp dẫn, một biến cố nóng hổi mà người xem cần biết và cần quan tâm. Hay như ở phim tài liệu truyền hình, ngơn ngữ hình ảnh thường đề cập đến những đề tài lớn, đi vào chiều sâu tư tưởng, tính nhân văn sâu sắc với phạm vi phản ánh quy mơ lớn và hình ảnh trong phim tài liệu là sự xâu chuỗi của qúa khứ, hiện tại và thậm chí là tương lai. Cịn đối với phóng sự truyền hình, ngơn ngữ hình ảnh phải là những vấn đề thời sự đặt ra trong thời điểm nhất định của hiện tại, là những sự kiện nóng hổi đang được cơng chúng quan tâm.

Ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình nếu chỉ đơn thuần là thơng báo sự kiện và kết quả của sự kiện thì tính thời sự của sự kiện chỉ ở mức độ nói để cho khán giả biết, nếu chỉ như vậy thì vẫn chưa thỏa mãn được nhu cầu của cơng chúng. Bởi nhu cầu của công chúng hiện nay không chỉ biết mà còn để đánh giá, nhận xét và cảm nhận về những vấn đề mà truyền hình phản ánh. Đó cũng là sự tương tác giữa truyền hình và khán giả, để cơng chúng có những cái nhìn khách quan hơn về những vấn đề được phản ánh trên truyền hình. Vậy nên,

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

ưu điểm của ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình chính là giúp cho khán giả được chứng kiến diễn biến của sự kiện thơng qua những hình ảnh chân thực được biên tập viên, quay phim ghi lại được.

Ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình có chiều sâu về tính thời sự và tính nghị luận. Nói đến thể loại phóng sự ở bất kỳ báo in, báo mạng, phát thanh và báo truyền hình cũng đều là phản ánh, bình luận và phân tích những khía cạnh, góc độ của sự kiện và nhân vật. Các nhà báo, biên tập khi làm phóng sự ln mong muốn truyền tải đến công chúng, bạn đọc những câu chuyện thời sự nóng hổi và những vấn đề được cơng chúng quan tâm và đón nhận. Vậy nên, những vấn đề đặt ra trong phóng sự truyền hình phải là những vấn đề thiết thực, gắn liền với cuộc sống của người dân và đáp ứng được nhu cầu thông tin của đông đảo công chúng.

<i>- Ngôn ngữ hình ảnh làm tăng tính hấp dẫn và tính thuyết phục trong phóng sựtruyền hình.</i>

Phóng sự truyền hình phản ánh cuộc sống bằng hình ảnh và âm thanh, do camera ghi lại một cách trung thực toàn bộ sự kiện, sự việc hiện tượng đã hoặc đang diễn ra, nhưng khơng có nghĩa là người quay phim ghi hình liên tục từ đầu đến cuối diễn biến của sự kiện đó. Ngay từ đầu họ đã được đọc kịch bản, nắm được ý đồ của đạo diễn, và chỉ quay theo những gì được đề cập và liên quan đến nội dung của kịch bản, chọn những chi tiết đắt nhât để ghi hình.

Nếu chỉ phản ánh cuộc sống một cách chân thực, khách quan thì vẫn chưa đủ bởi khi cơng chúng đón nhận một sản phẩm báo chí thì ngồi chân thực, tính hấp dẫn cũng là yếu tố quan trọng để làm nên thành công của một phóng sự truyền hình. Ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình phải là những hình ảnh đắt nhất, giá trị nhất, phản ánh một cách sâu sắc vấn đề mà tác giả đang thực hiện và đương nhiên những hình ảnh này đều phải dựa trên sự thật khách quan và không hư cấu. Tuy nhiên, dưới bàn tay của người quay phim và sự nhanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nhạy của những biên tập viên thì những hình ảnh đó sẽ được truyền tải đến khán giả như một câu chuyện hấp dẫn, logic và có chiều sâu tư tưởng. Đây cũng là hoạt động lao động nghệ thuật nghiêm túc để cho ra những sản phẩm nghệ thuật truyền hình hay và hấp dẫn.

Vậy làm thế nào để thuyết phục được đơng đảo cơng chúng đón nhận những sản phẩm hấp dẫn đó, đơi khi sự hấp dẫn chỉ thu hút người xem nhưng chưa chắc đã thuyết phục được người xem bởi yếu tố thông tin trong đó vẫn chưa đủ để thuyết phục được cơng chúng. Vậy nên, ngồi tính hấp dẫn của ngơn ngữ hình ảnh, thì trong phóng sự truyền hình cũng cần chú trọng đến tính thuyết phục bởi có thuyết phục được công chúng, lấy được niềm tin của công chúng thì lúc đó mới thực sự là thành cơng của phóng sự truyền hình. Ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình trước tiên phải dựa trên sự thật, người quay phim sẽ ghi lại trung thực những hình ảnh mà tác giả muốn phản ánh, và để làm tăng tính thuyết phục của ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình, biên tập và quay phim phải nghiên cứu là sắp xếp những hình ảnh theo một câu chuyện có tính nghị luận và phân tích sâu sắc những khía cạnh vấn đề mà tác giả muốn nói. Vì chỉ có phân tích một cách chặt chẽ thì mới thuyết phục được cơng chúng đón nhận nó. Điều này ln là nỗi trăn trở của rất nhiều biên tập viên đó là làm sao để mỗi phóng sự truyền hình lên sóng đều được cơng chúng đón nhận nhiệt tình và chiếm trọn niềm tin ở cơng chúng.

<b>1.3 Đặc điểm của ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình</b>

<i><b>1.3.1 Ngơn ngữ hình ảnh mang tính sự kiện</b></i>

Ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình cũng có điểm chung với ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình nói chung đó là ln bám sát sự kiện có thật, nguyên dạng để phản ánh. Do vậy, tất cả những nơi dung trong phóng sự truyền hình sẽ đều xoay quanh sự kiện mà tác giả muốn phản ánh. Mà sự kiện trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

phóng sự truyền hình là những sự kiện nóng hổi, sự kiện thời sự, thiết thực đối với cuộc sống của người dân và có ích đối với xã hội.

Nói một cách đơn giản thì nhắc đến truyền hình là nhắc đến sự kiện bởi vai trị của truyền hình là cung cấp thường xuyên những sự kiện, tin tức nóng hổi ở trong và ngồi nước nên phóng sự truyền hình cũng vậy, đặc điểm đầu tiên là mang tính sự kiện. Tuy nhiên, sự kiện trong phóng sự truyền hình có tính chất khác biệt đối với sự kiện ở những thể loại truyền hình khác đó là bao gồm cả nguyên nhân, diễn biến, kết quả của sự kiện. Nếu như ở tin truyền hình chỉ mang tính chất thơng báo kết quả hay thơng báo về sự kiện thì ở phóng sự sẽ là một cách phản ánh khác sâu hơn và đầy đủ hơn về sự kiện.

Một phép so sánh nhỏ về tính sự kiện giữa ngơn ngữ báo chí và ngơn ngữ văn học để nói lên được tính chất của sự kiện của ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình. Đó là văn học sử dụng ngơn ngữ hình tượng dựa trên phép hư cấu để phản ánh. Điều đó có nghĩa là trên cơ sở cái thực mà tạo ra cái hư. Như vậy, nhà văn có quyền tưởng tượng, có quyền tạo ra những gì mình mong muốn. Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm hoàn toàn của chủ quan nhà văn. Bởi thế trong cuộc đời thật khơng có ai giống hệt trăm phần trăm như các nhân vật trong tiểu thuyết. Khơng tìm đâu ra ai đó trong cuộc sống thực xung quanh ta lại có một lý lịch, một nhân cách, một tính cách, một cuộc sống… hồn toàn giống với Thúy Kiều của Nguyễn Du, chị Dậu của Ngơ Tất Tố, Xn tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng… Thế nhưng ta cũng có thể thấy ai đó có những nét đồng dạng với Thúy Kiều, với chị Dậu, với Xuân tóc đỏ…trong cuộc đời này.

Điều vừa nói làm rõ chân lý nghệ thuật không phải là bản thân sự thực mà chỉ là cái tương đồng ( trong ảo giác ) của các hình tượng nghệ thuật so với hiện thực, hay nói như Diderot “Sự thực của tự nhiên là cơ sở cho tính giống thực của nghệ thuật”. Khi tạo nên những hình tượng nghệ thuật, nhà văn có thể góp nhặt chi tiết ở nhiều nơi, ở nhiều thời điểm khác nhau và tái tạo nên một hình tượng

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

trọn vẹn theo cách riêng của mình mang theo hơi thở của cảm quan cá nhân nghệ sĩ về con người, về cuộc sống.

Văn học có thể vươn tới những giới hạn ” khơng gian và thời gian vơ cực “Một hình tượng nghệ thuật càng chân thật khi nó khơng giống một ngun bản nào đó ở ngồi đời nhưng người đọc ln tìm thấy bóng dáng nhiều người ở trong đó. Bởi thế nhà phê bình văn học Nga Biêlinxki thường nói đó là “ Người lạ quen biết”.

Cịn đối với nhà báo, phóng viên ngược lại,chỉ được quyền nói cái thật mà độc giả, khán giả, thính giả đều cảm nhận được ngay trong cuộc sống xung quanh họ. Nhà báo không được bịa ra sự thật hay tưởng tượng ra sự thật. Đồng thời cái có thật mà mình phản ánh phải để ngun dạng chứ khơng được thêm bớt hay tô vẽ. Sự thêm bớt hay tô vẽ vào cái thật của cuộc đời chỉ khiến tác phẩm của mình thiếu sức thuyết phục. Ở ta đã có một trường hợp một nhà báo ” sáng tác ” hẳn một câu chuyện ly kỳ về một phụ nữ bị bệnh phong đã dốc hết sức mình đóng bao nhiêu thiên gạch bằng đơi tay khơng cịn nguyên vẹn để có tiền cho con ăn học. Khi đăng báo câu chuyện ấy đã khiến nhiều người rơi nước mắt. Giá như đấy là một tác phẩm văn học thì nhà báo kia đã có may mắn ngồi vào chiếu văn sang trọng. Nhưng đây lại là một tác phẩm báo chí và chẳng bao lâu sau, tịa soạn.nơi đăng bài báo đã phải có lời xin lỗi bạn đọc vì nó được viết bằng trí tưởng tượng bay bổng của một nhà báo. Như vậy khác với khơng gian và thời gian của văn học có thể vươn tới những giới hạn vơ cực thì khơng gian và thời gian của báo chí để các sự kiện hình thành và diễn biến là “ khơng gian và thời gian vật lý, địa lý hồn tồn có thể định lượng được một cách chính xác ” (Hồng Linh Sơn, Có nên gọi Thi pháp báo chí)”.

Tóm lại,nhà báo chỉ có quyền thuật lại mà khơng được chế tác ra như người xưa thường nói “Thuật nhi bất tác”. Một khi chúng ta tơn trọng “ cái có thật ” “ cái ngun dạng ” thì ít nhất chúng ta mới thể hiện được “ là người quan sát trung thực các sự kiện ” và “ là người phản ánh các dư luận của xã hội”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Chính nhờ tính sự kiện mà ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình nói riêng và ngơn ngữ hình ảnh trên truyền hình nói chúng đã đạt được các u cầu đối báo chí truyền hình đó là “mới và cụ thể”. Đây là hai yếu tố căn bản tạo ra tính thời sự. Đồng thời hai yếu tố này còn giúp cho nhà báo “ tránh lặp lại,tránh khuôn sáo ” và tạo ra động lực tìm cách diễn đạt sáng tạo. Và “khách quan”, sự kiện là cái tồn tại khách quan.Chính sự kiện sẽ nói lên chân lý , bộc lộ ý nghĩa , bộc lộ thái độ đối với hiện thực chứ không phải là nhà báo tự nói ra.

<i><b>1.3.2 Ngơn ngữ hình ảnh mang tính logic</b></i>

Tính logic trong ngơn ngữ hình ảnh cũng gần giống như tính logic trong tốn học đó là sự tính tốn, lập luận, chứng minh nhưng khác ở chỗ tốn học logic bằng những con số cịn truyền hình logic bằng hình ảnh. Trong phóng sự truyền hình, tính logic được đặc biệt chú trọng bởi ngơn ngữ hình ảnh là loại ngơn ngữ trừu tượng khơng giống như ngơn ngữ viết hay ngơn ngữ nói mà tất cả nội dung truyền tải đều thơng qua hình ảnh kết hợp với âm thanh và lời bình.

Tính logic ở ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình được thể hiện trước tiên là ở sự hợp lý, logic về không gian và thời gian các hoạt động của đối tượng thông thường được diễn ra trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể. Nếu hoạt động đó được/bị đưa đến một bối cảnh khơng gian, thời gian khác, sẽ khiến khán giả bất ngờ. Họ hồn tồn có lý do để nghi ngờ tính xác thực của đoạn hình đó. Ví dụ, nếu chúng ta có một hình tồn cảnh, trong đó mơ tả một lớp học với ông thầy giáo đang giảng bài cho học viên, ở trong phịng học; tiếp sau đó, là một hình trung cảnh, lấy hai học viên ngồi bàn đầu đang chăm chú nghe giảng; tiếp theo, có một cận cảnh gương mặt thầy giáo đang say mê giảng bài. Đến đây, chúng ta đã có một câu hình khá hồn chỉnh. Nhưng rồi, người kỹ thuật viên cho chúng ta một khn hình thứ tư, cảnh tồn, người giảng viên đang đi trên sân trường, hướng ra phía cổng trường. Rõ ràng, hình thứ tư này đã cho khán giả thấy một bối cảnh không gian khác. Đó khơng phải là bối cảnh mà tâm trí họ đã ghi nhớ, trong lớp học. Do vậy khán giả bị bất ngờ với khn hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

thứ tư. Họ khơng hiểu có chuyện gì đã xảy ra. Trường hợp này, chúng ta có một lỗi trong logic dựng hình. Nó vi phạm lỗi logic khơng gian.

Việc dựng hình cần đảm bảo logic về khơng gian, thời gian để khán giả không bị bất ngờ. Mọi sự thay đổi về không gian, thời gian đều cần được “báo” trước, để họ chuẩn bị tâm lý cho điều đó. Tuy nhiên, ln có ngoại lệ đó là khi đạo diễn chủ ý gây nên một sự bất ngờ. Nhưng ở đây, đạo diễn phải thực sự có ý đồ một cách rõ ràng để tạo được hiệu ứng theo ý đồ đó.

Thứ hai là logic chuyển động, hành động các chuyển động hay hành động của mọi sự vật, hiện tượng, con người trong tự nhiên luôn tuân theo các quy luật vật lý tự nhiên. Chẳng hạn, nếu chúng ta nhìn thấy trên vơ tuyến một người đưa tay đấm vào mặt một người khác, thì ở khn hình thứ hai, khán giả sẽ chờ đợi một phản ứng chuyển động hoặc hành động nào đó tương ứng với hành động đấm ở hình trước. Và những hình ảnh được đề xuất sử dụng sẽ là: cận cảnh gương mặt người bị đấm bị kéo lệch sang một bên theo chiều của cú đấm, hoặc, trung cảnh qua vai người bị đấm để thấy gương mặt người đấm đang lao theo cú đấm đó.Nếu chuyển động của gương mặt người bị đấm lại theo hướng ngược lại với cú đấm, thì chỉ có thể là anh ta đang sẵn sang đón nhận cú đấm đó, hoặc sai logic.

Vậy làm thế nào để hóa giải cho sự phi logic thì có những cách như: thêm hình, sắp xếp lại thứ tự hình, sử dụng kỹ xảo, thêm lời bình, sử dụng tiếng động, thay đổi ánh sáng.

Sự logic trong ngơn ngữ hình ảnh cịn thể hiện ở trong nội dung câu chuyện cũng như vấn đề mà tác giả muốn truyền tải tới khán giả. Hình ảnh, âm thanh và lời bình bao giờ cũng song song với nhau, và tác động lẫn nhau mới có thể cho ra một tác phẩm phóng sự hồn chỉnh. Nhưng để khán giả đón nhận và ủng hộ tác phẩm đó thì hình ảnh, âm thanh và lời bình đặc biệt là ngơn ngữ hình ảnh phải tn theo tính logic của cốt truyện. Ví dụ như ở nội dung phần mở đầu, hình ảnh phải thể hiện được phần mở đầu của câu chuyện như một lời giới thiệu tới khán giả và cũng là để gợi mở những phần tiếp theo. Cho nên, phần mở đầu

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

của phóng sự, hình ảnh khơng thể là những hình ảnh của phần kết hay phần giữa được mà phải thể hiện đúng nội dung của phần mở đầu. Hơn nữa, ngơn ngữ hình ảnh cũng phải logic với âm thanh, tiếng động và lời bình trong mỗi phần của phóng sự. Sự sắp xếp một cách hợp lý và logic của tác giả qua từng các phần sẽ nói lên được phóng sự đó có thực sự thể hiện thành công nội dung câu chuyện mà tác giả muốn phán ánh hay khơng.

Thứ ba, ngơn ngữ hình ảnh logic về mặt cú pháp (cú pháp hình). Như chúng ta thấy, trên góc độ ngữ pháp học, một câu bao giờ cũng có chung một cú phápbao gồm trạng ngữ, chủ ngữ, vị ngữ,phụ ngữ thì ở truyền hình nói chung và phóng sự truyền hình nói riêng, ngơn ngữ hình ảnh cũng có đặc điểm mang tính cú pháp hình dựa trên cú pháp chung của ngơn ngữ học.

Nhìn dưới góc độ ngơn ngữ hình ảnh, có thể thấy rằng những hình ảnh, hay những cỡ hình trong phóng sự truyền hình tương đương với từng thành phần trong bất kỳ một câu văn nào đấy. Để hiểu hơn về tính cú pháp hình thì bảng dưới đây sẽ là sự phân tích cụ thể đặc điểm tính cú pháp hình của ngơn ngữ hình ảnh.

Danh từ/Đại từ Who

Xét về góc độ cỡ hình trong truyền hình có tồn cảnh, trung cảnh, cận cảnh, đặc tả và tương đương với những cỡ hình đó là những nội dung thơng tin tương ứng. Tồn cảnh là để chỉ thông tin bối cảnh, trung cảnh là thông tin về

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hành động của nhân vật trong bối cảnh, cận cảnh là thông tin chi tiết nhân vật, đối tượng và đặc tả là chỉ chi tiết đặc trưng, miêu tả về nhân vật và đối tượng.

Nhưng xét về tương quan trong ý nghĩa từ vựng cũng như xét ở góc độ ngơn ngữ hình ảnh thì có thể nhận thấy một sự logic ở đây đó là ở cỡ hình tồn cảnh tương đương với thành phần trạng ngữ trong câu nhằm mục đích giới thiệu thơng tin về sự vật, hiện tượng. Ở cỡ hình trung cảnh sẽ tương đương với thành phần chủ ngữ trong câu để chỉ chủ thể, đối tượng của sự vật và thông báo về những hành động của chủ thể. Ở cỡ hình cận cảnh thì tương đương với thành phần vị ngữ trong câu để miêu tả chi tiết về hành động của nhân vật, sự vật, hiện tượng. Cịn ở cỡ hình đặc tả tương đương với thành phần bổ ngữ trong câu có ý nghĩa bổ sung thêm những chi tiết đặc trưng để miêu tả chi tiết nhân vật hay một sự vật hiện tượng nào đó. Xét ở góc độ nào cũng thấy được tính hợp lý và tính cú pháp hình cả ở trong ngơn ngữ hình ảnh và ở trong ý nghĩa từ vựng.

Cũng xét về tương quan ngữ nghĩa và tương quan trong 5W+1H có thể thấy, ở cỡ hình tồn cảnh tương đương với thành phần trạng ngữ và trong 5W sẽ là“When/Where” nhằm trả lời cho câu hỏi khi nào, ở đâu cũng là để chỉ thông tin về sự vật. Ở cỡ hình trung cảnh tương đương với thành phần động từ để chỉ thông tin về hành động của nhân vật trong bối cảnh và trong 5W là “What” nhằm mục đích trả lời câu hỏi làm gì và hành động như thế nào. Đối với cỡ hình cận cảnh sẽ gắn với “who” để trả lời cho câu hỏi Ai?tức là hỏi về chủ thể của sự vật, và ở đây sẽ tương đương với thành phần Danh từ/ Đại từ. Cịn ở cỡ hình đặc tả cũng giống như thành phần bổ ngữ nhưng ở trong 5W thì sẽ là “How” để trả lời cho câu hỏi “như thế nào?” miêu tả chi tiết sự vật và tương đương với thành phần tính từ để chỉ nét đặc trưng trong bối cảnh đó.

Xét trên phương diện ý nghĩa từ vựng hay tương quan trong 5W+1H và xét ở góc độ ngơn ngữ thì có thể thấy ngơn ngữ hình ảnh trong phóng sự truyền hình mang tính cú pháp hình đặc trưng. Đây là một đặc điểm khơng phải tự nhiên có thể nhìn thấy được mà phải dựa trên sự phân tích ở các phương diện

</div>

×