Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

đề cương cơ sở văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 35 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Đề ươ cng c s văn hóa Việt Namơ ở

Câu 1:Phân tích m t quan ni m v v n hóa mà anh/ch cho là tiêuộệề ăị biểu nh t? Phân bi t v n hóa v i v n minh, l y ví d c th t n nấệ ăớ ăấụ ụ ể ừ ề văn hóa Vi t Nam.ệ

*Quan ni m v v n hóa c a H Chí Minh:”Vì l sinh t n c ng nh m cệề ăủồẽồũư ụ đích của cu c s ng, loài ngườộ ối m i sáng t o và phát minh ra ngôn ng ,ớạữ chữ vi t, o ế đạ đức, pháp lu t, khoa h c, tôn giáo, v n h c, ngh thuậọăọệật, những công c cho sinh ho t h ng ngày vụạ ằề ăn, m c, và các phặ ởương thức s d ng toàn b nh ng sáng t o và phát minh ó t c là v n hóa.ử ụộữạđ ứă Văn hóa là s t ng h p c a m i phự ổợủọương th c sinh ho t cùng v i bi uứạớể hiện c a nó mà loài ngủườ đ ải ã s n sinh ra nh m thích ng nh ng nhuằứữ cầu đờ ối s ng và òi h i c a s sinh tđỏ ủ ựồn”.

*Phân tích quan niệm:

-Quan ni m ã nêu ra c u trúc c a v n hóa, bao gệ đấủăồm: +Văn hóa v t ch tậấ

+Văn hóa tinh th nầ

+Tổng h p phợương th c sinh ho tứạ

-Quan ni m bàn ệđế đặn c tr ng c a v n hóa: tính v nhân sinh, ưủăịđược thể hi n hai phệ ởương di n: con ngệười là ch th sáng t o ra v n hóa,ủ ểạă đồng th i cũng là chủ thể hờưởng thụ văn hóa.

-Nhấn m nh ch c n ng c a v n hóa, trong ó có hai ch c n ng quanạứăủăđứătrọng là: duy trì đờ ối s ng xã h i, ph c vộụ ụ đờ ối s ng c a con ngủười và từđó nâng cao giá trị c a cu c s ng.ủộ ố

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

-฀Nhìn nh n các v n ậấ đề trong quan h logic t ng hệổợp.

-Về hình th c: phát bi u mang tính ch t quan ni m, khơng ph i h cứểấệả ọ thu t.ậ

B, Phân bi t v n hóa v i v n minh:ệ ăớ ă

-Văn hóa có c tr ng l ch sđặưịử truyền th ng. Ta có th chốểứng minh qua n n v n hóa Vi t Namềăệ giàu truy n th ng l ch s : truy nềốịửề thống yêu nước, u ng nốước nhớ nguồn, yêu thương đồng loại… hóa c h , không theo k p th iổ ủịờ đại(trọng nam khinh nữ, tảo hơn,..)

-Mang tính c ng ộđồng, dân tộc, bản s c. V n hóa Vi t Nam khôngắăệ được tạo từ một người, hay m tộ gắn v i thói quen, t p quán, tâmớậ linh. Dân t c Vi t Nam duy trìộệ Thomas Edison phát minh ra bóng đèn, Anbe phát minh ra chi c máyế tính đầu tiên…

-Mang giá tr ph thơng tồn nhânịổloại, qu c t . V n minh mang nétố ế ăbiến i theo. Trđổước kia,conngười luôn cho r ng trái t ằđấ đứngyên nh ng ưđến th k 17,conế ỉngười ã thay i cách nhìn và chođđổrằng trái t quay quanh m t trđấặời.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

được nhiều nét p văn hóa nhđẹư thờ cúng t tiên, bi t ổế ơ …n, -Văn hóa g n bó v i nhi u h nắớềơ vơi phương ơng nơng nghiĐệp. Văn hóa Vi t Nam ệđược hình thành ven l u v c các con songưự lớn, thuân l i cho s n xu t nôngợảấ nghi p.ệ

-Văn minh g n bó nhi u h n v iắềơớ phương Tây ô th . Phđịương Tây có nhiều phát minh hi n ệ đại.

Câu 2: Trình bày đặc tr ng và ch c n ng c a v n hóaưứăủă *Đặc tr ng c a v n hóaưủă

Các nhà nghiên cứu về văn hóa trong và ngoài nước đúc kết thành nhiều đặc trưng của văn hóa, trong đó nổi bật nhất bà bốn đặc trưng cơ bản sau: - Một là, tính hệ thống. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của cộng đồng người. Từ những thành tố căn bản này đã nẩy sinh và bao gồm những tập hợp nhỏ nhiều tầng bậc khác nhau tạo thành một tổng thể phức tạp, phong phú. - Hai là, tính giá trị. Văn hóa bao gồm các giá trị (giá trị thuộc về đời sống vật chất, giá trị thuộc về đời sống tinh thần) trở thành thước đó về mức độ nhân bản của xã hội và con người. Trong lịch sử phát triển của nhân loại có giá trị của văn hóa để tồn tại và có giá trị của văn hóa để phát triển. - Ba là, tính lịch sử. Văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua một q trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ, là những thành tựu do cộng đồng người trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội mà được sáng tạo và ln hướng tới sự hồn thiện để đạt đến tính giá trị. - Bốn là, tính nhân sinh. Văn hóa là một hiện tượng thuộc về xã hội loài người, gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người, là những giá trị do một cộng đồng người sáng tạo ra, thuộc về con người, ở trong con người và mang dấu ấn người. Điều đó cho thấy, con người vừa là chủ thể của văn hóa, đồng thời là khách thể của văn hóa, lại vừa là sản phẩm văn hóa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

*Phân tích một đặc trưng và chức năng của văn hóa:

Đặc trưng quan trọng của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”, tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.

Các giá trị văn hóa, theo muc đích cố thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần), theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thấm mĩ theo thời gian có thể phân hiệt các giá trị vĩnh cừu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có đươc cái nhìn hiện chứng– và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.

Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay khơng phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ “giá trị” và “phi giá trị” của nó. về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay khơng tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa cùa từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn… đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.

Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, khơng ngừng tự hồn thiện và thích ứng với những biến đổi của mơi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

*Lấy ví dụ chứng minh

Câu 3:Văn hóa Việt Nam thuộc về loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp điển hình với những đặc trưng chủ yếu sau đây:

Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đơng-Nam Châu Á nên Việt Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất rõ nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.

-Trong ứng xử với mơi trường tự nhiên ln có ý thức tơn trọng và sống hịa hợp với thiên nhiên, tơn sùng thiên nhiên, thể hiện đức hiếu sinh Cư dân Việt Nam chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với tự nhiên, do nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, đơm hoa, kết trái và thu hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn định, cho rằng” An cư lạc nghiệp” . Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nơng nghiệp có ý thức tơn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng ra là nói “ nhờ trời”, “lạy trời”… Các tín ngưỡng và lễ hội sung bái tự nhiên rất phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi vùng đât nước.

- Vì sống bằng kinh tế nơng nghiệp, nhất là nơng nghiệp lúc nước, ở đó con người có sự phụ thuộc vào các hiện tượng tự nhiên (như trời, đất, nước, nắng, mưa...), nên trong nhận thức đã hình thành một lối tư duy tổng hợp, trọng quan hệ, trọng tình biện chứng, thiên về kinh nghiệm, trực giác, cảm tính và duy linh (linh cảm).

Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,... “ trơng trời, trơng đất, trơng mây; trơng mưa, trơng gió, trơng ngày, trơng đêm…” nên về mặt nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp- biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay quen… Người làm nông quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

-Trong tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội theo nguyên tắc trọng tình, chuộng sự hịa thuận, tương trợ, quan tâm đến

Về mặt tổ chức cộng đồng, người Việt có lỗi sống cố định lâu dài nên tạo ra những mối quan hệ tình cảm thân thiết, gắn bó, hình thành nên lối sống trọng tình.. Nhưng cũng từ đây hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội. Lỗi sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ. Trong ngôi nhà của người Việt rất coi trọng gian bếp, thể hiện sự coi trọng phụ nữ. Người Việt coi: Nhất vợ nhì trời; Lệnh ơng khơng bằng cồng bà… Người phụ nữ cũng được xem là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu; Con dại cái mang… Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa: Lá lành đùm lá rách; Bầu ơi thương lấy bí cùng…; các quan hệ ứng xử thường đặt lý cao hơn tình: Một bồ cái lý khơng bằng một tí cái tình<small>.</small>

- Lối tư duy tổng hợp biện chứng, cộng với nguyên tắc trọng tình dẫn đến lối sống linh hoạt, ln ứng biến cho phù hợp với từng hồn cảnh cụ thể. - Tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt của văn hóa nơng nghiệp cịn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận các yếu tố khoan dung trong ứng xử, mềm dẻo trong đối phó.

Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đên lối sống linh hoạt, ln thay đổi để thích hợp với từng hồn cảnh: Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy; … Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc, sự thiếu tôn trọng pháp luật, tệ đi “ cửa sau” để giải quyết cơng việc( Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế).

Vì sống theo tình cảm nên mọi người phải biết tơn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lý coi trọng cộng đồng, coi trọng tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, ln có tập thể sau lưng.

Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp vfa phong cách linh hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam khơng những khơng có chiến tranh tơn giáo mà mọi tôn giáo đều được tiếp nhận.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa.

Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong cách tố chức đời sống, phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt truyền thống.

- Tuy nhiên, mặt trái của tính linh hoạt và trọng tình là nó dẫn đến thái độ tùy tiện, coi thường tính nguyên tắc, ý thức tổ chức kỷ luật kém.

Văn minh nông nghiệp kéo dài đã làm chậm sự phát triển của tiến trình lịch sử Việt Nam, không tạo ra được những tiền đề và điều kiện để bức ra khỏi cái khung phong kiến phương Đơng, làm hạn chế tính năng động, sáng tạo của con người Việt Nam và dẫn đến sự trì trệ của xã hội Việt Nam. Câu 4: Vai trò của văn hóa trong sự phát triển

*Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội -Đào tạo con người theo các giá trị chân-thiện-mĩ

-Hình thành trong phẩm chất mọi thành viên trong xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách

-Tích cực xây dựng một mơi trường văn hóa lành mạnh để có đủ sức đề kháng đẩy lùi các tiêu cực xã hội, bài trừ những văn hóa phản tiến bộ. *Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội

-Sự phát triển của một dân tộc gắn liền với cái mới nhưng không tách rời cội nguồn, văn hóa

-Con người là nhân tố có vai trị quan trọng và là không thể thiếu trong sự phát triển của kinh tế, xã hội

-Văn hóa có khả năng tiếp thu và cải biên những yếu tố văn hóa ngoại sinh để biến thành ngoại lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội

-Văn hóa sẽ giải phóng và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội mà trước hết là kinh tế

*Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển

-Mục tiêu của sự phát triển ở nước ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

Trong chiến lược phát triển kinh tế 2011-2020:

-Xác định: phát huy tối đa nhân tố con người, con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

-Yêu cầu: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện cơng bằng xã hội, khơng ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”.

*Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển

-Phát triển phải hướng tới mục tiêu văn hóa- xã hội mới đảm bảo được sự bền vững và trường tồn cho sự giàu mạnh của tổ quốc.

฀Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.Văn hóa giúp mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí, giúp bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, cho nhân dân Việt Nam lí tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, đồng thời bồi dưỡng phong cách, lối sống lành mạnh, hướng con người đến chân-thiện-mĩ để hoàn thiện bản thân.

Câu 5: Trình bày vai trị của Phật giáo trong đời sống văn hóa Việt Nam

Đạo Phật truyền bá ở Việt Nam tính đến nay đã gần 2000 năm, trải qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, Phật giáo từ lâu vốn đã đi sâu vào quần chúng nhân dân Việt Nam, gắn bó với sinh hoạt cộng đồng của người Việt, một sự gắn bó tự nhiên khơng do áp đặt của chính quyền, cả khi Phật giáo được tôn là Quốc giáo...

Nguồn gốc đạo Phật

Dạo Phật là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, được ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, ở vùng phía Tây Bắc Ấn do thái tử Tất Đạt Đa sáng lập, hiệu là Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni). Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh rối ren của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Thế kỷ VI trước Công nguyên, lúc này Ấn Độ đang trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Sự phân chia đẳng cấp ngặt nghèo sâu sắc. Thời kỳ này xã hội Ấn Độ chia làm bốn đẳng cấp cách biệt nhau…. Đẳng cấp Bà la môn (địa vị cao nhất); đẳng cấp Sát đế lỵ (dòng họ vua quan, quý tộc); đẳng cấp Vệ xá (gần những người giàu có, bn bán thủ công), đẳng cấp Thủ đà la (nô lệ). Ngồi ra cịn có một tầng lớp người thuộc hàng cùng khổ dưới đáy xã hội, bị mọi người khinh rẻ. Trước khi có sự ra đời của đạo Phật, mâu thuẫn giữa các đẳng cấp trên hết sức gay gắt được thể hiện trong những cuộc đấu tranh mang tính chất tồn xã hội. Cùng thời điểm này Ấn Độ đã và đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa các nhà duy vật và duy tâm, đấu tranh

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

giữa các tôn giáo, bởi lẽ bên cạnh sự thống trị của đạo Bà la mơn cịn có sự hiện diện của Phệ đà giáo và một số giáo phái khác, đồng thời tư tưởng duy vật thô sơ và tư duy biện chứng đã xuất hiện.

Hoàn cảnh xã hội và những tư tưởng quan niệm trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần thúc đẩy sự ra đời của đạo Phật.

Bỏ qua những truyền thuyết về Tất Đạt Đa tìm đường cứu khổ cho chúng sinh mà sáng lập ra đạo Phật thì có thể thấy rằng thực chất Phật giáo ra đời là do kết quả của cuộc đấu tranh gay gắt giữa các giai cấp, đấu tranh giữa thần quyền và thế quyền, giữa những người nắm kinh tế của xã hội và những người nắm tư tưởng xã hội. Cuộc đấu tranh ấy đã lôi kéo đông đảo quần chúng nghèo khổ tham gia, thay bằng thành quả bình đẳng thật sự nơi trần gian, quần chúng đã nhận được sự bình đẳng trong tư tưởng, nơi gọi là cõi Niết bàn của nhà Phật.

Giáo lý của đạo Phật tập trung vào hai vấn đề, một là sự khổ não, hai là sự giải thoát ra khỏi khổ não ấy. Khổ não là bởi sự ln hồi, thốt

khỏi vịng ln hồi thì khỏi khổ, mà muốn thốt khỏi vịng ln hồi thì phải bỏ hết tham, sân, si trên trần thế. Khi thoát khỏi vòng luân hồi con người mới chứng được trạng thái Niết bàn, Cực lạc.

Đạo Phật là một tôn giáo vô thần, không cùng bản chất như mọi tôn giáo khác. Đạo Phật cịn có một số đặc điểm riêng: Đạo Phật không quan niệm về đấng sáng tạo ra thế giới. Thế giới tự nó vận động, phát triển thông qua luật vô thường nhân quả. Sự vận động ấy diễn ra trong không gian và thời gian, đạo Phật sơ kỳ ở Tiểu thừa mang nhiều tính duy vật những quan niệm của đạo Phật về thế giới về con người, về vận động mang hình thức biện chứng. Các giáo lý đạo Phật chứa đựng nhiều nội dung đạo đức, hướng thiện. Đồng thời cũng phủ nhận một cách gián tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội.

Đạo Phật Việt Nam

Với những đặc điểm đó, cùng với giáo lý của mình đạo Phật đã tìm được chỗ đứng của mình trong lịng xã hội Việt Nam.

Đạo Phật được truyền bá vào Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên bằng hai con đường; đường thủy thông qua con đường buôn bán với thương gia Ấn Độ. Đường bộ thơng qua giao lưu văn hóa với Trung

Quốc mà Trung Quốc khi ấy cũng tiếp nhận Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ. Như vậy Phật giáo Việt Nam mang cả sắc thái Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc.

Đạo Phật truyền vào Việt Nam không phải thông qua con đường chiếm lược, không phải do sự cưỡng chế của Trung Hoa mà thông qua đường giao thương buôn bán. Đạo Phật đến bằng con đường hịa bình,

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

những giáo lý của đạo Phật về bình đẳng, bắc ái, cứu khổ cứu nạn…gần gũi với cư dân Việt Nam do đó dễ được chấp nhận. Mặt khác thời kỳ này cịn có các tín ngưỡng bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước, cộng với sự tồn tại của Nho giáo, đạo lão được Trung Quốc truyền vào, tuy

nhiên các tín ngưỡng, tơn giáo đó cịn có nhiều mặt khuyết thiếu đối với đời sống tâm linh cộng đồng và đạo Phật đã bổ sung vào chỗ thiếu hụt đấy. Vì vậy đạo Phật ở Việt Nam được giao thoa bởi các tín ngưỡng bản địa.

Đạo Phật truyền bá ở Việt Nam tính đến nay đã gần 2000 năm, trải qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, Phật giáo từ lâu vốn đã đi sâu vào quần chúng nhân dân Việt Nam, gắn bó với sinh hoạt cộng đồng của người Việt, một sự gắn bó tự nhiên khơng do áp đặt của chính quyền, cả khi Phật giáo được tơn là Quốc giáo. Sự tồn tại lâu dài của Phật giáo trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã đem lại những đóng góp đáng kể cho văn hóa, tư tưởng, kinh tế, chính trị trong diễn trình lịch sử Việt Nam.

Người ta thường xếp tôn giáo vào phạm trù văn hóa, Phật giáo là một sự kiện tơn giáo, cũng là một sự kiện văn hóa. Phật giáo truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam vốn không phải là một sự kiện đơn độc, mà kéo theo nó (hoặc trước, hoặc sau, hoặc đồng thời với nó) là cái ảnh hưởng của tổng thể văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Việt Cổ, ảnh hưởng ấy diễn ra trên nhiều lĩnh vực như: Nông nghiệp, y dược, âm nhạc vũ đạo ngôn ngữ… Điều quan trọng là văn hóa Việt cổ tiếp thu một lượng quan trọng ảnh hưởng của văn hóa Ân Độ qua ngả đường Phật giáo vào suốt thời Bắc thuộc, khi ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa tràn lên trên đất Việt và mang khuynh hướng đồng hóa rõ rệt.

Ngồi đóng góp làm cho văn hóa Việt Nam thêm phong phú, khách quan mà nói ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ là một đối trọng của ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa trên đất Việt. Nó có tác dụng trung hịa ảnh hưởng quá mạnh mẽ vào nền văn minh Trung Hoa; nó góp sức cùng cơ tầng văn hóa Việt cổ ngăn chặn khuynh hướng đồng hóa của văn minh Trung Hoa, nó được hội nhập vào văn hóa Việt Nam làm giàu thêm nền văn hóa Việt, góp phần làm nên cái khác của văn hóa Việt so với văn hóa Trung Hoa. Lấy một ví dụ cụ thể: Ở Thăng Long đời Lý, Hoàng Thành Thăng Long mở 4 cửa, nếu ở phía cửa Bắc thờ thánh Trấn Vũ – Trấn Vũ là một vị thần linh Trung Hoa được hội nhập vào đất Việt thì ở cửa Đơng lại thờ thần Bạch Mã là ảnh hưởng của Ấn Độ, và cửa Tây Long thành được mang tên “Quảng Phúc Mơn”, mở ra phía Tây để mong phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa” của đức Phật ở Tây Thiên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Và đạo Phật trong buổi đầu thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc là một đối tượng của Nho giáo mà Trung Hoa đem sang Việt Nam. Khi mà Phật giáo bị suy sút ở thượng tầng, thì ở chốn làng quê “cơ sở hạ tầng” Phật giáo lại tỏa ra dân chúng. Thời Lý Trần Phật giáo là Phật giáo quý tộc, còn sang thời Lê Nguyễn Phật giáo là Phật giáo dân gian, nhân gian (hay là được dân gian hóa – từ sau thế kỷ XV). Nếu như Quân chủ Việt Nam dựng ra cái đình ở làng quê với tư cách như một “tiểu triều đình” trọng nam khinh nữ ở chốn đình Trung, thì dân dã quê Việt Nam vẫn giữ và dựng cái chùa, cái “chùa làng” của dân gian chứ khơng phải cái quốc tự của triều đình và những ai trước hết là nữ giới bị loại bỏ khỏi sinh hoạt đình Trung thì đã có một tổ chức, một trung tâm sinh hoạt tâm linh là ngôi chùa. Thời nhà Lê, Nguyễn “đất vua, chùa làng” (đất của vua, chùa của làng) tức “chùa làng” đã trở thành đối trọng của đình làng, và bảo trợ cho một quá nửa lực lượng của dân tộc là “đàn bà”. Chính từ sự bảo trợ này mà Phật giáo Việt Nam có được chỗ đứng thêm vững vàng trên đất Việt.

Khi đạo Phật vào Việt Nam, nếu nó chỉ có một kinh điển bất động khơng thơi thì sẽ khơng có tác dụng chủ yếu nào cả, mà tác dụng của nó như thế nào là do sự tổ chức, tuyên truyền giáo dục cải tạo của những người tiên phong thấm nhuần sâu sắc học thuyết Phật giáo. Lúc bấy giờ đã có những vị thiền sư Việt Nam ý thức và chấp nhận tính nhân đạo đại trí, đại dũng của Phật giáo, phù hợp với tinh thần anh dũng bất khuất, lòng thương người khổ đau và đặc tính phân biệt thiện ác, chánh tà của quần chúng nhân dân Việt Nam ta. Từ sự thấm nhuần tư tưởng Phật giáo xây dựng con người tốt cá biệt gắn liền với phát huy bản chất con người xã hội “Chư ác mạc tác – chúng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ý – Thị chư Phật giáo”

Không hành ác tức khơng làm cho mình trở thành một tội khổ cho mình và cho người khác, là lời khuyên đầu tiên của đức Phật, tiếp theo là sự hành thiện, là hãy trở nên một phúc báu cho mình và cho người khác, lời kêu gọi cuối cùng là tự giữ tư tưởng cho trong sáng, đó là các điều giáo dục của Phật. Đối với các quốc gia dân tộc khác, lời dạy của Phật trên đây có thể chỉ có tầm giáo dục về tâm lý hay ln lý thơng thường. Nhưng đối với hồn cảnh và tình hình đất nước ta ngay từ xa xưa ln địch họa rình rập, thì lời giáo dục ấy của Phật qua khí tiết, tính Việt Nam đã làm cho Phật giáo Việt Nam lại mang theo một ý nghĩa sâu sắc khác.

Khơng làm các việc ác cũng có nghĩa là chống ác, làm các việc lành, có đức cũng có nghĩa là liên minh với chân chính với thiện mỹ với chính nghĩa của nhân dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Phật giáo du nhập vào Việt Nam rất sớm, với tinh thần “Từ bi – hỷ xả - vô ngã – vị tha”, năng động hóa bởi đạo lý Bát chính đạo, là điều giáo dục phổ biến đối với dân tộc ta, dân tộc thường xuyên bị những thế lực xâm lược đem theo sự thống trị đầy rãy những cái ác bất nhân, gieo mầm bất nghĩa, trái đạo lý dân tộc. Bởi thế Phật giáo phương xa đến Việt Nam đã đương nhiên trở thành Phật giáo Việt Nam với tư tưởng yêu nước là chủ yếu. Tư tưởng yêu nước này được xác minh qua nhiều thế hệ, suốt dòng lịch sử tranh đấu giữ nước và dựng nước của dân tộc ta, phù hợp với tư tưởng “Chư ác mạc tác” và nghĩa vụ “Chúng thiện phụng hành” của giáo lý nhà Phật.

Phật giáo Việt Nam nhập thế

Từ các vị thiền sư Việt Nam đến khơng ít các vị vua, các anh hùng dân tộc Phật tử đã thấm nhuần tư tưởng yêu nước, trở thành mối quan hệ khăng khít giữa Phật giáo Việt Nam với lịch sử tư tưởng Việt Nam. Hơn nữa trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, nhiều chùa chiền Phật giáo Việt Nam là cơ sở bao che nuôi dưỡng cán bộ, chiến sĩ cách mạng, những Tăng, Ni, Phật tử nằm trong các đoàn thể cứu quốc, đoàn thể Phật giáo u nước, hịa mình vào các sinh hoạt cách mạng.

Phật giáo Việt Nam vừa là một học thuyết giải thoát về thuật sống lương thiện tốt đẹp cho con người Việt Nam, vừa là một học thuyết qua tinh thần Tứ ân có ơn với tổ quốc là trọng đại – đã thực sự góp phần trong việc hình thành nền tư tưởng Việt Nam, văn hóa dân tộc Việt Nam, trong đó tư tưởng yêu nước là chủ yếu.

Phật giáo đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho nền tảng tư tưởng văn hóa Việt Nam. Trước hết Phật giáo đã đóng vai trị tích cực trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn, đạo đức, hành vi cư xử của người Việt, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc. Trước sự địi hỏi của dân tộc, của tín đồ Phật giáo, Phật giáo Việt Nam đã đóng góp tích cực cho nền văn hóa nước nhà.

Dân tộc Việt Nam có cái duyên là đã được tiếp nhận đạo Phật, đạo Phật có cái dun là tìm được chỗ đứng cho mình trong cộng đồng người Việt Nam. Cái cộng đồng dựa trên nền tảng kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, với quan niệm làng xã cổ truyền, với tín ngưỡng đa thần đã tiếp nhận đạo Phật và cải biến nó cho ít nhiều phù hợp với cộng đồng ấy.

Cộng đồng người Việt tiếp nhận Phật giáo, đồng thời tiếp nhận những tư tưởng bình đẳng, bắc ái, vơ ngã, vô thường…ở đạo Phật, những tư tưởng này cùng với những tư tưởng cộng đồng cổ truyền đã làm cản

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

trở cho q trình phân hóa giai cấp, làm dịu những xung đột giai cấp trong xã hội. Trong thời gian tới, Phật giáo tồn tại và thậm chí tiếp tục phát triển mạnh ở Việt Nam. Phật giáo đóng góp phần tích cực của nó bằng cách tự làm trong sạch bản thân, xóa bỏ những yếu tố mê tín lỗi thời. Phật giáo góp phần cân bằng cuộc sống ngày càng quay cuồng với nhịp độ cao và Phật giáo góp phần hướng thiện cho con người. Việc cải tiến nghi lễ, và hiện đại hóa là một xu hướng tất yếu, là điều cần thiết của đạo Phật, điều đó có từ trong lịch sử Phật giáo của Việt Nam. Đạo Phật còn có vai trị to lớn trong đời sống tình cảm, tâm linh của người Việt Nam, người dân của đất nước đã trải qua nhiều đau thương và đang còn nhiều khó khăn trong đời sống xã hội.

Xin mượn lời của cố giáo sư Trần Quốc Vượng trong (Mấy ý kiến về Phật giáo và văn hóa dân tộc – Mấy vấn đề Phật giáo và tư tưởng Việt Nam) để khẳng định những giá trị văn hóa của đạo Phật “Đạo Phật có thể mất đi như mọi hiện tượng vơ thường. Song cái tinh túy của văn hóa Phật giáo đã được dân tộc hóa và dân gian hóa thì mãi mãi trường tồn”.

Ngày nay để tiếp tục phát huy những giá trị tích cực của mình, Phật giáo phải biết tự giữ gìn, bồi đắp và đổi mới cho phù hợp với thời đại nhằm góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” như trước đây đã từng đóng góp cho “quốc thái dân an”. Trong điều kiện xã hội hiện nay, những di sản văn hóa của Phật

giáo đang tiếp tục phát huy tác dụng, tạo nên sắc thái dân tộc, góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam. Gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân đã qun góp, cơng đức tiền của để khôi phục, tôn tạo chùa chiền, xây cất tịnh xá, niệm Phật đường, đúc chuông, đắp tượng, dựng tháp… Ngồi ý nghĩa tâm linh, nhiều ngơi chùa đã trở thành những danh thắng nổi tiếng để du khách đến chiêm ngưỡng. Những giá trị văn hóa Phật

giáo khơng chỉ tồn tại trong tư tưởng, mà cịn đang hiện diện thông qua sự nỗ lực của hàng triệu tín đồ nhằm vươn tới một lẽ sống vì Tổ quốc giàu mạnh, nhân sinh hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định được vị trí, vai trị của Phật giáo trong suốt quá trình đồng hành cùng dân ta. Câu 6:

Nho giáo được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt Nam, là nền tảng đạo đức giáo dục con người, đóng góp to lớn

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

vào việc tổ chức nhà nước, duy trì trật tự xã hội, phát triển kinh tế, sáng tác văn học trong các triều đại quân chủ như Nhà Lý Nhà Trần, , Nhà Lê Nhà, Nguyễn, trong suốt chiều dài lịch sử phù hợp và dung hòa với đời sống người Việt hình thành nền Nho giáo bản sắc Việt Nam nôm na gọi là Việt Nho ... Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam sâu sắc là nền tảng của nền văn minh tại Việt Nam và xếp Việt Nam vào các nước ảnh hưởng nền Văn minh Trung Hoa gọi là Vùng văn hóa Đơng Á. Từng bước hình thành nên lối sống, sinh hoạt, đạo đức đối nhân xử thế trong xã hội của người Việt. Ngày nay Việt nho ít được xem trọng kèm những khía cạnh suồng sã, tiêu cực trong văn hóa phương tây ảnh hưởng đang làm đạo đức một bộ phận giới trẻ xuống cấp.

*Sự hình thành và phát triển

Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Cơng Đán, cịn gọi là Chu Cơng. Đến thời Xn Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ơng là người sáng lập ra Nho giáo. Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trị của ơng để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chơn Nho" của nhà Tần,vào khoảng hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời, khiến cho việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.

Nho giáo nguyên th yủ

Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trị của ơng tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

này học trị của ơng chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tơn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. Hán Nho

Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm cơng cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".

Tống Nho

Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.

Đặc điểm

Về nội dung học tập, Nho giáo chỉ nói đến "trí dục" và "đức dục" mà khơng xét đến mặt "thể dục" là mặt cũng rất cần cho sự phát triển toàn diện con người. Những kiến thức về giới tự nhiên và về sản xuất vật chất không được Nho giáo đề cập (bởi ở thời của Khổng Tử, khoa học kỹ thuật và nền sản xuất chưa phát triển). Do vậy, người học tuy thấm nhuần tư tưởng Nho học về đạo đức, tinh thông cổ văn, nhưng kiến thức về khoa học tự nhiên, sản xuất thực tiễn thì lại khơng phát triển. Cả hai mặt tiến bộ và hạn chế của Nho giáo đều để lại dấu ấn trên Nho sĩ. Khi tiếp xúc với nền văn minh phương Tây mạnh về khoa học kỹ thuật, nếu người xuất thân Nho học biết

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

tiếp thu những kiến thức khoa học và sản xuất thì sẽ khắc phục được mặt hạn chế, trở nên "Vừa có tài vừa có đức", ngược lại nếu tiếp thu khơng có chọn lọc thì khơng những không khắc phục được hạn chế mà những giá trị đạo đức của nền Nho học cũng bị đánh mất.

Nhược điểm nghiêm trọng hơn nữa là Nho giáo Việt Nam thiếu sự xuất hiện các trường phái học thuật nên vận động trong sự đơn điệu và một chiều, chứ không được phong phú và đa dạng như Nho giáo Trung Quốc. Nho giáo Việt Nam thiếu sự vận động bên trong, thiếu sự phản tỉnh nên trì trệ. Đa số nhà Nho Việt Nam chỉ đặt cho mình mục đích học là để đi thi, thi đỗ thì ra làm quan để được giàu sang, sung sướng. Đạt được mục đích đó thì xem như việc học tập đã kết thúc. Ít người có chí cao xa, như học để tham gia tranh luận những vấn đề mang tầm khu vực, học để kinh bang tế thế hoặc để phát triển văn hoá, đạt đến những tầm cao tư tưởng. Cũng có một số Nho sĩ quan tâm đến học thuật, nhưng thường là các vấn đề chính trị và đạo đức, ít bàn đến vấn đề siêu hình, một lĩnh vực thuần túy triết học làm nền tảng cho khả năng nhận thức sâu sắc thế giới và hành động sáng tạo. Thậm chí, họ cịn biến những vấn đề siêu hình thành cái thực tế, thực dụng. Vì học tập và tư duy như thế nên họ ít có cống hiến to lớn trong lĩnh vực học thuật có thể so sánh với các nước khác cũng chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nền giáo dục Nho giáo Việt Nam chỉ sản sinh ra được một tầng lớp quan lại có nền tảng Nho học cịn các loại hình trí thức then chốt của một tầng lớp trí thức thực thụ thì xuất hiện thưa thớt, mờ nhạt, hoặc hồn tồn vắng bóng trong một số lĩnh vực như triết học.

Một số nhà Nho uyên thâm của Việt Nam khi đứng trước kho tàng đồ sộ và uyên bác của Nho giáo Trung Quốc thường tóm lược lấy những điều cốt yếu, biên soạn lại thành những tài liệu đơn giản và ngắn gọn để dạy học trị. Có thể liệt kê các sách Nho học như “Tứ thư tập chú” của Chu Hy, “Tứ thư đại toàn” của Tống, Nguyên, Minh, Thanh Nho, sang Việt Nam chỉ cịn là “Thuyết ước” (tóm lược học thuyết) và “Ước giải” (giải thích tóm tắt); hoặc như cuốn “Tính lý đại toàn” của Hồ Quảng thời Minh, sang Việt Nam chỉ còn “Tiết yếu”. Đây là hiện tượng chung của nhiều triều đại quân chủ Việt Nam. Nếu ở triều Trần có “Tứ thư thuyết ước” của Chu Văn An, thì ở triều Lê - Trịnh có “Tứ thư ước giải” của Lê Q Đơn, triều Nguyễn có “Tứ thư trích giảng” của Nguyễn Văn Siêu; nếu ở triều Lê - Trịnh có cuốn “Tính lý tiết yếu” của Bùi Huy Bích, thì ở triều Nguyễn cuốn đó vẫn còn được xem là cuốn sách giáo khoa mẫu mực. Chính điều này đã lược bớt rất nhiều điều, làm mất rất nhiều điểm có khả năng gợi mở, giản đơn hố nội dung phong phú và súc tích của học thuyết khiến người học không lĩnh hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

được chiều sâu của Nho giáo. Người được truyền đạt cũng hài lịng với cách làm đó thì mọi lối tư duy, mọi đường sáng tạo đều bị thu hẹp lại. Bên cạnh đó, Nho giáo Việt Nam đã pha trộn với tư tưởng của Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian khác. Nhưng hạn chế lớn nhất là tập quán sùng bái thánh hiền, giáo điều và máy móc của giới Nho sĩ Việt Nam. Trong khi đó bên cạnh Nho giáo cịn có nhiều trường phái tư tưởng khác như Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia... Giữa các trường phái này ln có sự tranh luận, phản bác nhau. Điều này khiến sự phát triển của Nho giáo Việt Nam hạn chế. Nó chỉ đạt đến mức độ tiếp thu một số tín điều từ Nho giáo Trung Hoa, chưa tạo được lý luận riêng, chưa xuất hiện các học phái khác nhau. Phương pháp tư duy của nó thiên về bảo thủ, giáo điều

3. Quá trình thâm nhập của Nho giáo vào Việt Nam

3.1. Hán Nho đã được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên, Sỹ Nhiếp ra sức truyền bá từ đầu Cơng ngun. Tuy nhiên, vì đây là thứ văn hóa do kẻ xâm lược áp đặt cho nên, suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Đến năm 1070, với sự kiện Lí Thánh Tơng cho lập Văn Miếu thờ Chu Cơng, Khổng Tử, mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận thính thức. Chính vì vậy mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho chứ không phải Hán Nho, Đường Nho hay Minh Nho, Thanh Nho.

Đời Trần có Chu Văn An đào tạo được khá đơng học trị. Các nhà nho những lớp đầu tiên này ra sức bài xích Phật giáo để khẳng định chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, cho đến gần cuối đời Trần, Nho giáo vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi.

Trong cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh (1418- 1408), các nhà nho Việt Nam tập hợp dưới cờ Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn. Sự lớn mạnh của Nho giáo Việt Nam (điều kiện chủ quan) cùng với nhu cầu cải cách quản lí đất nước (yêu cầu khách quan) đã dẫn đến việc triều Lê đưa Nho giáo thành quốc giáo: sự phát triển của Nho giáo chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn Nho giáo độc tôn. Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của triều đình: Thời Lê sơ thì Nho giáo thịnh, chí sĩ đua nhau đi thi để ra làm việc nước. Thời Lê mạt thì Nho giáo suy, nhiều nhà nhà xuất sắc (như Nguyễn Bình Khiêm) lui về ở ẩn. Nhà Nguyễn lên cầm

</div>

×