Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

điều kiện ly hôn theo quy định của luật hôn nhân gia đình lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.73 KB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT</b>

<b>--- </b>

<b>TIỂU LUẬN CUỐI KỲ *** </b>

<b>ĐIỀU KIỆN LY HÔN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HƠN NHÂN GIA ĐÌNH </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN HỌC KỲ II NĂM HỌC 2021-2022 </b>

Tên đề tài: Điều kiện ly hôn theo quy định của Luật hôn nhân gia đình- Lý luận và thực tiễn.

STT Họ và tên sinh viên Mã số sinh viên Tỉ lệ phần trăm hoàn thành 1 Lê Thành Nhân 21128199 100%

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>A. PHẦN MỞ ĐẦU ... 1</b>

<b>1. Lí do chọn đề tài ... 1</b>

<b>2. Mục tiêu nghiên cứu ... 2</b>

<b>3. Phương pháp nghiên cứu ... 2</b>

<b>4. Kết cấu đề tài ... 2</b>

<b>B. PHẦN NỘI DUNG ... 3</b>

<b>Chương 1: Lý luận chung về ly hôn và điều kiện ly hôn ... 3</b>

<b>1.1.Khái niệm ly hôn ... 3</b>

<b>1.2.Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn ... 3</b>

<b>1.3.Căn cứ ly hôn ... 3</b>

<b>1.3.1.Cơ sở quy định căn cứ ly hôn ... 3</b>

<b>1.3.2.Điều kiện ly hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam ... 3</b>

<b>1.3.2.1.Khi thuận tình ly hơn ... 4</b>

<b>1.3.2.2.Khi ly hơn theo yêu cầu của một bên ... 5</b>

<b>1.3.2.3.Ly hôn theo yêu cầu của bên thứ ba ... 7</b>

<b>Chương 2: Thực tiễn áp dụng các điều kiện ly hôn và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về căn cứ ly hôn ... 9</b>

<b>2.1. Áp dụng căn cứ ly hôn cho một số trường hợp cụ thể ... 9</b>

<b>2.1.1. Trường hợp thuận tình ly hơn ... 9</b>

<b>2.1.3. Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của bên thứ ba ... 10</b>

<b>2.2. Một số kiến nghị nhầm nâng cao hiệu quả pháp luật về căn cứ ly hôn ... 11</b>

<b>2.2.1. Hồn thiện pháp luật về căn cứ ly hơn ... 11</b>

<b>2.2.2. Nâng cao nhận thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ Tịa án.. 11</b>

<b>2.2.3. Nâng cao trình độ hiểu biết cho người dân về căn cứ ly hôn và pháp luật về ly hôn ... 12</b>

<b>C. KẾT LUẬN... 14</b>

<b>D.TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 15</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>đúng đắn về căn cứ ly hôn đến với mọi người. </b>

Khi đời sống hơn nhân khơng thể duy trì được nữa thì ly hơn là giải pháp tốt nhất cho cả đôi bên vợ chồng. Ly hôn được coi là điểm cuối của hơn nhân khi mối quan hệ ̣tình cảm của hai vợ chồng đã thực sự tan rã. Ly hơn giải thốt cho các cặp vợ chồng và những thành viên trong gia đình khỏi sự ràng buộc, xung đột, mâu thuẫn và những bế tắc trong cuộc sống. Dù cho mối quan hệ gia đình có đổ vỡ thì sự bình đẳng về quyền và lợi ích giữa vợ và chồng vẫn được đảm bảo. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời đã bảo vệ quyền lợi cho các thành viên trong gia đình, hướng tới sự bình đẳng, cơng bằng. Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 là căn cứ để tịa án giải quyết các vụ việc về hơn nhân gia đình một cách thấu tình đạt lý. Với các quy định về căn cứ ly hôn, Nhà nước hướng tới việc bảo vệ lợi ích của gia đình, xã hội khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứt quan hê ̣hôn nhân trước pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ ly hơn hiện nay rất chung chung, khó xác định, ảnh hưởng đến công tác xét xử ly hôn. Các căn cứ ly hôn được quy định tại điều 55 và 56 của luật hơn nhân và gia đình năm 2014 cịn chưa cụ thể, và chưa có nghị định hướng dẫn về việc áp dụng các căn cứ ly hôn đó. Do đó, nhóm quyết định chọn đề tài “điều kiện ly hơn của luật hơn nhân và gia đình năm 2014” để nghiên cứu nhằm tìm hiểu rõ hơn về các căn cứ ly hơn và phân tích làm rõ nội dung của vấn đề căn cứ ly hôn để nâng cao sự hiểu biết của mọi người về luật hôn nhân và gia

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2

đình. Đồng thời, đưa ra các kiến nghị nhằm hồn thiện hơn các quy định của pháp luật. Từ đó, nâng cao sự hiểu biết cho bản thân và mọi người về các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam. Ngồi ra, bài tiển luận cịn góp phần nâng cao hiệu quả của pháp luật hơn nhân và gia đình nói chung và hoạt động giải quyết

<b>các vụ án ly hơn nói riêng trên cả nước. </b>

<b>2. Mục tiêu nghiên cứu </b>

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là dựa trên cơ sở các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình về ly hơn để:

• Nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn như: khái niệm ly hôn, điều kiện ly hơn, căn cứ ly hơn, tìm hiểu một cách đầy đủ có hệ thống về chế định ly hơn trong pháp luật Việt Nam.

• Nghiên cứu phân tích thực trạng về việc thực hiện các căn cứ ly hôn của các quy định của pháp luật thơng qua một số vụ án điển hình, đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về căn cứ ly hôn.

<b>3. Phương pháp nghiên cứu </b>

Tiểu luận được viết trên cơ sở pháp luật của Nhà nước Việt Nam về hơn nhân và gia đình.

Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thơng tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận xét, đánh giá.

Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mơ tả, phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

3

<b>B. PHẦN NỘI DUNG </b>

<b>Chương 1: Lý luận chung về ly hôn và điều kiện ly hôn </b>

<b>1.1. Khái niệm ly hôn </b>

Theo điều 3, khoản 14 trong luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.” [5]

<b>1.2. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn </b>

Điều 51, luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định rõ: [5]

• Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tịa án giải quyết ly hơn.

• Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền u cầu Tịa án giải quyết ly hơn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

• Chồng khơng có quyền u cầu ly hơn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

<b>1.3. Căn cứ ly hôn </b>

<b>1.3.1. Cơ sở quy định căn cứ ly hôn </b>

Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn theo đúng bản chất của một sự kiện – đó là hơn nhân "đã chết", sự tồn tại của nó chỉ là bề ngồi và lừa dối.

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có sự lồng ghép quy định về căn cứ ly hôn vào quy định về thuận tình ly hơn cũng như ly hơn theo u cầu của một bên. Như vậy, căn cứ ly hôn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 của Nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ

<b>sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua. </b>

<b>1.3.2. Điều kiện ly hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

4

<b>1.3.2.1. Khi thuận tình ly hơn </b>

Điều 55 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định về thuận tình ly hơn: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án cơng nhận thuận tình ly hơn; nếu khơng thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng khơng bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án giải quyết việc ly hơn.” [5]

Thuận tình ly hôn là trường hợp cả hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm dứt hơn nhân. Nó được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hơn của hai vợ chồng. Theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình 2014: Trong trường hợp cả hai vợ chồng cùng có yêu cầu ly hơn thì sự tự nguyện ly hơn của hai vợ chồng chính là căn cứ quyết định cho việc chấm dứt hôn nhân. Tự nguyện ly hôn là cả hai vợ chồng đều được tự do trình bày ý chí, nguyện vọng của bản thân mà khơng bị cưỡng ép, không bị lừa dối. Người vợ và người chồng khi thuận tình ly hơn phải thể hiện rõ ý chí, ý nguyện của các bên về việc giải quyết mối quan hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng. Khi bản thân hai vợ chồng xét thấy cuộc sống gia đình khơng thật sự hạnh phúc, giữa hai người có nhiều khúc mắc mà khơng thể hóa giải được, hai người khơng cịn tiếng nói chung trong cuộc sống, cuộc sống hơn nhân khơng đạt được mục đích và họ nhận thấy được việc ly hôn là cần thiết thì hai vợ chồng đồng tình cùng nhau yêu cầu Tịa án giải quyết việc ly hơn. Ý chí tự nguyện của đơi bên, sự nghiêm túc, chính chắn, khơng bị cưỡng ép và khơng bị lừa dối chính là căn cứ để tòa án quyết định cho vợ chồng ly hơn.

Ngồi ý chí tự nguyện khi thuận tình ly hơn của cả hai vợ chồng thì trong Điều 55 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 cịn địi hỏi hai vợ chồng phải có sự thoả thuận về việc phân chia tài sản, nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc và giáo dục con cái trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con. Hai vợ chồng phải thống nhất trong tất cả các quan điểm về: “tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con”. Thỏa mãn được những điều kiện trên mà thật sự đảm bảo được quyền lợi chính đáng cho người vợ và con thì Tịa án nhất trí giải quyết cho vợ chồng ly hôn.

Trong trường hợp những vấn đề trên mà khơng đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người vợ, người con thì Tịa án sẽ xem xét lại việc thuận tình ly hơn của hai bên. Khơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

5

bảo đảm được quyền lợi chính đáng của vợ và con tức là việc thỏa thuận về phân chia tài sản, nhân thân, con cái của hai bên đã làm ảnh hưởng hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu của vợ và con. Với quy định này, ta có thể thấy rõ được pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam ln bảo vệ phụ nữ và trẻ em.

<b>1.3.2.2. Khi ly hôn theo yêu cầu của một bên </b>

Ly hôn đơn phương hay ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân. Theo điều 56 luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: [5]

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng thành thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án tun bố mất tích u cầu ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn.

3. Trong trường hợp có u cầu ly hơn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

Theo khoản 1 Điều 2 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định về các hành vi bạo lực gia đình như sau: [6]

a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;

d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ơng, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;

e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

Khi vợ hoặc chồng có một trong các hành vi kể trên đều được coi là bạo lực gia đình và vợ, chồng đều có thể u cầu đơn phương ly hơn. Những hành vi đó đã tác động khơng nhỏ tới thể lực, trí lực, tâm tư tình cảm của vợ hoặc chồng, làm rạn nứt quan hệ tình cảm trong thời kỳ hơn nhân. Vì vậy, quy định về việc đơn phương ly hôn khi xảy ra tình trạng bạo lực gia đình trong luật hơn nhân và gia đình năm 2014 là vơ cùng phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay. Bởi có rất nhiều vụ ly hơn có liên quan hành vi đánh đập, ngược đãi, bạo lực gia đình và đa phần các nạn nhân là phụ nữ.

Khi vợ hoặc chồng có những hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng trong hơn nhân thì một trong hai vẫn được yêu cầu đơn phương ly hôn. Vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, quan tâm, tơn trọng và giúp đỡ lẫn nhau, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Hôn nhân là do cả hai vợ chồng cùng xây dựng, vun đắp nên nhưng khi các bên không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình thì hơn nhân sẽ dần lâm vào bế tắc và làm cho cuộc sống hơn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng hơn.

Việc vợ, chồng không chung thuỷ với nhau, có quan hệ ngoại tình dẫn đến cãi nhau, tra tấn vẫn nhau về mặt tinh thần cũng là một nguyên nhân làm cho đời sống hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Theo quy định tại điều 182 Bộ luật hình sự năm 2018 quy định: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm” [4]. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận quan hệ ngoại tình là một trong những căn cứ ly hơn. Điều này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tịa án khi giải quyết việc ly hơn theo u cầu của một bên.

Theo khoản 1 điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

7

“Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thơng báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn khơng có tin tức xác thực về việc người đó cịn sống hay đã chết thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tịa án có thể tun bố người đó mất tích.

Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu khơng xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu khơng xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng” [3]. Trong trường hợp người vợ hoặc người chồng mất tích thì người cịn lại vẫn có thể u cầu đơn phương ly hơn.

Sự mất tích của người vợ hoặc chồng đã làm cho tình trạng hơn nhân và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên phức tạp và rơi vào tình trạng bế tắc. Như vậy, quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án đối với một bên vợ hoặc chồng được coi là căn cứ ly hôn. Nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích yêu cầu ly hơn thì Tịa án sẽ giải quyết cho họ được ly hôn.

<b>1.3.2.3. Ly hôn theo yêu cầu của bên thứ ba </b>

Tại khoản 2, điều 51 trong luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền u cầu Tịa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.” [5]

Tại khoản 3, điều 56 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định: “Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia” [5] Căn cứ theo những quy định trên thì cha, mẹ, người thân cũng có quyền u cầu tịa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình hoặc là nạn nhân của bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Theo quy định của luật hôn nhân và gia đình hiện nay, cha mẹ của cả hai bên vợ hoặc chồng đều

</div>

×