Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.08 MB, 22 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Họ và tên: Nguyễn Thị Phương Linh Lớp: 11H
Trường: THPT Cẩm Giàng
<b> </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">I, Khái niệm……….
1, Tri thức………
2, Nền kinh tế tri thức………..
II, Đặc điểm của nền kinh tế tri thức………...
III, Biểu hiện của nền kinh tế tri thức……….
IV, Nền kinh tế tri thức Việt Nam………
V, Nền kinh tế tri thức Thế Giới………..
VI, Sự thích ứng trong chuyển đổi số……….
VII, Trí tuệ nhân tạo AI………...
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>I, Khái niệm1, Tri thức</b>
<b> Tri thức bao gồm những kiến thức, thông tin, sự hiểu biết, hay kỹ năng có </b>
được nhờ trải nghiệm,thông qua giáo dục hay tự học hỏi. Trong tiếng Việt, cả "tri" lẫn "thức" đều có nghĩa là biết.<small>]</small> Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một đối tượng, về mặt lý thuyết hay thực hành. Nó có thể ẩn tàng, chẳng hạn những kỹ năng hay năng lực thực hành, hay tường minh, như những hiểu biết lý thuyết về một đối tượng; nó có thể ít nhiều mang tính hình thức hay có tính hệ thống. Mặc dù có nhiều lý thuyết về tri thức, nhưng hiện khơng có một định nghĩa nào về tri thức được tất cả mọi người chấp nhận.
<b>2, Nền kinh tế tri thức </b>
Nền kinh tế tri thức (hay nền kinh tế dựa trên tri thức) là hệ thống kinh tế trong đó sản xuất hàng hóa và dịch vụ chủ yếu dựa trên các hoạt động sử dụng tri thức nhằm góp phần thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật và khoa học. Yếu tố quan trọng của giá trị là sự phụ thuộc nhiều hơn vào vốn con người và tài sản trí tuệ đối với nguồn cung cấp các ý tưởng, thông tin và thực tiễn đổi mới. Các tổ chức được yêu cầu phải tận dụng “kiến thức” này vào sản xuất của mình để kích thích và làm sâu sắc thêm quá trình phát triển kinh doanh. Ít phụ thuộc hơn vào đầu vào vật chất và tài nguyên thiên nhiên. Nền kinh tế dựa trên tri thức dựa vào vai trò quan trọng củatài sản vơ hình trong mơi trường của các tổ chức trong việc tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện đại.
Trong nền kinh tế tri thức, các cơng việc địi hỏi tay nghề cao đòi hỏi kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng quan hệ xuất sắc như giải quyết vấn đề, khả năng linh hoạt giao tiếp với nhiều lĩnh vực chuyên ngành cũng như khả năng thích ứng với những thay đổi trái ngược với việc di chuyển hoặc chế tạo các vật thể vật chất trong sản xuất thông thường- các nền kinh tế dựa trên. Nền kinh tế tri thức trái ngược với nền kinh tế nông nghiệp, trong đó hoạt động kinh tế chủ yếu là canh tác tự cung tự cấp, trong đó u cầu chính là lao động chân tay hoặc nền kinh tế công nghiệp hóa có sản xuất hàng loạt, trong đó phần lớn lao động tương đối phổ thông.Nền kinh tế tri thức nhấn mạnh tầm quan trọng của kỹ năng trong nền kinh tế dịch vụ, giai đoạn thứ ba của q trình phát triển kinh tế, cịn được gọi là nền kinh tế hậu cơng nghiệp. Nó liên quan đến nền kinh tế thơng tin, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin như vốn phi vật chất và nền kinh tế kỹ thuật số, nhấn mạnh mức độ mà công nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại. Đối với các công ty, tài sản trí tuệ như bí mật thương mại, tài liệu có bản quyền và các quy trình được cấp bằng sáng chế trở nên có giá trị hơn trong nền kinh tế tri thức so với các thời đại trước đây.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>II, Đặc điểm của nền kinh tế tri thức</b>
<b> + Nền kinh tế dựa trên tri thức và vốn con người: Một hệ thống kinh tế không </b>
dựa trên tri thức được coi là không thể tưởng tượng được. Nó mơ tả q trình tiêu dùng và các hoạt động sản xuất được thoả mãn từ việc áp dụng chuyên môn của người lao động – vốn tri thức và thường thể hiện mức độ đáng kể của các hoạt động kinh tế cá thể trong các nền kinh tế phát triển hiện đại thông qua việc xây dựng một nền kinh tế toàn cầu tiên tiến và kết nối với nhau, nơi các nguồn tri thức là những người đóng góp quan trọng.
Khái niệm hiện tại cho “kiến thức” có nguồn gốc từ các nghiên cứu lịch sử vàtriết học của Gilbert Ryle và Israel Scheffler, những người đã tiến hành kiến thức đến các thuật ngữ “kiến thức thủ tục” và “kiến thức khái niệm” và xác định hai loạikỹ năng: “năng lực hoặc cơ sở thường xuyên” và “kỹ năng quan trọng” đó là hiệu suất thơng minh; và nó được xây dựng thêm bởi Lundvall và Johnson, người đã định nghĩa “kiến thức” về mặt kinh tế làm nổi bật bốn phạm trù lớn:
+ Lực lượng lao động có trình độ và kỹ năng: Sự hình thành của nền kinh tế trithức mạnh mẽ đòi hỏi người lao động phải có khả năng liên tục học hỏi và áp dụngcác kỹ năng của họ để xây dựng và thực hành kiến thức một cách hiệu quả. + Cơ sở hạ tầng thông tin dày đặc và hiện đại: là khả năng tiếp cận dễ dàng vớicác nguồn lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) nhằm vượt qua rào cản về chi phí giao dịch cao và tạo điều kiện hiệu quả trong việc tương tác, phổ biến vàxử lý các nguồn thông tin và tri thức.
+ Hệ thống đổi mới hiệu quả: mức độ đổi mới lớn trong các công ty, ngành vàquốc gia để theo kịp với cơng nghệ tồn cầu mới nhất và trí tuệ con người để sử dụng nó cho nền kinh tế trong nước.
+ Chế độ thể chế hỗ trợ khuyến khích tinh thần kinh doanh và sử dụng tri thức: Một hệ thống nền kinh tế cần cung cấp các biện pháp khuyến khích để cho phép huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích tinh thần kinh doanh.
+ Sự tiến bộ của nền kinh tế dựa trên tri thức xảy ra khi các nền kinh tế toàn cầu thúc đẩy những thay đổi trong sản xuất vật chất, cùng với sự ra đời của các cơ chế lý thuyết kinh tế phong phú sau chiến tranh thế giới thứ hai có xu hướng tích hợp khoa học, công nghệ và kinh tế.
+ Tri thức là nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp chính vào sự phát triển của xã hội.
+ Lao động tri thức chiếm tỉ trọng cao trong sản xuất.
+ Dịch vụ với các ngành cần nhiều tri thức là chủ yếu trong cơ cấu kinh tế. + Công nghệ thơng tin và truyền thơng có tính chất quyết định.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">+ Công nghệ cao, các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 là động lực chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội.
+ Giáo dục đóng vai trị quan trọng.
+ Quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng.
+ Là một nền kinh tế hướng đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi trường.
Peter Drucker đã thảo luận về nền kinh tế tri thức trong cuốn sách – Người điều hành hiệu quả năm 1966, nơi ông mô tả sự khác biệt giữa người lao động chântay và người lao động tri thức. Người lao động chân tay là người lao động bằng chính đơi tay của họ và sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Ngược lại, nhân viên tri thức làm việc bằng đầu chứ không phải bằng tay và tạo ra ý tưởng, kiến thức cũng như thông tin.
Các định nghĩa xung quanh “tri thức” được coi là mơ hồ trong điều kiện chính thức hóa và mơ hình hóa nền kinh tế tri thức, vì nó là một khái niệm tương đối. Ví dụ, khơng có đủ bằng chứng và cân nhắc về việc liệu “xã hội thơng tin” có thể phục vụ hoặc hoạt động như một “xã hội tri thức” thay thế cho nhau hay khơng. Thơng tin nói chung, khơng tương đương với kiến thức. Việc sử dụng chúng phụ thuộc vào sở thích cá nhân và nhóm “phụ thuộc vào nền kinh tế”. Thông tin và kiến thức cùng là nguồn lực sản xuất có thể tồn tại mà khơng cần tương tác với các nguồn khác. Các tài nguyên có tính độc lập cao với nhau theo nghĩa là nếu chúng kết nối với các nguồn lực có thể sử dụng được, chúng chuyển thành các yếu tố sản xuất ngay lập tức; và các yếu tố sản xuất hiện diện chỉ để tương tác với các yếu tố khác. Khi đó, tri thức gắn liền với thơng tin trí tuệ được cho là một yếu tố sản xuất trong nền kinh tế mới được phân biệt với các yếu tố sản xuất truyền thống.
<b>III, Biểu hiện của nền kinh tế tri thức</b>
Nền kinh tế tri thức là một loại nền kinh tế dựa trên việc sử dụng, tạo ra và phân phối tri thức như là nguồn lực quan trọng nhất để tăng trưởng kinh tế và cạnh tranh. Nền kinh tế tri thức có những biểu hiện cơ bản như sau:
+ Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn và là yếu tố quyết định của sự phát triển. Tri thức được tích lũy, chuyển giao và ứng dụng vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý.
+ Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng của các ngành côngnghiệp truyền thống, tăng tỷ trọng của các ngành công nghệ cao, dịch vụ và nông nghiệp công nghệ cao. Các ngành này đòi hỏi một lượng lớn lao động có trình độ cao, có khả năng sáng tạo và đổi mới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">+ Đẩy nhanh tốc độ sáng tạo công nghệ mới, đặc biệt là các công nghệ số, thông minh và xanh. Các công nghệ này giúp nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn và hiệu quả của sản phẩm và dịch vụ, giảm thiểu rủi ro và chi phí, bảo vệ mơi trường và sức khỏe con người.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau của xãhội, như giáo dục, y tế, văn hóa, chính trị... Cơng nghệ thông tin giúp cải thiện khả năng tiếp cận, trao đổi và chia sẻ thông tin và tri thức, tăng cường giao tiếp và hợp tác giữa các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
+ Xây dựng một xã hội học tập, trong đó mọi người được khuyến khích học suốt đời để nâng cao kiến thức, kỹ năng và ý thức của mình. Xã hội học tập cũng làmột mơi trường thuận lợi để phát triển các hoạt động khoa học nghiên cứu, phát minh sáng chế và ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn.
+ Thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa, trong đó người dân được tham gia vào các quyết định liên quan đến cuộc sống của mình. Dân chủ hóa cũng giúp tạo ra sự minh bạch, cơng bằng và trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan nhà nước vàdoanh nghiệp.
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ áp dụng nguyên liệu và năng lượng tự nhiên nên tạo ra những sản phẩm sạch và không gây ô nhiễm mơi trường. Từ đó tạo tiền đề phát triển bền vững.
+ Sản xuất sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng, ln ln có sự cân bằng giữa cung và cầu, hạn chế hàng tồn kho.
+ Cái mới luôn được sáng tạo liên tục chứ không phải từ cái cũ phát triển lên. + Quá trình nghiên cứu, sáng tạo của con người luôn không ngừng được thực đẩy, phát triển ra kĩ thuật công nghệ hiện đại.
+ Có sự ứng dụng cơng nghệ thực tế - ảo trong các hoạt động như học tập, thiết kế, xây dựng, kiến trúc, thực nghiệm khoa học,... giúp tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc, đồng thời nâng cao năng suất lao động.
- Một số ví dụ về các sản phẩm ứng dụng của nền kinh tế tri thức:
+ Các nguồn năng lượng tái tạo, như: năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió, năng lượng thủy triều,…
+ Các loại bốt thông minh, như: bốt phẫu thuật (trong lĩnh vực y tế); bốt thu hoạch nông sản (trong lĩnh vực kinh tế); rơ-bốt chăm sóc trẻ em,… + Các phần mềm quản lí hồ sơ học sinh; theo dõi sự tiến bộ của học sinh,… (trong lĩnh vực giáo dục).
<b>rô-IV, Nền kinh tế tri thức Việt Nam</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b> Việt nam đang đứng trước cơ hội tiếp cận nền kinh tế tri thức, nếu bỏ lỡ không</b>
biết tận dụng cơ hội, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi tắt vào những ngành kinh tế dựa vào công nghệ cao, dựa vào tri thức thì sẽ tụt hậu. Đại hội VIII đã khẳng định phải: “đi tắt đón đầu” nếu khơng làm được thế thìsự tụt hậu là rất dễ xảy ra.
Có ý kiến cho rằng nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ: – Vừa phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất những ngành công nghiệp cơ bản, lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân. (Tiểu Luận Đặc điểm của nền kinh tế tri thức và cơ hội phát triển) – Vừa phải lo phát triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hoá và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ngành nghề mới, việc làm mới, đạt tốc độ cao, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới.
– Chúng ta không thể và không nên bắt chước, dập khuôn theo mơ hình cơng nghiệp hố của các nước khác. Và cũng khơng nên hiểu cơng nghiệp hố là xây dựng cơng nghiệp mà phải hiểu đó là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất chất lượng thấp kém, phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ cơng là chính sang nền kinh tế có năng suất chất lượng hiệu quả cao, phương pháp sản xuất công nghiệp dựa vào tiến bộ khoa học và cơng nghệ mới nhất. Vì vậy cơng nghiệp hố phải đi đơi với cơ giới hố.
Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào nền kinh tế tri thức, nước takhông thể bỏ lỡ cơ hội lớn đó mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn khoảng cách với các nước, như vậy nền công nghiệp nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: Chuyển nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp vàtừ cơng nghiệp sang tri thức. Cũng có nghĩa là chúng ta phải nắm bắt kịp thời các tri thức và cơng nghệ mới nhất để hiện đại hố nơng nghiệp, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức và công nghệ mới nhất. (Tiểu Luận Đặc điểm của nền kinh tế tri thức và cơ hội phát triển)
Về cơng nghệ thơng tin thì Việt nam, công nghệ thông tin cũng là một trong các động lực chủ yếu, quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế tri thức và xã hội thôngtin. Công nghệ thơng tin phát triển khơng những góp phần giải phóng năng lực vật chất, trí tuệ của cả dân tộc mà cịn có trình độ trực tiếp đến việc nâng cao tính cạnhtranh của mỗi doanh nghiệp.
Đầu tư nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới tồn cầu hố, tồn cầu hố lại tạo ra các cơ hội giúp các nước tận dụng được vốn đầu tư nước ngoài để giải quyết tình trạng thiếu vốn từ nội bộ nền kinh tế: Ở Việt nam trong 13 năm qua kể từ khi có luật đầu tư nước ngồi đã có gần 3000 dự án được đăng ký với số vốn đã được giải ngân vào khoảng 20 tỷ USD.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Mặc dù cịn ít về số lượng, nhỏ bé về quy mơ, nhưng chúng ta cũng có được khoảng vài chục dự án và khoảng nửa tỷ USD được đầu tư nước ngồi. Điều này thúc đẩy q trình hội nhập của chúng ta vào khu vực toàn cầu.
<b>V, Nền kinh tế tri thức Thế Giới</b>
<b><small> </small></b>Nền kinh tế tri thức, trong thực tế đã tạo ra những biến đổi to lớn về mọi mặthoạt động của con người và xã hội: đó là cơ sở hạ tầng mới của xã hội mới – xã hộithông tin. Nền kinh tế này xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong toàn bộ cơ cấu nềnkinh tế quốc dân. Ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nền kinh tế tri thức đã bắtđầu hình thành. Hiện nay ở những nước này riêng về kinh tế thông tin (nhữngngành kinh tế dựa chủ yếu vào công nghệ thơng tin), trong đó kinh tế tri thức làchủ yếu đã chiếm khoảng 45% - 50% GDP. Trong các nước OECD, kinh tế tri thứcđã chiếm hơn 50% GDP, cơng nhân trí thức chiếm trên 60% lực lượng lao động.Nhiều người ước tính vào khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành cácnền kinh tế tri thức.
Các nước ở Đông Á và Đông Nam Á cũng đang nỗ lực thực hiện chiến lượcquốc gia chuẩn bị, đón nhận và vận dụng kinh tế tri thức. Trước hết, xin nói đếnNhật Bản. Theo báo cáo của Cố vấn kinh tế Takashi Kiuchi thuộc Ngân hàngShinsei ở Tokyo (Nhật Bản) tại hội thảo “Các xu hướng và vấn đề năm 2001: Tăngtrưởng kinh tế dựa trên tri thức và những tác động xã hội – chính trị ở Đơng Á”tiến hành tại Tokyo ngày 25 và 26 tháng 10 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ Moriđã thật sự nhanh chóng lựa chọn công nghệ thông tin là một tâm điểm quan trọngduy nhất trong sáng kiến chính sách của mình khi cuộc tổng tuyển cử kết thúc vàotháng 7. Điều này làm cho nhiều nhà quan sát ngạc nhiên bởi vì từ lâu ơng Mori đãđược biết đến như một nhà hoạch định chính sách giáo dục có kinh nghiệm nhưnglại thiếu kiến thức sâu rộng về công nghệ thông tin.
chuyên gia công nghệ thông tin từ Ấn Độ đang dồi dào nguồn cung là hoàn tồn cóthật.
Ở Trung Quốc, mấy năm trước đây cuộc tranh luận về vấn đề nền kinh tế trithức có phải là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thế giới hay không, đã diễnra sôi nổi trong giới khoa học Trung Quốc. Nhưng hai năm gần đây, một số đã chorằng nền kinh tế tri thức không chỉ tồn tại trong nhận thức mà đã trở thành mộtthực tế trong đời sống kinh tế của các nước tiên tiến cũng như ở Trung Quốc. Theonhà nghiên cứu Tian Zhong Qing thì trong vịng 10 đến 20 năm đầu của thế kỷXXI, Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ nền kinh tếtri thức vì những lý do sau:
- Chính phủ trung ương đã ban hành chiến lược “thúc đẩy nền kinh tế dựatrên khoa học và giáo dục”.
- Trung Quốc đã thiết lập một cơ sở nghiên cứu khá vững chắc về khoa họccơ bản và công nghệ với một hệ thống làm việc có sự tính tốn kỹ lưỡng đến nhucầu hiện tại và sự phát triển trong tương lai
- Việc cải cách hệ thống quản lý trong nghiên cứu khoa học và công nghệ đãđạt được nhiều tiến bộ.
- Trung Quốc đang đẩy nhanh việc hình thành cơ chế đổi mới của mình vớimục tiêu làm cho sức mạnh của đổi mới đạt đến mức độ của các quốc gia tiên tiếntrung bình vào năm 2010.
- Sự phát triển nhanh của các ngành công nghệ cao. Thí dụ các ngành điện tửvà thơng tin đã nằm trong 10 ngành công nghiệp chủ yếu của Trung Quốc. - Sự hình thành các cơng viên cơng nghệ cao. Trung Quốc đã có 53 cơng viêncơng nghệ cao ở cấp Nhà nước. Đến nay chúng đang đóng vai trị quan trọng trongviệc thu hút công nghệ, xây dựng cơ chế đổi mới.
- Sự lớn mạnh của các doanh nghiệp tư nhân.
Cũng nên kể thêm rằng ngay cả những nước đang phát triển và kém phát triểncũng đã và đang tích cực vạch ra chiến lược tranh thủ tiếp cận và phát triển kinh tếtri thức.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Ở Phần Lan, một đất nước về mặt địa lý, rừng và đầm lầy chiếm đại bộ phậndiện tích. Trước đây 50 năm, nước này là một nước nông lâm nghiệp, dân số nơngnghiệp chiếm trên 70%, nay chỉ cịn 6%, rừng trước đây giữ vai trò chủ yếu trongkinh tế nay chỉ chiếm không đến 3% GDP. Nước này từ kinh tế nông nghiệp đinhanh vào kinh tế tri thức, hiện nay đang đứng đầu thế giới về tỷ lệ số người sửdụng Internet và điện thoại di động.
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất để phát triển kinh tế tri thức là laođộng phải qua đào tạo ở trình độ cao. Nguồn lao động ấy hiện nay đang ở trong cáctrường học. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo để đáp ứng nhu cầu phát triểnkinh tế tri thức, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấtnước là một trong những nhiệm vụ quan trọng thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Và ngay trong khu vực các nước ASEAN, Chính phủ Singapore từ lâu đã thừanhận tầm quan trọng của nguồn vốn con người như một nguồn lực cơ bản cho pháttriển kinh tế. Bên cạnh việc đầu tư mạnh vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực,Chính phủ đã mở rộng tối đa việc tuyển dụng những nhân công của các công ty đaquốc gia nước ngoài ngay từ khi bắt đầu q trình cơng nghiệp hóa, và thực hiệnmột chính sách năng động để thu hút lao động có kỹ năng và tài năng ở nước ngoàivào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, bao gồm cả khu vực công cộng. Song, việcdịch chuyển hướng tới một nền kinh tế dựa trên tri thức đã làm tăng mạnh vốn đầutư vào phát triển nguồn nhân lực. Một bộ mới – Bộ nhân lực đã được thành lậptheo kiến nghị của Ủy ban cạnh tranh Singapore, và một kế hoạch nhân lực chiếnlược mới được gọi là “Kế hoạch nhân lực 21” đã được đưa ra. Kế hoạch nhấnmạnh cả hai khía cạnh thu hút những tài năng mới vào các ngành công nghiệp sửdụng nhiều tri thức đã được xác định, cũng như đào tạo lại và tận dụng nguồn laođộng đang có sẵn. Kế hoạch cũng nhấn mạnh tầm quan trọng phải chuẩn bị nhữngcông nhân cho “một đời nhiều nghề nghiệp” hơn là “một nghề nghiệp suốt đời”,trong nền kinh tế mới, và nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của việc họctập suốt đời.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Các thể chế nghiên cứu và phát triển khoa học R&D được cơng nhận có mộtvai trị quan trọng ngày càng tăng trong việc thu hút và đào tạo toàn bộ thế hệ mớicác nhà khoa học và kỹ sư “sáng tạo tri thức” R&D. Nhiều người trong số họ đượctrông đợi sẽ làm việc trong khu vực tư nhân. Như vậy các thể chế nghiên cứu vàphát triển khoa học R&D được nhìn nhận như một chất dẫn xuất cho việc chuẩn bịvà phân phối nguồn vốn con người cho các ngành công nghiệp mới sử dụng nhiềutri thức trong trung hạn. Điều này có thể được xem như một sự bổ sung cho vai trògiáo dục rộng hơn của các trường Đại học và các trường kỹ nghệ.
Chính phủ Singapore ln cơng nhận tầm quan trọng của việc học hỏi từ cácnước tiên tiến. Tuy nhiên, mãi cho tới gần đây, Singapore mới đồng ý với việcnhận tri thức được tạo ra từ các nước khác, thông qua việc phối hợp gửi nhữngngười giỏi nhất đi học ở các trường Đại học danh tiếng ở nước ngồi, nhập khẩucác thiết bị cơng nghệ mới nhất, li-xăng bằng sáng chế công nghệ từ những công tyvà thể chế ở nước ngồi, khuyến khích các cơng ty đa quốc gia nước ngồi chuyểngiao cơng nghệ vào những hoạt động của họ ở Singapore, thu hút những tài năng ởnước ngoài và tiến hành những hoạt động học tập mơ phỏng khác nhau.
<b>VI, Sự thích ứng trong chuyển đổi số </b>
Nhiềều gói giải pháp cho doanh nghiệp
Ngay từ những ngày đầu, định hướng của Teso là cung cấp giải pháp công nghệcho các doanh nghiệp, tập đồn chứ khơng chỉ thuần túy là làm phần mềm. Có nghĩa là doanh nghiệp đưa ra bài toán cần giải quyết, Teso đưa ra những phân tích và tư vấn giải pháp cơng nghệ, kế hoạch triển khai.
</div>