Tải bản đầy đủ (.pptx) (34 trang)

Tiểu luận - đường lối cách mạng - đề tài - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 34 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>A. Mở đầu</b>

<small>Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai cấp cơng nhân lãnh đạo giành được thắng lợi, góp phần cùng </small>

<small>Đồng Minh dân chủ quốc tế đánh bại chủ nghĩa phát-xít, kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, đem lại hịa bình cho tồn thể nhân loại. Cách mạng Tháng Tám cịn góp phần tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Cách mạng tháng Tám diễn ra và thắng lợi hết

sức nhanh chóng. Nó nhanh chóng đến mức nhiều

<b>người phải kinh ngạc! Nhà sử học Pháp Devillers </b>

<i><b>có nói: Cách mạng thành cơng “Nhanh chóng </b></i>

<i><b>đến mức làm cho người ta sững sờ” hay Stein </b></i>

<i><b>Tonnesson cũng đã viết “Cuộc cách mạng đã </b></i>

<i><b>thành công dễ dàng đến thế” và nhiều nhà sử </b></i>

<i><b>học cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự </b></i>

<i><b>ăn may”. Đây là một quan điểm sai lầm, thiện </b></i>

cận mà chúng ta cần phải làm sáng tỏ bằng chính thực tiễn sinh động của cách mạng tháng Tám

năm 1945

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>B. Nội dung</b>

<i><b><small> Sở dĩ các sử gia tư sản cho rằng “Cách mạng tháng Tám là </small></b></i>

<i><b><small>một sự ăn may” vì họ chỉ nhìn nhận một cách thiển cận, họ </small></b></i>

<small>chưa nhận thức được tính tất yếu trong mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc của Cách mạng tháng Tám, họ chỉ thấy rằng từ sau cuộc đảo chính của Nhật ở Đơng Dương </small>

<small>(9/3/1945) thì Đơng Dương nói chung và Việt Nam nói riêng khơng cịn là thuộc địa của Pháp mà là thuộc địa của Nhật, mà phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai đã bị quân </small>

<small>Đồng Minh đánh cho tơi tả, phải chịu thất bại thảm hại và phải tuyên bố đầu hàng. Như vậy ở Đông Dương xuất hiện </small>

<i><b><small>“khoảng trống quyền lực” ( Pháp đã bị Nhật đánh bại, Nhật </small></b></i>

<small>bị Đồng Minh đánh bại ), cho nên cách mạng tháng Tám chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi. Chính vì cách nhìn nhận như vậy </small>

<i><b><small>mà người ta cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự ăn </small></b></i>

<i><b><small>may”. Nhưng thực ra cách mạng tháng Tám ở Việt Nam </small></b></i>

<small>khơng hồn tồn giống như những gì họ nhìn nhận.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến Cách mạng

Tháng Tám thành công là do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đứng trên lập trường giai cấp công nhân, vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn

cảnh Việt Nam, nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc và dũng khí đấu

tranh anh hùng, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Nói cách khác, là do Đảng ta đã biết kết hợp hài hịa và nhuần nhuyễn tính giai cấp với tính dân tộc của cuộc cách mạng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Một sự thật hiển nhiên mà nhiều nhà khoa học đã chứng minh là, trong hơn 80 năm đấu tranh chống thực dân Pháp, hàng chục cuộc đấu tranh vũ trang oanh liệt của nhân dân Việt Nam nổ ra nhưng vẫn

chưa giành được thắng lợi. Nguyên nhân chủ yếu là do các cuộc đấu tranh đó chưa có một giai cấp tiền phong lãnh đạo, chưa có lý luận cách mạng soi đường, cũng như chưa có đường lối chiến lược, sách lược đúng

đắn, đủ sức giành thắng lợi trước những kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát-xít. Nhưng, cịn một sự thật lịch sử nữa phải được làm rõ là, muốn đưa

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác nhận, để đi đến thành công của Cách mạng Tháng Tám, Đảng phải trải qua ba cuộc vận động cách mạng khó khăn, gian khổ. Đó là:

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

1 - Cuộc vận động những năm 1930 - 1935 mà đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), tiếp theo là giai đoạn khủng bố trắng và thoái trào cách mạng (1932 - 1935).

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

2 - Cuộc vận động những năm (1936 - 1939), với cao trào Mặt trận Dân chủ năm 1938, Đảng lại phải vượt qua tổn thất do cuộc khủng bố của địch gây ra để đi tiếp chặng đường mới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

3 - Cuộc vận động những năm 1939 - 1945, Đảng đã sáng suốt phát triển cả lực lượng chính trị lẫn lực

lượng vũ trang, dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ động nắm bắt thời cơ mới để tiến hành Tổng khởi

nghĩa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Chính nhờ trải qua ba cuộc vận động đó, Đảng từng bước hồn thiện đường lối chiến lược và

sách lược. Điều đó biểu hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>1. Từ chỗ tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, đến chỗ xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc. </b>

<small>Đây là cả một chặng đường chuyển biến nhận thức, đổi mới tư duy không đơn giản. Luận cương chính trị của Đảng tháng 10-1930 nêu rõ: "Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa" . Phong trào đấu tranh của quần chúng năm 1930 - 1931 cũng nổi lên với khẩu hiệu "Đả thực, bài phong", không chỉ chống đế quốc xâm lược mà cịn đả đảo cả "Trí, phú, địa, hào". </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>Chuyển sang thời kỳ những năm 1936 - 1939, trước nguy cơ phát-xít, Đảng thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm kết hợp đấu tranh dân tộc với đấu tranh dân chủ để chống </small>

<small>phát-xít. Điều đó bước đầu tạo nên sức mạnh đồn kết tồn dân, biểu hiện ở cuộc mít tinh đồ sộ với hơn hai vạn người tham dự ở nhà Đấu xảo Hà Nội, ngày 1-5-1938. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<small>Đến giữa năm 1939, cuộc chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, các nước đế quốc xâu xé lẫn nhau, thời cơ giải phóng dân tộc sẽ đến, Đảng thành lập Mặt trận Dân tộc thống </small>

<small>nhất phản đế Đông Dương, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm thời hạ thấp khẩu hiệu phản phong. Tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Đảng ta chỉ rõ: </small>

<small>"Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Khơng giải quyết được cách mệnh điền địa thì khơng giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì khơng giải quyết được cách mệnh điền địa... Hiện nay tình hình có đổi mới, đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát-xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông </small>

<small>trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách

mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết" . Nhờ vậy, chỉ trong thời gian ngắn, một làn sóng cách mạng phản đế đã dấy lên, tiêu biểu là ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô

Lương, làm rung động bộ máy thực dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<small>Tháng 6-1941, Liên Xô tuyên chiến với Đức. Sau đó, Đồng Minh quốc tế chống phát-xít gồm Liên Xơ, Trung Quốc, Anh, Mỹ ra đời. Ở Việt Nam, thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần. Đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (họp ở Pắc Bó, Cao Bằng). Tại Hội </small>

<small>nghị này, Đảng đã hoàn thiện thêm một bước nữa việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thay khẩu hiệu "Phản đế" (của Hội nghị Trung ương 6) hay "Phản đế cứu quốc" (của Hội nghị Trung ương 7) bằng khẩu hiệu "Cứu quốc". </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: "Chính sách của Đảng ta hiện nay là chính sách cứu quốc, cho nên mục

đích của các hội quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu... Công hội từ nay lấy tên là Công nhân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy những người

thợ Việt Nam muốn tranh đấu đánh Pháp - Nhật, lại có thể thu nạp hết cả những hạng cai ký, đốc công trong xưởng mà những công hội trước kia không hề tổ chức. Nông hội từ nay gọi là Việt Nam Nông

dân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp - Nhật" . Đồng thời, Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương chuyển thành ba mặt trận "cứu quốc" của ba dân tộc Việt, Miên, Lào.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Ở Việt Nam, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (tức Mặt trận cứu quốc, gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Các đoàn thể cứu quốc phát triển rộng khắp cả ba kỳ. Ngồi Cơng nhân cứu quốc, Nơng dân cứu quốc, cịn có Qn nhân (hay binh sỹ, du kích) cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thanh niên cứu quốc... Như vậy, chiến lược cách mạng ngày càng được hồn thiện và ln đi đơi với những sách lược cách mạng mềm dẻo, thêm bạn bớt thù (như thu hút cả cai ký, đốc công, phú nông, địa chủ chống Pháp - Nhật vào Mặt trận cứu quốc).

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<small>Chiến lược, sách lược đó phù hợp với yêu cầu cách mạng và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, được cụ thể hố trong Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Qua nhiều con đường bí mật và bán cơng khai, Chương trình thâm nhập vào đại chúng, tạo nên Cao trào tiền khởi nghĩa rộng lớn, rồi dẫn đến Tổng khởi nghĩa thành cơng (chứ khơng phải đó chỉ là phong trào "tự phát" của quần chúng như có người đã nói). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>2.Thực thi quyền dân tộc tự quyết của ba nước Đông Dương </b>

<small>Quyền dân tộc tự quyết là vấn đề quan trọng trong chiến lược cách mạng và trong quan hệ quốc tế. Từ lâu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức rõ vấn đề quyền dân tộc tự quyết. Bởi vậy, trong </small>

<small>Chương trình tóm tắt của Đảng năm 1930, Người đã nhân danh Đảng Cộng sản Việt Nam công bố vấn đề này. Nhưng quyết định đó khơng sớm được chấp nhận. Từ Luận cương chính trị, tháng 10-1930 cho đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, tháng 11-1940, Đảng vẫn khẳng định chỉ có một Đảng Cộng sản Đơng Dương lãnh đạo cách mạng của cả ba nước Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao. Đến Hội nghị Trung ương 8, tháng 5-1941, do Người chỉ đạo, Đảng </small>

<small>mới quyết định thành lập ba đảng với ba mặt trận của ba nước như trên đã nói. Nghị quyết Hội nghị khẳng định: "chiến thuật hiện tại của Đảng ta là phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay </small>

<small>trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)... vậy mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện nay ở Việt Nam là Việt Nam độc lập đồng minh, hay nói tắt là Việt Minh </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Đảng ta và Việt Minh phải hết sức giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đơng Dương độc lập đồng minh". Kèm

theo đó là các sách lược mềm dẻo của ba Đảng nhằm tranh thủ được nhiều nhân vật thuộc

hoàng gia và thân sỹ yêu nước vào Mặt trận cứu quốc, góp thêm sức mạnh cho cách mạng. Với tinh thần dân tộc tự quyết, sự phát triển song

song của cách mạng ba nước Đông Dương từ đó trở đi ngày càng thu được những thành tựu to

lớn. Điều đó chứng tỏ, quyết sách chiến lược nói trên là đúng đắn và sáng suốt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<b><small>3.Bố trí thế trận cách mạng và sắp xếp lực lượng cách mạng phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử </small></b>

Khi tình thế cách mạng có sự chuyển biến mau lẹ, đối tượng cách mạng ln thay đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách

xuất sắc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nhận thức xã hội Việt Nam để đề ra các quyết sách chiến lược đúng đắn. Đó là nhận thức rõ các mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu trong xã hội, xác định rõ kẻ thù chính, kẻ thù phụ và hậu bị quân của chúng để sắp xếp Tiền phong quân, Hậu bị quân trực tiếp, Hậu bị

quân gián tiếp của cách mạng Việt Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>Cụ thể, lúc đầu mũi nhọn của cách mạng chĩa vào thực dân </small>

<small>xâm lược Pháp và tay sai phong kiến. Khi Nhật vào Việt Nam, Pháp làm tay sai cho Nhật, kẻ thù chủ yếu của cách mạng là Pháp - Nhật. Từ năm 1943 trở đi, Nhật ngày càng lấn chân Pháp ở Việt Nam, kẻ thù chủ yếu của cách mạng được xác định lại là Nhật - Pháp. Từ ngày 9-3-1945 (ngày Pháp đầu hàng Nhật) trở đi, kẻ thù chủ yếu của cách mạng chỉ cịn là phát-xít Nhật và tay sai. Điều này có tầm quan trọng rất lớn trong việc bố trí thế trận cách mạng và lực lượng cách mạng. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Từ năm 1943, bên cạnh Mặt trận Việt Minh là lực

lượng nòng cốt, Đảng cịn thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát-xít và tuyên bố gia nhập Đồng Minh quốc tế chống phát-xít. Với sách lược này, ở trong nước có thể thu hút được các lực lượng dân chủ chống phát-xít, kể cả Pháp kiều, Hoa kiều; ở ngồi nước có thể coi

Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc đều là bạn đồng minh. Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp từ ngày 25 đến ngày 28-2-1943 khẳng định: "Từ Xô - Đức chiến tranh bùng nổ (22-6-1941), cuộc thế giới chiến tranh lần thứ hai này đã tiến lên giai đoạn mới và đã thay đổi tính chất. Nó khơng còn là đế quốc chủ nghĩa

chiến tranh nữa, mà là chiến tranh phát-xít xâm lược và chống phát-xít xâm lược"

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Vì vậy, "Muốn cho Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát-xít Nhật - Pháp có thêm vây cánh, chúng ta phải ra sức tìm kiếm các phái đảng chống phát-xít của

người ngoại quốc ở Đông Dương và đề nghị với Việt Minh liên minh với họ theo tinh thần bình đẳng và

tương trợ đặng chính thức thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương". Sách lược này tạo nên thế chính nghĩa cho Việt Minh trong sự nghiệp kháng Nhật, cứu nước. Pháp (Đờ Gôn) và Tàu (Tưởng Giới Thạch) - thuộc hàng ngũ Đồng minh chống phát-xít, dù có ý đồ tái xâm lược Việt Nam cũng khơng thể phủ nhận được chân lý hiển nhiên này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<b><small>4. Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang", tiến từ </small></b>

<b><small>khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa. </small></b>

Trong thế trận lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu địch mạnh, cách mạng Việt Nam vừa phát huy truyền thống vũ trang anh hùng, bất khuất của ơng cha, vừa vận dụng hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng. Hình thức này đã nảy sinh từ cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh

(1930 - 1931) và phong trào Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939). Đến cuộc vận động cách mạng những năm

1939 - 1945, hình thức đấu tranh chính trị được vận dụng một cách phổ biến trong đại chúng. Ngồi cơng, nơng, cịn vận động được cả tiểu thương, tiểu chủ, cai ký, đốc cơng... cùng tham gia chống độc tài, phát-xít.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<small>Năm 1945, phát-xít Nhật - Pháp tăng cường vơ vét lương thực cho chiến tranh, gây nên thảm họa 2 triệu người Việt Nam </small>

<small>chết đói, Đảng đã phát động một cao trào đấu tranh kết hợp chính trị với vũ trang: mít tinh, biểu tình địi quyền sống, đi đơi với vũ trang phá kho thóc cứu đói, lập các căn cứ địa và các chiến khu cách mạng, tiến hành khởi nghĩa từng phần, thành lập chính quyền cách mạng địa phương, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong tồn quốc. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<b><small>5. Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ít phải đổ máu </small></b>

Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành công, ít phải đổ máu là do các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã đứng vững trên thế chủ động chiến

lược. Đến nay, nhiều người mới rõ, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đốn: năm 1945, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam sẽ thành cơng. Chương trình cứu nước của Việt

Minh ra đời từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 1941), đã đến tay những chiến sỹ cách mạng ở các địa phương, kể cả sự truyền miệng qua các lao tù.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<small>5-Khi thời cơ đến, khắp nơi đều chủ động đứng lên giành chính quyền địa phương, như các chiến sỹ Ba Tơ đã nổi lên phá </small>

<small>ngục tù, lập căn cứ địa cách mạng ngay sau ngày Nhật đảo </small>

<small>chính Pháp (9-3-1945). Trong Cao trào tiền khởi nghĩa, nhiều xã, huyện và một số tỉnh đã giành được chính quyền trước </small>

<small>ngày giành chính quyền ở Hà Nội. Phương châm chiến lược kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nắm đúng thời cơ để nổi dậy đã góp phần quyết định vào việc giành được chính quyền ít phải đổ máu. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<small>Đây là cả một cuộc đấu trí, đấu dũng của cách mạng Việt Nam với bọn đế quốc, phát-xít. Nếu cuộc khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, sẽ bị bọn phát-xít Nhật dập tắt; nếu nổ ra muộn hơn - khi quân Đồng Minh, trong đó có Anh, Pháp và Tàu (Tưởng Giới </small>

<small>Thạch) vào, thì cũng gặp khó khăn. Việc Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam nhân danh là người đứng về phía Đồng Minh chống phát-xít giành được quyền độc lập, đã nói lên tài vận dụng chiến lược của cách mạng Việt Nam: nắm đúng thời cơ, nổi dậy kịp thời, giành được chính quyền. </small>

</div>

×