Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

HỌC PHẦN THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY NHIỆM VỤ THẢO LUẬN TÁC GIA LORD BYRON VÀ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU DON JUAN – CUỘC TÌM KIẾM CHÂN LÝ CUỐI CÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.1 KB, 16 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘIKHOA NGỮ VĂN</b>

<b>HỌC PHẦN</b>

<b>THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU VĂN HỌC PHƯƠNG TÂYNHIỆM VỤ THẢO LUẬN </b>

TÁC GIA LORD BYRON VÀ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU DON JUAN – CUỘC TÌM KIẾM CHÂN LÝ CUỐI CÙNG

<b>Hà Nội, 2023</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ</b>

Lê Dạ Hương Trang (Nhóm trưởng)

715601432 - Thực hiện lên ý tưởng dàn bài, phân chia nhiệm vụ

<b>- Viết các phần:</b>

II. Thành tựu của Lord Byron

4. Những vở kịch không phải để diễn Chương 2.2. Các vấn đề nổi bật trong Don Juan

- Check đạo văn, chỉnh sửa bài làm của nhóm.

- Tìm kiếm tư liệu phù hợp với u cầu, tích cực đề xuất ý kiến, phản hồi bài làm Hoàng Huyền Trang 715601417 - Thực hiện lên ý tưởng dàn bài, phân

chia nhiệm vụ

<b>- Viết các phần: </b>

II. Thành tựu của Lord Byron

1. Tập thơ “Những giờ nhàn rỗi” (Hours of Idelness, 1806)

2. Tác phẩm “Chuyến hành hương của Childe Harold” (Childe Harold's

- Tìm kiếm tư liệu phù hợp với u cầu Hồng Thị Thu Hiền 715601138 <b>- Viết các phần:</b>

MỞ ĐẦU

Chương 1.2. Đặc trưng thơ của Byron - Tìm kiếm tư liệu phù hợp với yêu cầu, tích cực đề xuất ý kiến, phản hồi bài làm Nguyễn Thị Nhàn 715601302 <b>- Viết các phần: </b>

A.I. Khái quát chủ nghĩa lãng mạn Anh A.II. Tiểu sử, con người

KẾT LUẬN

- Tìm kiếm tư liệu phù hợp với yêu cầu, tích cực đề xuất ý kiến, phản hồi bài làm

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>MỞ ĐẦU... 1</b>

<b>A. TÁC GIA LORD BYRON VÀ THƠ LÃNG MẠN...4</b>

<b>I. Khái quát chung về chủ nghĩa lãng mạn Anh...4</b>

1. Khái quát...4

2. Cơ sở ra đời...4

<b>II. Tác gia Lord Byron...5</b>

1. Tiểu sử, con người...5

2. Đặc trưng thơ Lord Byron...6

<i>2.1. Niềm khao khát tự do mãnh liệt...6</i>

<i>2.2. Căm thù thói đạo đức giả...7</i>

<i>2.3. Đề cao tình u – hạnh phúc...7</i>

<b>III. Những thành tựu của Lord Byron...9</b>

1. Tập thơ “Những giờ nhàn rỗi” (Hours of Idelness, 1806)...9

2. Tác phẩm “Chuyến hành hương của Childe Harold” (Childe Harold's

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Văn học phương Tây thế kỷ XIX đã đón nhận sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn, đây là hiện tượng văn học quan trọng nhất của thế kỷ này. Theo M.Gorki, chủ nghĩa lãng mạn phát triển nở rộ nhất ở Pháp, đây được coi là “nền văn học chủ đạo của châu Âu”. Ngoài ra, có thể nói chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn học lớn của Việt Nam từ đầu năm 1932 đến cuối 1945, mang lại nhiều giá trị để nền văn học nước ta phát triển theo xu hướng hiện đại. Cùng với sự ra đời của nhiều tác gia, tác phẩm lớn; chủ nghĩa lãng mạn đã phần nào làm nổi bật lên bản sắc riêng của từng nền văn học Việt Nam và phương Tây. Với một đề tài lớn như chủ nghĩa lãng mạn, cần phải cảm nhận từng tác phẩm một cách khoa học. Có cái nhìn tổng thể cùng kiến thức lý luận khái quát về đặc trưng thể loại, phương pháp sáng tác của từng tác giả.

<b>A. TÁC GIA LORD BYRON VÀ THƠ LÃNG MẠNI. Khái quát chung về chủ nghĩa lãng mạn Anh</b>

<i><b>1. Khái quát</b></i>

Chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn học, nghệ thuật và triết học lớn được hình thành ở Tây Âu sau Cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Có hai khuynh hướng chủ yếu trong chủ nghĩa lãng mạn, đó là: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực. Dù trái ngược nhau nhưng giữa hai khuynh hướng ấy luôn tồn tại mối quan hệ qua lại với nhau, không tách rời. Chủ nghĩa lãng mạn thiên về biểu hiện cảm xúc cá nhân; tơn vinh thiên nhiên; có niềm tin sâu sắc vào sức mạnh cá nhân.

<i><b>2. Cơ sở ra đời</b></i>

Về cơ sở ra đời của chủ nghĩa lãng mạn:

Cơ sở xã hội: Chính cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã lật đổ được chế độ phong kiến và từ đó đã hình thành nên quan hệ xã hội mới. Điều này đã tác động sâu sắc đến tư tưởng tình cảm của mọi tầng lớp trong xã hội. Về tầng lớp thuộc ý thức hệ quý tộc, họ bất mãn và lo sợ trước các phong trào quần chúng mạnh mẽ, sợ bị mất hết quyền lực. Về tầng lớp người ủng hộ cách mạng thì họ cảm thấy thất vọng trước thành quả thực tế của cách mạng đã khiến họ sản sinh ra chủ nghĩa lãng mạn.

Cơ sở tư tưởng: Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, chia làm 2 khuynh hướng:

- Chủ nghĩa lãng mạn tích cực: là sự phản ánh ý thức hệ của giai cấp bị Cách mạng tư sản tước đoạt quyền lợi và đẩy ra khỏi đời sống chính trị.

- Chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực: là sự phản ánh ý thức hệ của giai cấp quần chúng nhân dân đang bất mãn trước những hệ quả của cuộc Cách mạng tư sản Pháp.

Chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn học, mà trong đó, nó ln đề cao mộng tưởng; đề cao tình cảm; và cuối cùng là đề cao sự tự do của con người

<b>II. Tác gia Lord Byron</b>

<i><b>1. Tiểu sử, con người</b></i>

Lord Byron tên thật là George Gordon Noel Byron. Ông Byron sinh ngày

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

22/01/1788 ( London, Anh ) và mất ngày 19/04/1824 (Mesolongi, Đế quốc Ottoman). Khơng q khi ơng có mặt trong danh sách là một trong những nhà thơ lớn của thế giới thế kỷ 19.

Byron sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc đã sa sút. Người cha của ông đã đã tiêu phá hết tài sản của mình và vợ, sau đấy bỏ qua Pháp và chết tại đấy (1790). Sau khi người cha qua đời, mẹ của ông là Catherine bồng Byron về Aberdeenshire, Scotland.

Năm 1798, khi được 10 tuổi George Byron được thừa kế tước hiệu từ người họ

<i>hàng bên nội và được chính thức cơng nhận là Lord Byron.</i>

Năm 1801, Byron được gửi đến trường Harrow tại London, nơi ông học cho đến tháng 7 năm 1805. Là một học sinh bình thường, ơng cũng có thành tích thời đi học khi tham gia giải bóng gậy giữa Etan với Harrow.

Câu chuyện tình yêu của Byron cũng ảnh hưởng đến cuộc đời của ông, cả cuộc đời văn chương nữa. Trong hồi ký sau này của Lord Byron, "Mary Chaworth được miêu tả là đối tượng đầu tiên của cảm xúc tình yêu trưởng thành của mình."

Từ năm 1805-1808, Byron học Trinity College, mùa thu năm 17 tuổi, ông đã gặp và yêu John Edleston - thành viên dàn đồng ca của Trinity. Byron đã viết một số lời bài hát lãng mạn cho những ca khúc của Edleston, trong đó ơng gọi người tình của mình với cái tên phụ nữ Thyrza.

Khi là một cậu bé, Byron được mô tả như một "hỗn hợp của vị ngọt tình cảm và hài hước.

Lord Byron bị tật chân từ khi sinh ra khiến ông tự ý thức cuộc đời mình, ơng đã bị ảnh hưởng gây ra cả đời đau khổ tâm lý và thể chất, trầm trọng hơn do chữa bệnh đau đớn. Một số tác giả y tế hiện đại cho rằng đó là một hệ quả của bệnh bại liệt, nhưng bù lại ông sở hữu khuôn mặt đẹp tựa như người Hy Lạp và sở thích thường hay lọn tóc vào ban đêm.

<b>2. Đặc trưng thơ Lord Byron</b>

<i><b>2.1. Niềm khao khát tự do mãnh liệt</b></i>

Không phải tự nhiên mà Byron được coi là nhà thơ lãng mạn nhất nước Anh. Thơ của ông tràn đầy sự mãnh liệt của tuổi trẻ cùng với sự dịu dàng sâu lắng của tâm trí. Vốn là một người yêu tự do và luôn khao khát tự do, vậy nên những vần thơ của ông bộc lộc rõ nét niềm khao khát với sự tự do của cuộc sống. Vượt qua không gian, thời gian là những lời ca tụng tình cảm từ tận đáy lịng của Byron. Từ đây, tác gia Byron tự xây dựng cho mình một chủ nghĩa cá nhân kiêu kỳ và tuyệt đối gọi là “Chủ nghĩa Byron”. Chính Bielinxki đã ngợi ca Byron là nhà thơ “chiến đấu cho tự do ở bất cứ nơi nào có thể chiến đấu được.” Thơ của Byron xuất hiện tạo ra một sợi dây liên kết bền chặt giữa một trái tim với nhiều tâm hồn đồng điệu, với mục tiêu là mở ra một thế giới mới với thật nhiều niềm hạnh phúc, nơi mà vịng ln hồi ln chuyển dời:

<i>Tơi sớm lụi tàn vì bị cuộc đấu tranh quật đổNhưng khơng thể mất trong tơi những gì tơi đã cóNhững thứ khơng tiêu diệt nổi bao giờ!</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>Mặc cái chết, mặc thời gian, mặc sự bôi nhọ của quân thù,Tôi sẽ sống, ngàn lần vang vọng mãi...</i>

Dẫu chiến tranh là nguyên nhân khiến con người xa cách nhau, có những người phải xa rời nhân thế, nhưng cảm hứng lãng mạn trong thơ Byron vẫn tồn tài, nó chính là khát vọng được giải thốt khỏi vịng ln hồi của sự sống và cái chết. Thoát li khỏi những chuẩn mực xã hội, định kiến phong kiến, khuôn khổ chật hẹp của văn hóa cũ. Dẫu mang trong mình dịng máu nước Anh nhưng khi đất nước của mình đơ hộ những quốc gia khác, ông đã đứng lên phản đối. Thông qua các tác phẩm như "Truyện thơ phương Đông": “Kẻ tà đạo” (1813), “Cô gái xứ Abidor” (1813), “Tên cướp biển” (1814), “Lara” (1814), “Cuộc vây hãm thành Côrintho” (1816), “Parisina” (1816)...

Byron đặt ra quan niệm về tự do trong thơ của mình là sự tự do cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cả hai đều phải nhất quán và bổ trợ cho nhau. Sự tự do được ơng thể hiện qua những bài thơ chính trị hay các quan điểm cách mạng. Giai đoạn Hi Lạp bị Thổ Nhĩ Kì chiếm đóng, Byron đã bán sạch gia sản và không ngần ngại cùng nhân dân Hi Lạp đấu tranh giành độc lập. Thông qua Thơ đề tặng trong Anbom, ông đã nêu nêu quan điểm của mình:

<i>Nếu một khi khơng giải phóng cho mìnhHãy đấu tranh cho tự do người khácVì thành Rơm, đất Hi Lạp quang vinhMà hi sinh khó khăn nào thối thácHãy giương cờ tự do dù ở nơi đâuBởi gì hơn hiến đời cho nhân loại.Nếu chẳng may tim ăn đạn rơi đầuAnh chết đấy nhưng để rồi sống mãi.</i>

Bài thơ được viết ở Italia khi Byron tham gia vào tổ chức cách mạng Cacbonari. Với châm ngơn “đấu tranh vì tự do khơng phải chỉ đấu tranh cho riêng mình”. Ơng sẵn sàng đứng lên đấu tranh tầng lớp nô lệ, những người ln bị giới q tộc áp bức, bóc lột đến cùng cực. Đây không chỉ là cuộc chiến của một tâm hồn lớn mà còn là cuộc đấu tranh cho tồn nhân loại. Để ghi nhớ cơng ơn của Byron, ở Missolonghi, dân chúng đã lập nên công viên cho các vị anh hùng, giữa vườn có một cái trụ ghi tên Byron và tên ba vị anh hùng của Hi Lạp. Nếu bạn hỏi dân chúng, họ sẽ đáp rằng: “Byron làm một người can đảm, vì yêu tự do mà hi sinh cho Hi Lạp và mất ở đây”. Đây như một cách người dân tưởng nhớ cơng ơn của Byron, một người hết lịng hết dạ vì sự tự do của nhân loại.

<i><b>2.2. Căm thù thói đạo đức giả</b></i>

Ngồi cương vị là một nhà thơ lãng mạn, khao khát sự tự do, Byron còn cực kì căm ghét thói đạo đức giả. Ơng sẵn sàng lên tiếng trước tầng lớp cầm quyền mang thói

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

đạo đức giả tạo. Với sự thù ghét cái xấu, Byron thẳng thắn chê cười, thể hiện sự bất bình với tầng lớp tư sản Anh. Dù cho nước Anh chính là Tổ quốc của mình. Byron gọi nước Anh là John Bull (tiếng Anh Bull (Bun) có nghĩa là chú bị):

<i>Đời là một bó cỏ xanh</i>

<i>Mà lồi người là bầy cừu be be kêu đóiAi cũng cố vợ cho mình,</i>

<i>Nhưng tham nhất là Joen Bun, khỏi nói.</i>

“Don Juan” chính là cuộc nổi dậy chống lại cái trật tự xã hội nước Anh như Byron mong muốn. Với “Don Juan”, Byron bày tỏ sự phẫn nộ của mình đối với mọi sự áp bức của chế độ độc tài. Nơi mà giới quý tộc nắm thế độc tôn và coi nô lệ không bằng cây cỏ. Với cốt truyện là cuộc đời phiêu bạt của bản thân, “Don Juan” đã đặt chân đến nhiều nước ở Châu Âu. Đây chính là tiền đề để Byron phác họa rõ nét chế độ độc tài chuyên chế của xã hội Châu Âu.

<i><b>2.3. Đề cao tình u – hạnh phúc</b></i>

Ngồi những tác phẩm để đời, Byron cũng nổi tiếng với những “câu chuyện bên lề” có thể tái xuất bản sách. Byron ln có sức quyến rũ và thu hút riêng với người khác giới. Thời còn ở Venice, Byron từng thừa nhận mình yêu hàng tá phụ nữ khác nhau, hay ơng ln có sẵn những lời tán tỉnh bằng tiếng Hy Lạp như “anh yêu em bằng tất cả trái tim mình”... Đặc biệt, trước khi rời khỏi Athens, Byron cũng khơng qn dành tặng những vần thơ có cánh cho người con gái nơi đây:

<i>Hỡi cô thiếu nữ thành AthensTrước khi chúng ta chia tay nhauEm hãy trả lại trái tim cho anh.</i>

<b>(Thiếu nữ thành Athens)</b>

Byron dành rất nhiều lời hay ý đẹp để miêu tả niềm hạnh phúc, đặc biệt ông tôn vinh sự tuyệt diệu của nó:

<i>Hạnh phúc là khi nhờ thơ hay nhờ máu– Hạnh phúc là khi đêm thanh vắngVà trăng nước mênh mông êm đềm,Ta nằm nghe từ phía xa vắng vắng</i>

<i>Tiếng những người đánh cá hát trong đêm...– Hạnh phúc là khi nghe tiếng chó</i>

<i>Sủa rất vui khi ta trở về nhà...– Hạnh phúc là mùa nho trĩu quả.Vườn nhà ai trái cũng uốn sai cành... </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>– Hạnh phúc là khi đánh nhau là tàn pháKhi túng tiền là bỗng được giàu nhanh– Hạnh phúc là khi nhờ thơ hay nhờ máuBỗng nhiên ta nổi tiếng một ngày...– Và hạnh phúc – biết vì ai chiến đấuVà cùng ai uống rượu ngà say...”</i>

Hạnh phúc từ những điều đơn giản nhất, nó ln tồn tài và khơng bao giờ mất đi. Có người chỉ cảm nhận được hạnh phúc khi đứng trên đỉnh cao danh vọng, cũng có người chỉ cần ba bữa no là đã quá mãn nguyện rồi. Dù thế nào đi chăng nữa, con người vẫn nên được yêu thương và lan tỏa niềm hạnh phúc. Đỉnh cao của hạnh phúc chính là tình u. Nhờ tình yêu nồng cháy mà Ađam và Eva mới khai sinh ra giống người:

<i>Nhưng theo tôi hạnh phúc hơn tất cả</i>

<i>Là cảm giác đầu tiên yêu say đắm, mặn mà</i>

<i>Như hạnh phúc của Adam nhẹ dạ Ăn quả táo trời từ tay Eva.</i>

<b>III. Những thành tựu của Lord Byron</b>

<i><b>1. Tập thơ “Những giờ nhàn rỗi” (Hours of Idelness, 1806)</b></i>

Đây là tập thơ đầu tiên của Byron được viết bằng ngôn từ lãng mạn và trí óc của một nhà thơ trẻ. Tuy nhiên tập thơ này đã bị Tạp chí Edinburgh – một tạp chí văn học Scotland tấn cơng và chỉ trích nặng nề. Khi bị chỉ trích nặng nề như vậy, Byron đã đáp trả lại bằng những câu thơ châm biếm trong tập thơ “Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland (English Bards and Scotland Reviewers) 3 năm sau đó, tức năm 1809. Và đó là hai tập thơ đầu tay của Lord Byron

<i><b>2. Tác phẩm “Chuyến hành hương của Childe Harold” (Childe Harold's Pilgrimage, 1812 – 1818) </b></i>

Trong suốt 3 năm, từ năm 1809 đến năm 1811, Byron đã đi khắp Nam Âu ngồi đất Anh và các vùng Cận Đơng sang các nước Địa Trung Hải. Chuyến đi ấy được tác giả nahwcs đến nhiều lần trong hai đoạn của tập thơ “Chuyến hành hương của Childe Harold”.

Đến năm 1812, Byron trở về quê hương thì nghe tin mẹ qua đời và khơng được nhìn mặt mẹ lần cuối. Được người bạn chí cốt – Shelley an ủi và khuyện chàng về London, Byron quyết định đã xuất bản 2 đoạn đầu tập thơ “Chuyến hành hương của Childe Harold”. Tập thơ ấy khiến cho Byron lập tức nổi tiếng đến mức Byron phải thốt

<i>lên “Một sớm mai tôi thức dậy và thấy mình nổi tiếng”.</i>

Giới văn học Anh lúc đấy, đặc biệt là ở London cho rằng đó là một hiện tượng văn học phi thường, họ đọc và thuộc lòng từng chữ của hai đoạn thơ đó.

<i><b>3. Những cuốn sách thơ</b></i>

Lịch sử của những vùng đất phía Đơng đã được Byron đưa vào kể trong những cuốn sách thơ. Điển hình như “Nàng dâu của Abydos” (The Bride of Abydos, 1813); “Cướp biển” (The Corsair, 1814) đã thu hút nhiều sự chú ý của độc giả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i><b>4. Những vở kịch không phải để diễn</b></i>

Byron là một nhà thơ trữ tình, bên cạnh đó ơng cịn nổi tiếng với các vở kịch thơ (Manfred, Cain…) mang đậm tính chất của một bản trường ca. Đó là những tác phẩm trữ tình viết ra để đọc, để thưởng thức, không phải để cho nghệ thuật sân khấu.

<i>Puskin nhận xét: “Byron chỉ sáng tạo có mỗi một tích cách…, phân chia cho các nhânvật của mình những nét tính cách riêng biệt của bản thân mình và như vậy đó, từ một tính cách tồn vẹn, u ám và kiên nghị, tạo ra một số tính cách vơ nghĩa lí, đây hồn tồn khơng phải là bi kịch”. Về thể loại, những vở kịch này là những “drama tư </i>

tưởng”, một thể loại phổ biến ở châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.

<b>B. TÁC PHẨM TIỂU BIỂU: DON JUAN – CUỘC TÌM KIẾM CHÂN LÝ CUỐI CÙNG</b>

<b>1. Giới thiệu tác phẩm</b>

Một trong những đỉnh cao sáng tác của Byron mà ta không thể không nhắc đến là tiểu thuyết Don Juan được viết bằng thơ. Cũng không phải ngẫu nhiên mọi người đều cho rằng tác phẩm Don Juan là Cuộc kiếm tìm chân lý cuối cùng của Byron. Đây là một tác phẩm cịn đang dang dở bởi lẽ Byron dự tính sẽ viết cho tác phẩm này 25 khúc ca nhưng trên thực tế, mới chỉ có 16 khúc ca được hồn thành trọn vẹn. Khi ơng đang viết được 14 khổ thơ của khúc ca thứ 17 thì ơng đột ngột qua đời, đây là một điều vô cùng dáng tiếc cho Don Juan, cho chính tác giả Byron và cũng như điềuu tiếc nuối của toàn bộ độc giả khắp thế giới. Tuy nhiên với hơn 16 khúc ca cũng đủ để tác phẩm trở thành đỉnh cao trong văn học Pháp.

Don Juan là tên một nhân vật vô cùng nổi tiếng và quen thuộc trong văn học phương Tây. Chúng ta đã từng bắt gặp hình tượng nhân vật này trong vở kịch nổi tiếng cùng tên của Molie. Tuy nhiên hình tượng nhân vật Don Juan mà Byron xây dựng khác hẳn với hình tượng Don Juan trong truyền thuyết. Nếu như chúng ta quá quen với một Don Juan chăng hoa, ăn chơi, chuyên đi quyến rũ những người phụ nữ để họ yêu mình, rồi lợi dụng họ đàng điếm, hưởng lạc thì với Byron, đây lại là một nhân vật luôn chán ghét cuộc sống tù túng, cứng nhắc, khô khan của mớ giáo lý tơn giáo khắc nghiệt, kìm hãm sự tự do của con người. Nhân vật của Byron luôn khao khát vươn mình ra khỏi tinh thần tơn giáo giả dối ấy, sẵn sàng buông thả bất cứ lúc nào để sống theo tiếng gọi chân thực khởi phát từ con tim. Ta có thể tóm tắt nội dung các khúc ca như sau:

<b>Khúc ca đầu tiên là câu chuyện kể về gia đình Don Juan ở thành phố Seville,</b>

thuộc đất nước Tây Ban Nha. Bố chàng, Hôxe, và mẹ, Inez, là cặp vợ chồng giàu có nhưng gia đình lại chẳng mấy yên ấm, bất hòa liên miên. Mẹ thường cùng Don Juan sang bên gia đình Anfonso chơi và ở đó, chàng bắt đầu quen với vợ của Anfonso. Sau cái chết của chồng, Inez bắt đầu giáo dục con theo cách mà tác giả cho là sai lầm, là điều góp phần dẫn tới việc mới 16 tuổi, Juan đã dính vào vụ tình ái với Julia, người vợ trẻ của Anfonso và hơn chàng 7 tuổi. Sự việc vỡ lở, cuộc tình vụng trộm của họ bị mọi người phát giác, Julia phải vào tu viện, còn Juan thì được mẹ cho ra nước ngồi để học tập và cũng để trốn tranh tai tiếng từ dư luận.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>Khúc ca thứ hai nói về cảnh con tàu chở Don Juan gặp bão rồi chìm, phải lênh</b>

đênh trên biển nhiều ngày, cảnh ăn thịt chó, thịt người,... Cuối cùng cả con tàu hai trăm người chỉ mình Juan sống sót, dạt vào một hịn đảo nhỏ ở Hy Lạp, nơi chàng được Haiđê cứu sống. Nàng là công chúa nhỏ của một tên cướp biển, cũng là một người buôn nô lệ giàu có nhưng vơ cùng nhẫn tâm tên là Lămbro. Haiđê bí mật chăm sóc Juan trong một hang đá gần bờ biển. Hai người yêu nhau say đắm, một tình yêu trong trắng và lý tưởng, một bản tình ca tuyệt đẹp.

<b>Khúc ca thứ ba và bốn kể chuyện bố nàng là Lămbrô trở về bất chợt, phát hiện</b>

ra và bắt Juan lên tàu đem tới Thổ Nhĩ Kỳ bán chàng ở chợ nơ lệ. Haiđê đã có thai nhưng cũng quá buồn đau mà chết, mang theo xuống mồ đứa con tình yêu của họ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, Juan và một ơng người Anh được bán cho hồng cung vua Thổ, nhưng không phải để hầu hạ mà làm một công việc đặc biệt. Gullbeyaz, bà vợ thứ tư của Sultan, thấy Juan đẹp trai bèn cho người mua về, cải trang thành nữ đưa vào cung hầu hạ mình.

<b>Khúc ca thứ năm và sáu là câu chuyện chàng Juan bị bắt cải trang thành cô</b>

gái, đưa vào hậu cung của Gulbeayaz. Chàng cương quyết từ chối tình yêu của Gullbeyaz, suýt bị nàng giết. Nhưng cuối cùng chàng mềm lịng, và đang lúc sắp khuất phục thì chính đức Sultan xuất hiện. Thật hài hước ơng này cũng thích Juan vì tưởng chàng là một người phụ nữ.

<b>Trong hai Khúc ca thứ bảy và tám, Don Juan vượt biển trốn sang nước khác,</b>

đến gần Ismail – nơi quân đội Nga, do Suvorov chỉ huy đang vây đánh thành Ismail của quân Thổ. Juan và ông bạn người Anh kia chiến đấu rất quyết liệt và dũng cảm trong hàng ngũ của quân đội Nga. Cũng ở đây, Juan hào hiệp cứu một cô bé người Thổ tên là Leila và nhận em làm con ni. Nhờ thành tích chiến đấu xuất sắc, Đôn Juan (cùng Leila) được Suvorov cho về Petersburg yết kiến nữ hoàng Nga Ecaterine.

<b>Các khúc ca tiếp nói về việc chàng Don Juan vì trẻ đẹp, được nữ hồng Nga</b>

đem lịng u mến và trở thành tình nhân của bà. Sợ chuyện vỡ lở cũng như lo lắng tai tiếng, sự ghen tuông dị nghị của triều đình, nữ hồng buộc phải cử Đơn Juan làm sứ thần Nga tới nước Anh. Ở đây, Don Juan cũng có nhiều cuộc phiêu lưu kì lạ, bộc lộ rõ nét xã hội đầy hư hỏng, trụy lạc, sa đọa của giới quý tộc Anh.

<b>Các khúc ca còn lại nói về những hành trình chinh phục những người phụ nữ</b>

của chàng Don Juan ở quê nhà của Byron.

Theo dự định của Byron khi ơng cịn sống, thì sau nước Anh, Don Juan còn đi qua nhiều nước khác rồi cuối cùng có mặt ở nước Pháp và tham gia vào cuộc Cách mạng tư sản và chết trên chiến lũy Paris.

<b>2. Các vấn đề nổi bật trong Don Juan</b>

<i><b>2.1. Vấn đề tình yêu và hạnh phúc</b></i>

Tác phẩm mang đậm hơi hướng của thơ Byron. Thơ ông luôn đề cao tình yêu và hạnh phúc của con người, đặc biệt là tình u lứa đơi. Nhân vật trong tác phẩm Don Juan đã trải qua nhiều mối tình, trước tiên là một mối tình vụng trộm khơng trong

</div>

×