Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.51 KB, 67 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
LỜI CAM KẾT
Tên tôi là: VŨ THỊ DUNG.
Sinh viên lớp: Kinh tế Phát triển 48B
Khoa: Kế hoạch và Phát triển
Sau 4 năm học tập, 15 tuần thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á,
được sự cho phép của khoa Kế hoạch và phát triển cùng với sự hướng dẫn tận tình
của PGS.TS Phan Thị Nhiệm tôi đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng
tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
Tôi xin cam đoan đây là kết quả của việc áp dụng những kiến thức học tập được
tại nhà trường và những kiến thức thực tế tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á.
Nó là công trình nghiên cứu của riêng tôi chứ không sao chép từ bất kỳ một chuyên
đề, luận văn nào khác.
Hà Nội, ngày 09 tháng 05 năm 2010
Sinh viên
Vũ Thị Dung
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu 2.1 Tình hình huy động vốn của ngân hàng TMCP Bắc Á. .Error: Reference
source not found
Biểu 2.2: Biểu đồ kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Bắc Á Error:
Reference source not found
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
LỜI MỞ ĐẦU
Đã từ lâu, ngân hàng trở thành một dịch vụ nền tảng của những quốc gia phát
triển. Ngân hàng ra đời góp phần điều tiết các nguồn vốn, là kênh phân phối vốn,
điều chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Sở dĩ ngân hàng thực hiện được
điều này là thông qua vai trò tín dụng. Tín dụng là nhân tố trợ thủ đắc lực giúp cho


các thành phần trong xã hội phát triển toàn diện.
Trong xu thế toàn cầu hoá nhu cầu tín dụng đối với các thành phần kinh tế càng
trở nên cấp thiết hơn. Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng (hay cụ thể hơn là ngân hàng)
cũng cạnh tranh gay gắt hơn do có nhiều hệ thống ngân hàng hiện hữu nên vấn đề cấp
phát tín dụng ngày càng có nhiều rủi ro và ngày càng được cải thiện về chất lượng lẫn
số luợng cho vay.
Vậy các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, làm thế nào để có
thể tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh trong thời kỳ hội nhập với những đối
thủ cạnh tranh đầy tiền lực và giàu kinh nghiệm? Đây thực sự là một vấn đề khá khó
khăn cho tất cả các ngân hàng. Một trong những câu trả lời trên đây nghe đơn giản
nhưng cũng thật sự khó thực hiện đó là nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường
cạnh tranh.
Cùng với sự đổi mới của toàn bộ hệ thống ngân hàng, Ngân hàng thương mại cổ
phần Bắc Á, trong những năm qua đã rất chú trọng tới hoạt động tín dụng và đang
từng bước hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh của mình để đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong lúc sự quản
lý kinh tế, sự chuyển đổi cơ chế quản lý trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra hết
sức phong phú và đa dạng. Song sẽ là không phải khi muốn hoàn thiện hơn mà lại
không chấp nhận những phần còn thiếu sót còn tồn tại trong hoạt động tín dụng của
mình.
Qua quá trình nghiên cứu, học tập, tìm hiểu để có thể tiếp cận, xâm nhập và từ
những yêu cầu thực tiễn đặt ra, đặc biệt trong quá trình thực tập tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Bắc Á được sự giúp đỡ và khuyến khích của các thầy cô giáo
trong khoa, các cô chú, anh chị trong ngân hàng, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu
đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Bắc Á ”để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
Chuyên đề được chia thành 3 chương:

Chương I: Tổng quan về chất lượng tín dụng của ngân hàng
thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương
mại cổ phần Bắc Á
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Bác Á
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phan Thị Nhiệm đã hướng dẫn, giúp đỡ
em tận tình, em cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị trong phòng tín dụng tại
ngân hàng TMCP Bắc Á đã giúp em có cái nhìn thực tế về hoạt động tín dụng tại
ngân hàng để em có thể hoàn thành đề tài này.

SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ những đồ vật quí cho những
người sở hữu nó tránh mất mát và người chủ sở hữu nó phải trả cho người giữ một
khoản tiền công. Khi xã hội phát triển kéo theo thương mại phát triển nhu cầu về
lượng tiền càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền và nhàn rỗi trong xã hội và
dùng lượng tiền đó cho vay lại. Đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt
động của ngân hàng.
Ngân hàng thương mại (NHTM) được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các
nước trên thế giới. Ở một số nước, thì khái niệm NHTM để chỉ một số tổ chức tài
chính tiền tệ nơi hoạt động kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi từ các cá nhân
hay tổ chức kinh tế rồi lại để cho các tổ chức này vay lại. Các ngân hàng không được

phép kinh doanh tổng hợp các dịch vụ khác như đầu tư tài chính, cung cấp dịch vụ
cho các nhóm ngành nghề riêng biệt. Trong khi đó ở một số nước khác thì lại cho
rằng NHTM là ngân hàng được phép kinh doanh tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân
hàng.
Ở Việt Nam, NHTM được quy định rõ trong luật ngân hàng và các tổ chức tín
dụng: “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên
là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để
cho vay và thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Trên thực tế, ở nước ta ngoài việc thực hiện các hoạt động trong luật thì còn
phải thực hiện các hoạt động khác phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội thực
hiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cho vay để phát triển một số thành
phần kinh tế, ưu đãi đối với một số dự án, một số đối tượng phù hợp.
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
Do đó, ở Việt Nam các NHTM thường được hiểu như một ngân hàng thực hiện
các dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ như nhận gửi của khách hàng để rồi cho
vay, cung cấp lại vốn đầu tư... dưới sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
1.1.1.2 Các hoạt động của NHTM
* Nghiệp vụ huy động vốn
Vốn của NHTM là những gía trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Trên thực
tế, nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi
trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gửi
vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Nhìn chung, vốn chi phối toàn
bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.
Xuất phát từ vai trò và tính chất vốn như vậy, nghiệp vụ huy động vốn (hay còn
gọi là nghiệp vụ tạo lập vốn) luôn được coi là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho
sự hoạt động của NHTM. Ngoài vốn ban đầu cần thiết tức là đủ vốn pháp định theo
luật thì ngân hàng phải thường xuyên quan tâm tới việc tăng trưởng vốn trong cả quá

trình hoạt động kinh doanh của mình. Thông thường kết cấu nguồn vốn của một
NHTM gồm có: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác. Mỗi loại vốn đều có
những ai trò tính chất riêng. Trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM và trong
suốt quá trình hoạt động của NHTM các nghiệp vụ huy động theo từng loại vốn kể
trên sẽ được tiến hành xen kẽ lẫn nhau phụ thuộc vào yêu cầu của hoạt động kinh
doanh và thực trạng vốn của ngân hàng.
* Nghiệp vụ sử dụng vốn
Sau khi huy động được vốn, NHTM phải sử dụng thế nào để hiệu quả hoá
những nguồn tài sản này. Thông thường hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng tập
trung vào các hình thức sau:
Nghiệp vụ ngân quỹ: là hoạt động của ngân hàng nhằm mục đích bảo đảm
khả năng thanh toán thường xuyên như: các quỹ tiền mặt, các khoản tiền gửi thanh
toán ở NHTW và NHTM khác, các khoản tiền đang trong quá trình thu về.
Nghiệp vụ cho vay: là hoạt động kinh doanh giữ vị trí chủ chốt của ngân
hàng trong việc tạo ra lợi nhuận. Các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn từ 60-
80% tổng số tài sản có của NHTM và đem lại hơn 60% doanh lợi cho ngân hàng. Đại
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
bộ phận tiền huy động được ngân hàng cho vay theo 2 loại chính là cho vay ngắn hạn
và cho vay trung dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, đời sống,
dịch vụ kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế, đi cùng với sự phát triển của nền kinh tế
thị trường và của ngành ngân hàng, các NHTM còn đưa ra nhiều loại hình tín dụng
khác, đa dạng đáp ứng đầy đủ nhu cầu tín dụng của các thành phần trong nền kinh tế
như: tín dụng thông thường cho các đơn vị kinh doanh, tín dụng chứng từ, tín dụng
thuê mua,…
Nghiệp vụ đầu tư: hoạt động đầu tư của NHTM diễn ra chủ yếu trên thị
trường tài chính thông qua việc mua bán các chứng khoán. Thu nhập ngân hàng thu
được từ hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra, ngân
hàng còn có thể tiến hành đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu hoặc hùn vốn hoặc góp

vốn liên doanh với các doanh nghiệp và được phân chia lợi nhuận trong suốt quá
trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
* Nghiệp vụ trung gian
Để giúp các ngân hàng phát triển toàn diện, đem lại cho ngân hàng những
khoản thu nhập khá quan trọng, NHTM còn tiến hành các nghiệp vụ trung gian gồm
nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng
nhằm qua đó làm tăng sự thoả mãn của khách hàng đối với 2 loại nghiệp vụ cơ bản
kể trên. Các dịch vụ trung gian thường gặp như: dịch vụ chuyển khoản, dịch vụ cung
cấp các công cụ thanh toán, dịch vụ thu hộ chi hộ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ kiều
hối thu đổi ngoại tệ, dịch vụ thuê mua bảo lãnh, dịch vụ tư vấn thông tin,… Vai trò
của các nghiệp vụ trung gian này là bổ sung vào các nghiệp vụ cơ bản, tạo giá trị gia
tăng và có thể tạo nên sự khác biệt của ngân hàng trong cạnh tranh.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của NHTM
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một
bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong khi đó ngân hàng đóng vai trò với tư
cách một bên là ngân hàng một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế. Ngân hàng
đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay, nói cách khác ngân hàng là
một trung gian tài chính có nhiệm vụ luân chuyển vốn từ nơi tạm thừa vốn sang nơi
thiếu vốn. Giá (lãi suất) của khoản vay do ngân hàng ấn định cho khách hàng vay là
mức lợi tức mà khách hàng phải trả trong suốt khoảng thời gian tồn tại của khoản
vay. Có thể nhận thấy về thực chất tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho vay và
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn
tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hoá từ người cho vay chuyển
sang người đi vay và sau một thời gian nhất định quay về với người cho vay với lư-
ợng giá trị lớn hơn ban đầu. Tín dụng được cấu thành nên từ sự kết hợp của ba yếu tố
chính là: lòng tin (sự tin tưởng vào khả năng hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của người
cho vay đối với người đi vay); thời hạn của quan hệ tín dụng (thời gian người vay sử

dụng tiền vay); sự hứa hẹn hoàn trả. Và như vậy, phạm trù tín dụng có các đặc trưng
chủ yếu sau:
Tín dụng là có lòng tin: bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng la-tinh
“creditum” có nghĩa là “sự giao phó” hay “sự tín nhiệm”. Nghiên cứu khái niệm tín
dụng cũng cho ta thấy tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa
hẹn biểu hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của người cho vay vào người đi vay.
Yếu tố lòng tin tuy vô hình nhưng không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây là yếu
tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Trong quan hệ tín dụng “lòng tin” được biểu hiện từ nhiều phía, không chỉ có
lòng tin từ một phía của người cho vay đối với người đi vay. Nếu người cho vay
không tin tưởng vào khả năng hoàn trả của người đi vay thì quan hệ tín dụng có thể
không phát sinh và ngược lại, nếu người đi vay cảm nhận thấy người cho vay không
thể đáp ứng được yêu cầu về khối lượng tín dụng, về thời hạn vay,…thì quan hệ tín
dụng cũng có thể không phát sinh. Trong quan hệ tín dụng lòng tin của người cho vay
đối với người đi vay quan trọng hơn nhiều bởi lẽ người cho vay là người giao phó
tiền bạc hoặc tài sản của mình cho người khác giữ và sử dụng.
Tín dụng là có tính thời hạn: khác với các quan hệ mua bán thông thường khác
(sau khi trả tiền người mua trở thành chủ sở hữu của vật mua hay còn gọi là “mua đứt
bán đoạn”), quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không
trao đổi quyền sở hữu khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng
hàng hoá hay tiền tệ cho người kia sử dụng trong một thời gian nhất định. Sau khi
khai thác giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn cam kết, người đi vay phải
hoàn trả toàn bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản lợi tức hợp lý kèm theo như cam
kết đã tảo thuận với người cho vay.
Mọi khoản vay dưới dạng hiện vật hay tiền tệ đều là hàng hoá và vì thế nó cũng
có giá trị và giá trị sử dụng. Trong kinh doanh tín dụng người cho vay chỉ bán “giá trị
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
(quyền) sử dụng của khoản vay” chứ không bán “giá trị của khoản vay”, vì thế sau

khi hết thời gian sử dụng theo cam kết, khoản vay đó được hoàn trả về và vẫn giữ
nguyên giá trị của nó, phần lợi tức theo thoả thuận là “giá bán” quyền sử dụng khoản
vay trong thời gian nhất định. Như vây, khối lượng hàng hoá hay tiền tệ cho vay ban
đầu chỉ là vật chuyên chở giá trị sử dụng của chúng, được phát ra qua các thời gian
nhất định rồi sẽ thu về chứ không được bán đứt.
Tín dụng là có tính hoàn trả: đây là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của
tín dụng và là dấu ấn để phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác.
Sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng, hoàn thành một chu kỳ sản xuất
trở về trạng thái tiền tệ, vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả cho người cho vay
kèm theo một phần lãi như đã thoả thuận.
Một mối quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu được thực hiện với đầy đủ các
đặc trưng trên, nghĩa là người đi vay hoàn trả được đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn.
1.1.3 Phân loại tín dụng
Phân loại tín dụng nhằm mục đích giám sát và kiểm tra những khoản nợ hiện
có theo các mức độ khác nhau, xác định xem chất lượng và mức độ rủi ro của những
khoản nợ, từ đó có chế độ quản lý thích hợp đối với từng khoản cho vay. Có nhiều
tiêu thức phân loại tín dụng, nhưng để phục vụ trực tiếp cho việc quản lý, người ta
thường phân loại nợ theo các tiêu thức: theo thời hạn cho vay, theo mức độ rủi ro của
khoản nợ, theo kỳ hạn nợ, theo tính chất bảo đảm của tài sản thế chấp.
+ Phân loại theo thời hạn cho vay, có 3 loại: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung
hạn và dài hạn, tuỳ theo quan niệm và điều kiện quản lý cụ thể của từng nước trong
việc huy động vốn mà quy định các loại tín dụng có khác nhau. Thông thường, tín
dụng có liên quan đến việc bổ sung vốn phục vụ cho mua sắm tài sản lưu động còn
tín dụng trung và dài hạn có liên quan tới lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm
tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất kinh doanh trong các doanh
nghiệp. Phân loại theo thời hạn, tính chất của các khoản vay tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xây dựng chính sách tín dụng, kế hoạch hóa nguồn vốn huy động và cho vay
phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
+Phân loại theo kỳ hạn nợ: Phân loại theo kỳ hạn nợ căn cứ vào thời hạn trả
nợ đã thoả thuận trong hợp đồng vay vốn và khả năng thanh toán thực tế của bên vay

SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
vốn để quy định từng lần vay vốn cụ thể cho một khoản vay. Theo tiêu thức này,
người ta chia các khoản nợ thành 3 loại: nợ chưa đến hạn, nợ đến hạn và nợ quá hạn.
Nợ chưa đến hạn là nợ chưa đến thời hạn thanh toán, khoản nợ này có thể thu
hồi được nhưng cũng có khả năng rủi ro. Giai đoạn này có thể biến Ngân hàng ở thế
bất lợi thành thuận lợi và ngược lại. Làm tốt khâu này sẽ tạo điều kiện cho việc hoàn
thành chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng .
Nợ đến hạn là khoản nợ đến hạn phải thanh toán, nó được dùng để đánh giá
một khoản tín dụng đã cung cấp và có ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính và khả
năng thanh toán của NHTM. Không thể nói rằng tình hình của một NHTM là khả
quan khi có nhiều khoản nợ đến hạn mà không có khả năng thanh toán được.
Nợ quá hạn là những khoản nợ vì lý do nào đó mà đến thời hạn chưa thanh
toán được. Đây là nguyên nhân chính làm cho tình hình tài chính của NHTM trở nên
khó khăn. Nợ quá hạn càng lớn, mức độ rủi ro thiếu thanh khoản ngày càng cao. Mục
tiêu của NHTM là thu nợ đúng hạn. Thực hiện mục tiêu này, không những chỉ có thể
đảm bảo cho sự thành công trong kinh doanh của NHTM mà nó còn cho thấy vai trò
đòn bẩy của vốn tín dụng trong thúc đẩy sản xuất phát triển.
Việc thực hiện quản lý các khoản nợ này là một dãy liên hoàn và có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình quản lý của một khoản cho vay. Quản lý, theo dõi
chặt chẽ các khoản nợ chưa đến hạn, thu nợ kịp thời khi khoản vay đến hạn thanh toán
sẽ góp phần hạn chế được nợ quá hạn. Phân loại theo kỳ hạn nợ giúp cho cán bộ tín
dụng có biện pháp theo dõi, quản lý thích hợp, dự kiến được khoảng thời gian và biện
pháp thu hồi nợ, trên cơ sở đó lập kế hoạch tín dụng cho thời kỳ tiếp theo.
+ Phân loại theo tính chất đảm bảo của khoản nợ:
Theo tiêu thức này, các khoản nợ được chia thành 2 loại: nợ có đảm bảo (bằng
tài sản thế chấp hay được bảo lãnh, tái bảo lãnh) và nợ không có đảm bảo. Mức độ
rủi ro của khoản nợ có đảm bảo tuỳ thuộc vào mức độ đảm bảo của tài sản thế chấp.
Xác định đúng giá trị của nó và cho vay theo đúng mức độ rủi ro của việc đảm bảo

tiền vay co thể tránh được những rủi ro đáng tiếc khi nợ đến hạn không thể thu hồi
được.
Nợ không đảm bảo, với mức độ rủi ro của tín dụng tuỳ thuộc chủ yếu vào tình
hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của bên vay. Do đó, các khoản nợ này
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
nên được quản lý chặt chẽ bằng các biện pháp nghiệp vụ và thông qua nhiều nguồn
tin để đánh giá tình hình khoản vay. Nắm chắc tình hình nợ và có biện pháp quản lý
chặt chẽ, kịp thời là biện pháp thu nợ hiệu quả và thể hiện sức mạnh của Ngân hàng.
Như vậy, nợ có đảm bảo tuy mức độ rủi ro ít hơn nhưng đứng về mặt hiệu quả
thì các khoản nợ không có gì đảm bảo xét về mặt nào đó sẽ có tác dụng tích cực hơn
nếu thu hồi đúng hạn cả gốc và lãi vì điều đó thể hiện uy tín, tình hình sản xuất kinh
doanh, khả năng quản lý của người vay tốt. Vốn vay đã có tác động tích cực trong
việc hỗ trợ doanh nghiệp khi gặp khó khăn tài chính tạm thời. Về phía ngân hàng,
điều đó cũng chứng tỏ ngân hàng có khả năng trong việc nhận định, đánh gía tình
hình khách hàng cũng như khả năng quản lý, giám sát hoạt động tín dụng. Do đó, cho
vay có đảm bảo là cần thiết nhưng không nên lấy đó làm mục tiêu chính của hoạt
động tín dụng .
+ Phân loại theo mức độ rủi ro của các khoản nợ:
Cách phân loại này thường được sử dụng trong phân tích chất lượng tín dụng
và tính toán dự phòng tổn thất cho vay. Theo cách này, các khoản nợ được phân chia
thành những thứ bậc khác nhau dựa trên cơ sở các mức khác nhau về khả năng thu
nợ. Dựa vào cách phân loại này, các NHTM có khả năng quản lý chặt chẽ các khoản
nợ, phát hiện sớm các khoản nợ khi đến hạn thanh toán.
1.2. Chất lượng của tín dụng ngân hàng
1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng
Thông thường, chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều được biểu
hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính cho
người cung cấp. Do đó, trong kinh doanh tín dụng, chất lượng tín dụng ngân hàng đ-

ược thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng.
Với cách định nghĩa như trên, chất lượng tín dụng ở đây sẽ được đánh giá trên 3
góc độ: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, giới hạn, mức độ tín
dụng phù hợp với khả năng thực lực của bản thân ngân hàng đồng thời đảm bảo được
tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và đồng thời có
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
lãi.
Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu tư
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh do đó chất lượng tín dụng được đánh giá theo
tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng ở mức lãi suất và kỳ hạn hợp
lý. Hơn nữa đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng
nhưng vẫn phải bảo đảm nguyên tắc tín dụng.
Đối với nền kinh tế: với sự phát triển kinh tế xã hội, chất lượng tín dụng được
đánh giá thông qua khả năng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, khai thác các
khả năng trong nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tăng tr-
ưởng tín dụng, hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
Hiểu đúng bản chất của chất lượng tín dụng, đánh giá và phân tích đúng chất lư-
ợng tín dụng hiện tại cũng như việc xác định chính xác các nguyên nhân những tồn
tại về chất lượng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp để có
thể đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2 Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM
Trong tổng thể các hoạt động ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng luôn
giữ vai trò quan trọng, chiếm tới khoảng 2/3 tổng số các tài sản có và tạo ra phần lớn
lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng yếu tố rủi ro luôn

thường trực và ở mức tỷ lệ khá cao, do đó mà tại các ngân hàng luôn dành sự chú ý
đặc biệt đến việc kiểm soát cũng như những biện pháp để chống đỡ, hạn chế rủi ro tín
dụng. Một trong những biện pháp hữu hiệu là đảm bảo và không ngừng nâng cao chất
lượng các khoản tín dụng. Đảm bảo chất lượng tín dụng đem đến lợi ích cho các
NHTM, các doanh nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung. Hoạt động tín
dụng không những tác động trực tiếp đến ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới
các nhân tố, tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Đối với ngân hàng thương mại: nâng cao chất kượng tín dụng có ý nghĩa rất
lớn đối với các ngân hàng thương mại. Đó là cả quá trình hoàn thiện sản phẩm tín
dụng, giúp ngân hàng giảm bớt chi phí mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tín dụng còn giúp ngân hàng tạo dựng được uy tín
tốt với khách hàng, từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khi
chất lượng tín dụng đã được nâng cao khi đó nguồn vốn đã được sử dụng đúng mục
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
đích, ngân hàng được đảm bảo đúng thời hạn thu hồi vốn, tạo điều kiện mở rộng tín
dụng cùng những hoạt động khác của ngân hàng. Từ đó, ngân hàng nâng cao được
thương hiệu của mình trên thị trường tài chính.
+ Đối với khách hàng: việc nâng cao chất lượng tín dụng là được ngân hàng cấp vốn
đúng theo nhu cầu về khối lượng và thời gian, tạo thuận lợi cho khách hàng mở rộng
sản xuất kinh doanh.
+ Đối với nền kinh tế: nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng, là công cụ hiệu quả tài trợ cho nền kinh tế. Không những đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế mà với việc sử dụng các loại vốn khác có chi phí
thấp hơn. Nâng cao chất lượng tín dụng còn tạo ra xu hướng cạnh tranh giữa các ngân
hàng, thúc đẩy các ngân hàng áp dụng công nghệ hiện đại, chuyên nghiệp vào hoạt
động, dần hoàn thiện mọi hoạt động của ngân hàng, từ đó hoàn thiện toàn hệ thống
ngân hàng.
Các kết quả thu được từ việc nâng cao chất lượng tín dụng kể trên sẽ góp phần

cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong suốt
quá trình cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động của khách hàng, kéo theo sự phát
triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu khách
quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của bản thân các NHTM.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường chất
lượng tín dụng là một nội dụng quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động
kinh doanh của NHTM. Tùy vào mục đích phân tích mà đưa ra nhiều chỉ tiêu khác
nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật
thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh,
chúng ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình hình chất lượng tín dụng của
ngân hàng.

*Chỉ tiêu sử dụng vốn
Huy động
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
Hệ số sử dụng vốn = 
Sử dụng
Hệ số sử dụng vốn là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng, cho phép
đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này càng
lớn thì càng chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy
động được.
* Chỉ tiêu dư nợ: Dư nợ ngắn hạn (hoặc trung - dài hạn) / Tổng dư nợ
Chỉ tiêu dư nợ là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trường
hợp dư nợ được phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung hoặc dài hạn). Chỉ tiêu này
còn cho thấy biến động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một ngân hàng
qua các thời kỳ khác nhau. Chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ mức độ phát triển
của nghiệp vụ tín dụng càng lớn, mối quan hệ của ngân hàng với khách hàng càng có

uy tín.
* Chỉ tiêu nợ quá hạn Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó đòi / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó đòi / Tổng nợ quá hạn
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một trong những chỉ số quan trọng để đo lường chất
lượng nghiệp vụ tín dụng. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng tỏ được chất
lượng tín dụng cao của mình và ngược lại chỉ số này cao độ rủi ro trong khâu tín
dụng của ngân hàng càng cao.
Thông thường, tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất là ở mức <= 5%. Tuy nhiên, chỉ tiêu
này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Bởi vì
rằng, bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt
các bước trong qui trình tín dụng, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn
thấp qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng qui định.
* Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn tín dụng (vòng quay vốn tín dụng)
Doanh số thu trong năm
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
Vòng quay vốn tín dụng trong năm = 
Doanh số nợ bình quân trong năm
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mất
lần trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân
hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
* Lãi treo: là khoản lãi tính trên nợ quá hạn mà ngân hàng chưa thu được. Vì
thế chỉ số này càng thấp càng tốt.
Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng trên, hiện nay nhiều ngân hàng đã sử
dụng thêm các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng như việc tuân thủ
các quy chế, lập hồ sơ cho vay, chế độ thể lệ tín dụng, phương án sản xuất kinh
doanh có hiệu quả,…
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng

Chất lượng tín dụng thể hiện ở cả một quá trình tính từ khi khoản tín dụng được
ngân hàng xét duyệt, giải ngân cho đến khi được thu hồi. Trong quá trình đó có rất
nhiều những tác động gây rủi ro dẫn đến việc ngân hàng không thu hồi được vốn và
có thể phải chịu thua lỗ. Để quản lý chất lượng tín dụng có hiệu quả đòi hỏi phải hiểu
rõ về các nhân tố gây ảnh hưởng.
1.2.4.1 Các yếu tố chủ quan (hay nhóm nhân tố từ phía ngân hàng)
Chính sách tín dụng: chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản cho quá
trình hoạt động tín dụng. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại
của ngân hàng. Để đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần có
những chính sách tín dụng phù hợp với đường lối phát triển kinh tế, đồng thời kết
hợp được lợi ích của khách hàng với ngân hàng.
Quy trình tín dụng: quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các bước kỹ
thuật nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ trình tự, cách làm từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một
giao dịch thuộc nhiệm vụ, chức năng của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có
liên quan. Quy trình tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng, nếu nó được tổ
chức khoa học, hợp lý sẽ cho phép bảo đảm thực hiện các khoản vay có hiệu quả.
Kiểm soát nội bộ: đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối với
mọi ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
chặt chẽ và thường xuyên sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng đúng hướng, thực hiện
đúng các yêu cầu, đúng nguyên tắc. Kiểm soát nội bộ kịp thời ngăn ngừa, hạn chế
những sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo
điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng tín dụng.
Tổ chức nhân sự: con người luôn là nhân tố hàng đầu quyết định đến sự thành bại
trong hoạt động kinh doanh nói chung và tất yếu nó cũng không loại trừ khỏi hoạt động
trong lịch vực ngân hàng. Muốn nâng cao được hiệu quả trong kinh doanh cũng như chất
lượng trong hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi
về chuyên môn, được đào tạo có hệ thống, am hiểu rộng và có kiến thức phong phú đặc

biệt trong lĩnh vực đầu tư vốn, nắm vững các bộ luật, văn bản pháp luật có liên quan đến
hoạt động tín dụng. Trong cách bố trí sử dụng, người cán bộ tín dụng cần phải được sàng
lọc kỹ càng, phải có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng kiến thức cần thiết để bắt kịp với
nhịp độ phát triển không ngừng của kinh tế thị trường. Ngoài ra, cần có tiêu chuẩn về đạo
đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu người cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm hay cố tình vi
phạm sẽ gây tổn thất không lường cho ngân hàng.
Ngân hàng phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Vai
trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng là hết
sức quan trọng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần xây dựng hệ
thống thông tin đầy đủ và linh hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tin kịp thời, chính xác
tăng cường hơn nữa khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng.
1.2.4.2 Các yếu tố khách quan (Nhóm nhân tố từ phía khách hàng)
 Uy tín, đạo đức của người vay
Trong qui trình tín dụng các ngân hàng thường đưa ra quyết định cho vay sau
khi đã phân tích các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả nợ của người vay
nhằm hạn chế thấp nhất khả năng rủi ro do chủ quan của người vay có thể gây ra.
Đạo đức người vay là một nhân tố quan trọng của qui trình thẩm định. Tính cách của
người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức chung mà còn phải được
kiểm nghiệm qua kết quả hoạt động trong quá khứ, hiện tại và chiến lược phát triển ở
tương lai. Thực tế kinh doanh đã cho thấy, tính chân thật và khả năng chi trả của
người vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Khách hàng có thể đánh
lừa ngân hàng qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn
vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không theo phương án
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
kinh doanh,…Việc khách hàng gian lận tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro cho tín dụng
ngân hàng.
Uy tín khách hàng cũng là một yếu tố mà ngân hàng cần lưu tâm. Uy tín của
khách hàng là tiêu chí để đánh giá sự sẵn sàng trả nợ và khả năng thực hiện các nghĩa

vụ cam kết trong hợp đồng của khách hàng. Uy tín của khách hàng được thể hiện
dưới nhiều khía cạnh đa dạng như: chất lượng, dịch vụ, giá cả hàng hoá, mức độ
chiếm lĩnh thị trường, các quan hệ kinh tế tài chính, sản phẩm, chu kỳ sống của sản
phẩm, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và ngân hàng. Uy tín được khẳng
định và kiểm nghiệm thông qua kết quả thực tế trên thị trường với thời gian càng dài
càng chính xác. Do vậy, ngân hàng cần phân tích các số liệu và tình hình trong suốt
quá trình phát triển của khách hàng trong những thời gian khác nhau mới có kết luận
chính xác.
 Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng
Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh nghiệm, năng lực
kinh doanh của khách hàng. Đây là tiền đề tạo ra khả năng kinh doanh có hiệu quả của
khách hàng, là cơ sở cho khách hàng thực hiện cam kết hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi
cho ngân hàng. Nếu trình độ của người quản lý còn bị hạn chế về nhiều mặt như kinh
nghiệm, học vấn,… thì doanh nghiệp có khả năng dễ bị thua lỗ, dẫn đến tình trạng trả nợ
kém, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
 Mối trường kinh tế
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế mỗi quốc gia luôn
có tác động trực tiếp đến hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị
trường. Tính ổn định về kinh tế, trước hết là ổn định về tài chính quốc gia, ổn định
tiền tệ, khống chế lạm phát là những điều mà các doanh nghiệp kinh doanh quan tâm
hàng dầu vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nền
kinh tế ổn định là điều kiện, môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận cao, từ đó góp phần tạo nên sự thành công
trong kinh doanh của ngân hàng. Trong trường hợp ngược lại, sự bất ổn tất nhiên
cũng ảnh hưởng bao trùm lên các hoạt động của ngân hàng, làm ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng, gây tổn thất cho ngân hàng
 Môi trường chính trị
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm

Môi trường chính trị đã, đang và sẽ là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong
kinh doanh, đặc biệt đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tính ổn định về
chính trị trong nước sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh thuận lợi và có hiệu quả. Nếu xẩy ra các diễn biến gây bất ổn
chính trị như: chiến tranh, xung đột đảng phái, bạo động, cấm vận, biểu tình,…không
những dẫn đến những thiệt hại cho doanh nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung (làm tê
liệt sản xuất, đình trễ lưu thông hàng hoá,…). Như vậy, dẫn đến những khoản tiền
doanh nghiệp vay ngân hàng sẽ khó được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn, ảnh hưởng
xấu đến chất lượng tín dụng ngân hàng.
 Môi trường pháp lý
Một trong những nhân tố của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng là hệ thống pháp luật.
Với một môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ, thống nhất giữa các
luật, văn bản dưới luật. Kéo theo là sự sắc nhiễu của các cơ quan hành chính có liên
quan sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp phải những khó khăn, thiếu đi tính linh hoạt cần
thiết, vốn góp vào kinh doanh dễ bị rủi ro. Do vậy, xây dựng môi trường pháp lý
thông thoáng, lành mạnh sẽ tạo thuận lợi trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp trong đó có các NHTM.
 Môi trường cạnh tranh
Có thể nói, đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng nói riêng
và hoạt động kinh doanh nói chung của NHTM. Sự tác động đó diễn ra theo hai chiều
hướng. Thứ nhất, để chiếm vị trí ưu thế trong cạnh tranh ngân hàng luôn phải luôn
củng cố và khuyếch trương uy tín, thế mạnh của ngân hàng, không ngừng quan tâm
tới đầu tư trang thiết bị tốt, tăng cường đội ngũ nhân viên có trình độ. Hướng tác
động này đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, chiều hướng thứ
hai, dưới áp lực của cạnh tranh gay gắt các ngân hàng có thể bỏ qua những điều kiện
tín dụng cần thiết làm cho độ rủi ro tăng lên và giảm chất lượng tín dụng.
 Môi trường tự nhiên
Các yếu tố rủi ro do thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hoả hoạn, động đất, dịch
bệnh, mất mùa… có thể gây ra những thiệt hại không lường trước được cho cả hệ

thống nền kinh tế dẫn đến rủi ro trong tín dụng ngân hàng là điều khó tránh khỏi.
Mặc dù những rủi ro này khó dự đoán nhưng bù lại nó lại chiếm một tỷ lệ không lớn,
mặt khác ngân hàng thường được chia sẻ thiệt hại bởi các Công ty Bảo hiểm hoặc
được Nhà nước hỗ trợ.
CHƯƠNG II:
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG TMCP BẮC Á
2.1 Tổng quan về ngân hàng TMCP Bắc Á
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Bắc Á
Ngân hàng TMCP Bắc Á, được thành lập và hoạt động theo giấy phép hoạt
động số 0052/NH-CP ngày 01 tháng 09 năm 1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, vốn góp cổ
phần do các cổ đông có uy tín. Là một trong số các ngân hàng TMCP lớn có hoạt
động kinh doanh lành mạnh của Việt Nam. Trụ sở chính của ngân hàng đặt ở thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An và là ngân hàng TMCP có doanh số hoạt động kinh doanh
lớn nhất khu vực miền Trung với thời gian hoạt động là 16 năm kể từ ngày cấp giấy
phép hoạt động.
Sau hơn 10 năm hoạt động , đến tháng 8 năm 2009, theo số liệu thông báo của
Ngân hàng Nhà nước vốn điều lệ của ngân hàng Bắc Á đã lên tới 1792 tỷ đồng.
Có mạng lưới hoạt động ở các tỉnh, thành phố kinh tế trọng điểm của cả nước
như Hà Nội, Thanh Hóa,Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ,…
Cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng như: Mở tài khoản nội tệ và ngoại
tệ, nhận tiền gửi, đầu tư cho vay và bảo lãnh, séc du lịch, thanh toán trong và ngoài
nước, chuyển tiền nhanh, tài trợ thương mại, kinh doanh ngoại hối, phát hành và
thanh toán thẻ, homebanking, ngân hàng trực tuyến...
Ngân hàng Bắc Á đã là thành viên chính thức của Hiệp hội Thanh toán Viễn thông
Liên ngân hàng toàn cầu, Hiệp hội các ngân hàng Châu Á, Hiệp hội các ngân hàng

Việt Nam và Phòng thương mại Công nghiệp Việt Nam.
Trong hơn 10 năm hoạt động, Ngân hàng TMCP Bắc Á đã vinh dự được nhận
cờ thi đua của Thủ Tướng Chính phủ, bằng khen của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về thành tích hoạt động kinh doanh và cờ thi đua của Ủy Ban Nhân dân tỉnh
Nghệ An, là một trong 10 ngân hàng được lựa chọn tham gia vào hệ thống thanh toán
tự động liên ngân hàng.
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
Ngoài các dịch vụ chính của một ngân hàng thương mại như huy động vốn,
cho vay, cung cấp các dịch vụ thanh toán, tài trợ thương mại … Ngân hàng TMCP
Bắc Á còn tham gia các hoạt động kinh doanh du lịch và khách sạn.
Các hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng: huy động vốn ngắn hạn trung
dài hạn; tiếp nhận vốn đầu tư và phát triển; vay vốn các tín dụng khác; cho vay ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn; thương phiếu, cổ phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá khác; hùn
vốn liên doanh và mua cổ phần; làm dịch vụ thanh toán; phát hành thanh toán thẻ nội
địa; thanh toán quốc tế, kinh doanh vàng bạc; kinh doanh ngoại tệ; huy động vốn
nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ với nước ngoài.
Ngân hàng có trụ sở chính tại 117 Quang Trung, thành phố Vinh tỉnh Nghệ
An. Văn phòng hội sở ở Hà Nội tại 60 Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm. Các chi nhánh
ở Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh.
2 .1.2 Mô hình cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP Bắc Á
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
Nguồn: Báo cáo thường niên ngân hàng Bắc Á
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
19
HỘI ĐỒNG TÍN DỤNG
KHỐI NGÂN HÀNG BÁN

BUỐN
KHỐI TÀI CHÍNH KẾ
TOÁN
BAN CÔNG NGHỆ & TIN
HỌC
BỘ PHẬN HÀNH CHÍNH
NHÂN SỰ
KHỐI TÁC NGHIỆP & HỖ
TRỢ
BỘ PHẬN PHÁP CHẾ KHỐI QUẢN LÝ RỦI RO
BỘ PHẬN KIỂM TOÁN
NỘI BỘ
KHỐI NGUỒN VỐN & KINH
DOANH NGOẠI TỆ
HỘI ĐỒNG ALCO
KHỐI NGÂN HÀNG BÁN
LẺ
BAN KIỂM SOÁT
CHI NHÁNH & PHÒNG
GIAO DỊCH
BỘ PHẬN PR &
MARKETING
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
2.1.3 Chức năng và nhiệm vụ
Mục đích hoạt động của Bắc Á là cung cấp cho khách hàng và thị trường các
sản phẩm, giải pháp và dịch vụ tối ưu nhằm đem lại giá trị gia tăng tối đa cho khách
hàng, lợi nhuận thỏa đáng cho cổ đông và đóng góp phần lớn vào công cuộc phát

triển nền kinh tế nước nhà.
Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban cụ thể:
Đại hội cổ đông: là cơ quan có nhiệm vụ và quyền hạn cao nhất trong cơ cấu
tổ chức của ngân hàng TMCP Bắc Á. Đại hội cổ đông bầu ra ban kiểm soát để giám
sát các hoạt động của hội đồng quản trị và ban tổng giám đốc
Hội đồng quản trị: Bao gồm những cổ đông lớn, nắm giữ một tỷ lệ cổ phần
nhất định. Hội đồng quản trị sẽ ra những quyết định lớn, và giám sát hoạt động của
ban giám đốc điều hành.
Ban tổng giám đốc: Chịu sự điều hành của hội đồng quản trị, có chức năng và
nhiệm vụ điều hành những hoạt động của ngân hàng và quản lý rủi ro tiền tệ thanh
khoản, nguồn vốn và chiến lược hợp tác sản xuất, Marketing.
Hội đồng tín dụng: Cơ quan xét duyệt và quyết định các vấn đề cho vay, miễn
giảm tại địa bàn, bảo lãnh mở L/C trong và ngoài nước gia hạn. Xem xét kiến nghị
tổng giám đốc, Hội đồng quản trị thay đổi các chính sách tín dụng.
Bộ phận kiểm toán nội bộ: Làm nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán mọi hoạt động
của chi nhánh về thực hiện các quy định, quy chế của Nhà nước.
Khối quản lý rủi ro: Tham mưu cho giám đốc về công tác quản lý rủi ro của
ngân hàng, quản lý giám sát rủi ro, đảm bảo giới hạn tín dụng, thực hiện danh mục
cho vay đầu tư, phản ánh đề nghị cấp tín dụng, thực hiện đúng chức năng đánh giá
quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng. Chịu trách nhiệm quản lý và xử
lý các vấn đề, quản lý khai thác và xử lý tài sản, khai thác và xử lý tài sản, đảm bảo
nợ vay theo quyết định của ngân hàng nhằm thu hồi khoản nợ gốc và lãi tiền vay.
Quản lý theo dõi thu hồi các khoản nợ đã có được xử lý rủi ro.
Khối tài chính kế toán: Có chức năng xử lý nhiệm vụ chuyển tiền, quản lý tài
khoản khách hàng là các tổ chức, các doanh nghiệp quản lý chi tiêu nội bộ
Bộ phận hành chính – nhân sự: Có chức năng theo dõi công tác nhân sự, và
công tác hành chính quản trị của chi nhánh theo chỉ đạo của Ban tổng giám đốc.
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm

Ban công nghệ & tin học: Đưa ra một số phần mềm, quản lý kinh doanh chặt
chẽ đảm bảo cập nhật thông tin chính xác.
Bộ phận PR & Marketing: Nghiên cứu phân loại thị trường, phân loại khách
hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng về nguồn vốn và thị trường tín dụng. Nghiên cứu
thị trường để đưa ra các sản phầm dịch vụ ngân hàng.
Chi nhánh và phòng giao dịch: huy động tiết kiệm đồng Việt Nam và ngoại tệ,
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu đồng Việt Nam và ngoại tệ, dịch vụ thu đổi ngoại tệ và
trả tiền kiều hối, dịch vụ phát hành thẻ, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, nhận gửi và
thành toán séc nhờ thu các nhân, quản lý các tài khoản tiền gửi của cá nhân đồng Việt
Nam và ngoại tệ, cho vay thế chấp, cầm cố tài sản.
2.1.4 Một số hoạt động của ngân hàng TMCP Bắc Á
2.1.4.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng Bắc Á huy động vốn từ nhiều nguồn, và đã có sự thay đổi rõ rệt và
cả chất lượng và số lượng. Tỷ trọng nguồn vốn huy động trên thị trường liên ngân
hàng giảm mạnh trong khi nguồn vốn huy động từ dân cư và các doanh nghiệp tăng
lên và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Nguồn vốn được huy động từ các tổ chức tín dụng khác, tuy nhiên ngân hàng
đang có những chủ trương giảm số dư và tỷ trọng huy động từ thị trường liên ngân
hàng để góp phần bảo đảm nền tảng ổn định, giảm sự phu thuộc vào thị trường dễ
biến động, tránh đe dọa khả năng thanh toán khi thị trường diễn biến phức tạp.
Ngân hàng chú trọng vào hoạt động thu hút nguồn vốn từ dân cư và các
doanh nhiệp, đặc biệt từ các định chế tài chính như công ty chứng khoán, công ty bảo
hiểm, công ty tài chính…
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Ngân hàng trong những năm gần đây:
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Năm

Chỉ tiêu
2007 2008 2009
Số
tiền
Số
tiền
%Tăng
(Giảm)
Số
tiền
%Tăng
(Giảm)
1 Tiền gửi từ các tổ chức tíndụng 8588 2676 -68,84 5313 99,25
2 Tiền gửi khách hang 2255 3663 62,44 6712 83,24
a. Tiền gửi từ doanh nghiệp 602 538 -10,63 1038 92,94
b. Tiền gửi từ cá nhân 1653 3125 89,05 5674 81,57
3 Vốn tài trợ, ủy thác 29 21 -27,59 41 91,57
4 Các khoản huy động khác 230 169 -26,52 209 23,66
5 Tồng nguồn vốn 11102 6529 -41,2 12275 88,01
Nguồn: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng năm 2008, 2009
Từ bảng số liệu ta có biểu đồ về tình hình huy động vốn của ngân hàng TMCP
Bắc Á trong những năm gần đây như sau:
Biểu 2.1 Tình hình huy động vốn của ngân hàng TMCP Bắc Á
Đơn vị : tỷ đồng
0
2000
4000
6000
8000
10000

Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Tiền gửi từ các tổ chức
tín dụng
Tiền gửi khách hàng
Vốn tài trợ, ủy thác
Các khoản huy động
khác
Qua bảng tình hình huy động vốn của ngân hàng và biểu đồ biểu thị tình hình
huy động vốn, ta thấy có sự thay đổi rõ nét về nguồn vốn huy động qua các năm.
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phan Thị Nhiệm
Năm 2007, được coi là năm ngân hàng Bắc Á khẳng định vị thế của mình trên thị
trường tài chính với tổng số tiền huy động được trong năm lên tới 11102 tỷ đồng,
tăng lên 91,38% so với năm 2006. Là nguồn vốn huy động lớn nhất từ trước tới nay.
Tất cả các loại tiền gửi trong năm đều tăng lên, vượt mức 50% so với năm 2006.
Trong đó, số vốn huy động liên ngân hàng lên tới 8588 tỷ đồng. Qui mô Ngân hàng
ngày càng mở rộng và vị thế ngày càng được khẳng định.
Với sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu kéo theo sự đi xuống của ngành
ngân hàng, ngân hàng Bắc Á không nằm ngoài xu hướng đó. Tổng nguồn vốn huy
động được của ngân hàng năm 2008 đạt 6.529 tỷ đồng, giảm 4.573 tỷ đồng so với
năm 2007, tương đương giảm 41,2%. Nguồn vốn huy động của ngân hàng đã có sự
thay đổi rõ rệt cả về chất lượng và số lượng. Huy động từ các tổ chức tín dụng khác
đạt 2.676 tỷ đồng, giảm 68,84% so với đầu năm. Với chủ trương giảm số dư và tỷ
trọng từ thị trường liên ngân hàng được ngân hàng quán triệt đầu năm. Việc giảm số
dư và tỷ trọng phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng góp phần đảm bảo nền tảng
ổn định, giảm sự phụ thuộc vào thị trường biến động đồng thời tránh sự đe dọa khả
năng thanh khoản khi thị trường diễn biến phức tạp. Trong khi đó nguồn vốn huy
động từ dân cư và doanh nghiệp đạt được sự tăng trưởng đáng kể. Tổng nguồn vốn
huy động từ thị trường này đạt 3.663 tỷ đồng, tăng 1.498 tỷ đồng, tương đương tăng

62,44% so với đầu năm. Trong đó tiền gửi tiết kiệm đạt 3.125 tỷ đồng, tăng 89,05%
so với đầu năm. Huy động từ các doanh nghiệp tăng mạnh lên đến 538 tỷ đồng sau
khi ngân hàng chú trọng vào hoạt động thu hút nguồn vốn của các doanh nghiệp, đặc
biệt các định chế tài chính như công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài
chính…
Năm 2009, nền kinh tế đang dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, ngành
ngân hàng đi lên. Tổng nguồn huy động vốn của ngân hàng Bắc Á tăng lên rõ rệt so
với năm 2008, đạt 12275 tỷ đồng, tăng 88% so với năm 2008. Nguồn vốn huy động
tăng mạnh nhất.
Trong năm 2009, ngân hàng Bắc Á cũng đã triển khai thành công hai chương
trình khuyến mại lớn là chương trình “Tri ân khách hàng mừng sinh nhật Bắc Á” và
chương trình “Căn hộ hạnh phúc”. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng đã triển khai
chương trình “Chăm sóc khách hàng VIP” với việc tặng thẻ khám bệnh miễn phí tại
bệnh viện FV Sài Gòn và bệnh viện Việt Pháp Hà Nội cho các khách hàng có số dư
tiền lớn. Các chương trình khuyến mại đã được thực hiện thành công với kết quả là
SV: Vũ Thị Dung Lớp: Kinh tế Phát triển 48B
23

×