Phần I: Giới thiệu về chuyên đề
Ly hôn là hiện tượng xã hội phổ biến và phức tạp đặc biệt trong tình hình
hiện nay khi nó ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường. Không chỉ ảnh hưởng
đến lợi ích của các đương sự mà ly hôn còn ảnh hưởng đến lợi ích của con họ,
của gia đình và xã hội. Cùng với sự phát triển về kinh tế các án kiện ly hôn cũng
như các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các án kiện ly hôn ngày
càng tăng. Đồng thời sự phức tạp về tranh chấp cũng theo đó mà tăng lên. Các
tranh chấp chủ yếu về xác định tài sản chung,tài sản riêng, giá trị tài sản chung,
thanh toán nghĩa vụ tài sản, về quyền sử dụng đất và nhà ở, về xác định công sức
của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình nếu vợ chồng sống chung
với gia đình…
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn việc xét xử các vụ án ly hôn nói chung
và việc phân chia tài sản (tài sản có xảy ra tranh chấp) nói riêng tại các bản án
của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh - chủ yếu là các bản án phúc thẩm, em
đã chọn đề tài " Thực tiễn giải quyết tranh chấp về tài giữa vợ và chồng trong
các án kiện ly hôn" tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Chuyên đề được viết dựa trên những kiến thức mà em đã tiếp thu được
tại trường Đại học Luật Hà Nội, quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các bản án đã xét
xử, qúa trình thụ lý, nghiên cứu hồ sơ và xét xử tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh. Với các phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh dữ liệu …em
đã phân tích và làm rõ các căn cứ pháp luật để chia tài sản giữa vợ và chồng
trong các án kiện ly hôn. Đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề cần giải quyết tại
địa phương, với hy vọng khắc phục được những hạn chế này trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian thực tập ngắn, giữa lý
thuyết được học tại nhà trường và thực tiễn xét xử có những điểm khác nhau và
do quá trình nhận thức của bản thân còn hạn chế nên bản báo cáo thực tập chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định…Do đó, em rất mong được sự
sự thông cảm, đóng góp, giúp đỡ của các thầy cô và các bạn để chuyên đề của
em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
1
phần II: quá trình thu thập thông tin
Trong quá trình thực tập tại toà án tỉnh, cùng sự tìm hiểu thực tế tại địa
phương từ ngày 7/01/2008 đến ngày 20/4/2008 đã thu thập được những thông
tin về tình hình giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các án
kiện ly hôn của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh như sau:
1. Tổng hợp công tác giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong
các án kiện ly hôn của toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
(Số liệu từ Toà dân sự toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
Bảng 1: Công tác giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các
án kiện ly hôn trong năm 2005:
CTXX
Cấp XX
Thụ lý Giải quyết
Vụ án Đương sự Vụ án Đương sự
Phúc thẩm
15
30 15 30
Bảng 2: Công tác giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các
án kiện ly hôn trong năm 2006
CTXX
Cấp XX
Thụ lý Giải quyết
Vụ án Đương sự Vụ án Đương sự
Phúc thẩm 20 40 20 40
2
2. Tổng hợp số liệu về tranh chấp tài sản giữa vợ và chồng trong các án
kiện ly hôn của tỉnh Quảng Ninh:
Bảng 3:
( Số liệu thống kê từ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
3. “Tạp chí toà án nhân dân” (số 4 và 5 năm 2000)
Trang 26 “Phân định tài sản của vợ và chồng khi ly hôn” của tác giả Kiều
Thanh Nghĩa.
Trang 14 “Một số ý kiến về phân định tài sản của vợ chồng khi ly hôn” của
tác giả Tưởng Duy Lượng
( Nghiên cứu tại phòng thẩm phán toà dân sự toà án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh).
4. Báo cáo công tác ngành toà án năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ
công tác toà án năm 2007của Toà án nhân dân tối cao.
( Thu thập tại phòng Chánh toà dân sự Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
5. Báo cáo tham luận về công tác xét xử án hôn dân sự năm 2005 và một số
kiến nghị của toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
( Nghiên cứu tại Văn phòng Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
6. Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ công tác
năm 2006 của toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
- Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ công
tác năm 2007 của toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
( Nghiên cứu tại Văn phòng Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
7. Bản án dân sự:
- Bản án số 28/2005/LHPT ngày 08/11/2005, thụ lý số 25/2005/HNGĐ - PT
ngày 06/11/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, giữa nguyên đơn là chị
Trịnh Thị Sơn và bị đơn là anh Nịnh Văn Mạnh.
Năm
Số vụ Nguyên đơn Bị đơn
2005 15 15 15
2006 20 20 20
3
- Bản án số 14/2006/LHPT ngày 22/05/2006, thụ lý số 11/LHPT ngày
26/04/2006 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, giữa nguyên đơn là chị Đàm
Thị Hường và bị đơn là anh Trần Trung Tại.
(Nghiên cứu tại phòng thư ký toà dân sự Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
8. Những nguyên nhân phát sinh tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng
trong các án kiện ly hôn
(Xin ý kiến của thẩm phán Đào Đình Trợi và Nguyễn Hồng Nam- phó
Chánh án toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
9. Đánh giá, nhận xét, kiến nghị hoạt động của Toà án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ
và chồng trong các án kiện xin ly hôn tại địa phương.
(Xin ý kiến của thẩm phán Nguyễn Hồng Oánh-Chánh toà dân sự Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh và thẩm phán Trần Quang Cường-thẩm phán toà dân
sự)
Phần III. tình hình giải quyết tranh chấp về tài sản giữA vợ và chồng trong
các án kiện ly hôn tại toà án nhân dân tỉnh quảng ninh
I. những Căn cứ pháp luật để Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh chia tài sản của
vợ chồng trong các án kiện ly hôn
1. Căn cứ Bộ luật Dân sự
Trước hết để có thể chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn Toà án đã căn
cứ vào các quy định của Bộ luật Dân sự về việc xác lập quyền sở hữu đối với
khối tài sản đem ra phân chia. Theo Điều 233 Bộ luật Dân sự năm 1995 và nay
là Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về sở hữu chung của vợ chồng :
"1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công
sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo
quyết định của Toà án."
Theo qui định của pháp luật, khối tài sản chung của vợ chồng được tính là
tài sản của hai vợ chồng cùng nhau tạo lập sau hôn nhân. Như vậy hai vợ chồng
có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt một tài sản
4
chung. Nếu khi vợ chồng ly hôn tại Toà án mà hai bên không thoả thuận phân
chia được tài sản thì Toà án sẽ quyết định trên cơ sở quy định của pháp luật.
2. Căn cứ theo Luật Hôn nhân và Gia đình, các văn bản hướng dẫn thi
hành
Luật Hôn nhân và Gia đình của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2000 và các văn bản hướng dẫn đã đặt ra nguyên tắc chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn. Theo điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì
"Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được
thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu
của bên đó ". Như vậy, Điều luật này chỉ đặt ra vấn đề chia tài sản chung, còn
không quy định việc phân chia tài sản riêng của hai vợ chồng. Tuy nhiên, trong
quá trình chung sống có nhiều tài sản riêng đã được đưa vào sử dụng chung.
Việc xác định đâu là tài sản riêng, đâu là tài sản chung đối với cơ quan xét xử là
một công việc khó khăn. Đặc biệt là đối với động sản do các bên không có đủ
căn cứ để chứng minh rằng đó là tài sản riêng của mình và tài sản riêng đó là
bao nhiêu. Cũng theo nguyên tắc của Điều 95 tại khoản 2 Luật Hôn nhân và Gia
Đình việc chia tài sản chung theo nguyên tắc là chia đôi, nhưng có xem xét
hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào
việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản này. Như vậy, trong trường hợp cả
hai vợ chồng đều là lao động có thu nhập và thu nhập của hai vợ chồng tương
đối ngang bằng nhau thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc " tài sản chung của vợ
chồng được chia đôi" . Tuy nhiên, trong thực tế có không ít trường hợp khối tài
sản đó là do một bên tạo lập nên, vì vậy đặt ra vấn đề chia khối tài sản đó như
thế nào để có thể đảm bảo quyền lợi của người tạo lập khối tài sản đó đồng thời
cũng đảm bảo được quyền và lợi ích của bên kia. Trong trường hợp này đòi hỏi
cơ quan xét xử phải nghiên cứu, xem xét hồ sơ và hỏi tại phiên toà để có thể làm
rõ công sức đóng góp của các bên để có thể đưa ra quyết định đúng đắn, hợp
tình hợp lý để hai bên sau khi ly hôn không có sự thù hằn, căm ghét, nó có thể là
những nguyên nhân gây ra những hậu quả xấu sau khi ly hôn.
5
Thông thường khi chia tài sản của vợ chồng các hội đồng xét xử thường
áp dụng khá linh hoạt các điểm b, c, d khoản 2 Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia
đình để có thể đảm bảo quyền lợi của các bên khi ly hôn.
Vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ phức tạp hơn nếu như
trong thời kỳ hôn nhân hai vợ chồng chung sống với gia đình (sống cùng với
cha, mẹ và các anh chị em), khi đó nếu khối tài sản chung đó có thể xác định
theo phần thì phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để
chia (theo khoản 2 Điều 96 Luật Hôn và Gia đình, còn nếu không xác định được
theo phần và cũng không thoả thuận được với gia đình về phần tài sản của vợ
chồng đóng góp thì sẽ yêu cầu Toà án giải quyết. Trong trường hợp này cũng
đòi hỏi Toà án phải xác định rất cụ thể công sức đóng góp của từng thành viên
trong gia đình để có thể tách phần tài sản của vợ chồng ra để phân chia.
Vấn đề quyền sử dụng nhà, đất của vợ chồng khi ly hôn. Vẫn theo nguyên
tắc tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc bên đó, vì vậy khi ly hôn
quyền sử dụng đất riêng của bên nào vẫn thuộc về bên đó theo Điều 97 Luật
Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000. Tuy nhiên việc xác lập quyền sử dụng đất của
cá nhân ở Việt Nam trước năm 2003 (trước khi ban hành luật đất đai hiện hành)
có nhiều bất cập, các văn bản chồng chéo không rõ ràng minh bạch vì vậy để
xác định ai có quyền sử dụng một lô đất nào đó là rất khó khăn mà các cơ quan
xét xử đã gặp phải không chỉ trong việc chia tài sản là quyền sử dụng đất khi ly
hôn mà cả trong các vụ việc dân sự khác có liên quan đến quyền sử dụng đất.
Thông thường để căn cứ vào các điều 95, 96, 97,98,99 của Luật Hôn Nhân Và
Gia Đình và các văn bản hướng dẫn thì sẽ không giải quyết được thấu đáo và
triệt để các vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất khi ly hôn. Vì vậy, các cơ
quan xét xử thường phải căn cứ vào các quy định của Luật Đất đai và Luật Dân
sự để giải quyết, để xác định ai có quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó
là tài sản chung hay tài sản riêng, công sức đóng góp của mỗi bên vào tài sản đó
như thế nào (trong trường hợp đó là nhà thuộc sở hữu riêng của một bên).
II. Thực tiễn giảI quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng Trong các án kiện ly
hôn tại Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
6
1. Khái quát về tình hình ly hôn tại Quảng Ninh.
Quảng Ninh là một tỉnh lớn, mật độ dân cư đông, điều kiện kinh tế xã hội
phát triển so với cả nước. Cùng với sự phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội cũng
được đặt ra trong đó có vấn đề quan hệ hôn nhân và gia đình. Quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình như con đối với bố mẹ, vợ chồng với nhau có phần
xuống cấp trong một bộ phận không nhỏ của dân cư. Trong xã hội ngày nay, khi
mà mọi người đều quan tâm tới yếu tố kinh tế và không còn chăm lo nhiều tới
gia đình mình nữa. Sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình
giờ đây được thay thế bằng việc tính toán làm ăn kinh tế, đôi khi là chơi bời truỵ
lạc …đã làm cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không còn chặt
chẽ. Sự cách biệt giữa thu nhập của vợ và chồng, sự ảnh hưởng của yếu tố văn
hoá ngoại lai, sự xâm nhập của những quan niệm không đúng đắn, sự nhận thức
chưa đầy đủ và không thấu đáo về hậu quả của việc ly hôn của các cặp vợ chồng
trẻ…đó là một số các nguyên nhân trong rất nhiều các nguyên nhân làm tình
trạng ly hôn ở Việt Nam nói chung và ở Quảng Ninh nói riêng gia tăng.
Việc mâu thuẫn trong gia đình hiện nay ngày càng gia tăng, và ngày càng
có nhiều cặp vợ chồng muốn ly hôn. Sau khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn
nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn. Khi hai vợ chồng đã
ly hôn sẽ đặt ra một số vấn đề như nuôi con chung, vấn đề cấp dưỡng cho con,
và một vấn đề quan trọng được đặt ra là chia khối tài sản chung của vợ chồng
tạo lập được trong thời kỳ chung sống với nhau. Sau khi xem xét các đơn kháng
cáo, kháng nghị mà Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận được về việc yêu
cầu xét xử phúc thẩm các vụ án hôn nhân và gia đình em nhận thấy lý do kháng
cáo của các bên chủ yếu là cho rằng bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp
dưới về việc chia tài sản là chưa hợp lý và yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh xem xét
lại phần quyết định chia tài sản của vợ chồng. Vì vậy có thể thấy rằng việc chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là rất phức tạp và đó là mối
quan tâm hàng đầu của các cặp vợ chồng khi ly hôn.
2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
7
Năm 2005, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã nhận đơn kháng cáo của
40 vụ án xin ly hôn được giải quyết tại các Toà cấp huyện trong tỉnh, trong đó
có 15 đơn kháng cáo yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh xem xét lại phần chia tài sản
của bản án sơ thẩm. Toà án nhân dân tỉnh đã giải quyết và ra quyết định phúc
thẩm 40 vụ trong đó có 15 vụ Toà án nhân dân tỉnh phải sửa phần nội dung về
tài sản và công nợ so với bản án sơ thẩm.
Năm 2006 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nhận được 42 đơn kháng cáo
của các bên trong vụ án xin ly hôn. Trong đó có 20 đơn kháng cáo yêu cầu Toà
án xem xét lại phần chia tài sản của bản án sơ thẩm. Toà án nhân dân tỉnh đã
giải quyết và ra quyết định phúc thẩm 42 vụ trong đó có 20 vụ Toà án nhân dân
tỉnh phải sửa phần nội dung về tài sản và công nợ so với bản án sơ thẩm.
- Đối với động sản: qua việc tìm hiểu các bản án phúc thẩm của Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh, qua các buổi tham dự các phiên Toà phúc thẩm tại
Toà án em nhận thấy có một số nguyên nhân dẫn tới việc tranh chấp về tài sản
là động sản của các cặp vợ chồng khi ly hôn như sau:
Thứ nhất: Khi mới xây dựng gia đình các cặp vợ chồng trẻ thường khó
khăn về kinh tế nên khi cần vốn để xây dựng kinh tế họ thường vay mượn khá
nhiều, vay của bạn bè, bố mẹ, anh chị của cả vợ và chồng. Do đặc điểm của Việt
Nam, việc vay mượn thường dựa vào các mối quan hệ thân thiết nên thường
không có giấy tờ chứng minh, khi xảy ra tranh chấp họ không thừa nhận việc
vay mượn đó là có thực.
Thứ hai: Khi xã hội phát triển việc làm kinh tế của vợ và chồng đôi khi
tach biệt nhau, chồng làm kinh tế riêng và vợ làm kinh tế riêng vì vậy mà trong
gia đình thường có tình trạng vốn làm ăn của vợ, vốn làm ăn của chồng. Khi làm
kinh tế độc lập như vậy họ cũng thường huy động vốn từ rất nhiều nguồn khác
nhau và chỉ có một bên vợ, chồng biết. Trong trường hợp này nếu làm ăn thua lỗ
và một bên mắc nợ họ cũng thường không thừa nhận.
Thứ ba: đối với tài sản riêng của mỗi bên trước khi kết hôn cũng rất khó
xác định bởi do tập quán người việt khi xây dựng gia đình họ đều mong muốn là
được cùng nhau xây dựng hạnh phúc nên chưa có một trường hợp nào xác định
8