Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Logistics trong thuong mai dien tu tai viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.04 KB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Logistics trong thương mại điện tử tại Việt Nam

Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội)

<small>Scan to open on Studocu</small>

Logistics trong thương mại điện tử tại Việt Nam

Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội)

<small>Scan to open on Studocu</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Nội dung 1: Cơ sở lý luận về Logistics trong Thươngmại điện tử</b>

1.1. Khái niệm

lưu chuyển vật chất của một tổ chức kinh doanh trên nền tảng trực tuyến (trangweb, sàn thương mại điện tử, v.v.). E-logistics còn được xem là 5PL logistics, tứclà dịch vụ hậu cần kết hợp với thương mại điện tử.

1.2. Đặc điểm

Đặc thù của mơ hình e-commerce là có độ phủ thị trường rộng, độ phân tán hànghóa cao, quy mơ nhỏ lẽ, tần suất mua lớn, mặt hàng đa dạng, thường yêu cầu thờigian giao hàng nhanh chóng, miễn phi và thu tiền tận nơi. Các dịng di chuyểnhàng hóa lúc này mở rộng đáng kể về phạm vi, khoảng cách, tính phức tạp, nêne-logistics có những khác biệt rất lớn với logistics truyền thống, nếu không được tổchức tốt thì hiệu quả của mơ hình này sẽ giảm đáng kể.

Với lợi ích của phân phối trực tuyến là khơng phụ thuộc vào thời gian và địa điểmcung cấp, do khách hàng có thể truy cập các thơng tin về hàng hóa và kết nối giaodịch thơng qua mọi thiết bị di động như máy tính cầm tay, sách điện tử, điện thoạidi động... có khả năng truy cập Internet. Điều này giúp nhà bản lễ hoặc nhà sảnxuất liên hệ trực tiếp với khách hàng và đáp ứng mong muốn mua hàng của kháchngay lập tức và vào bất kỳ thời điểm nào. Đồng thời tạo ưu thế về giá cả và chi phitừ việc sản xuất, lưu kho, và phân phối ở mức chi phi thấp hơn.

● Về lưu kho

Nhằm hỗ trợ tối đa cho các hoạt động nhận hàng, kiểm tra hàng hóa, gắn

nhãn/mã vạch, phân loại, thiết lập danh mục hàng đảm bảo về thời gian, tốc độ,

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

việc quản lý và duy trì dự trữ cần đảm bảo chính xác, linh hoạt, yêu cầu caotrong áp dụng các loại máy móc thiết bị tự động và sử dụng các hệ thống phầnmềm quản lý kho.

● Về giao hàng

Gồm điều phối đơn hàng, xuất hàng từ kho cho KH hoặc bên chuyển phát, cậpnhật thông tin tới khách hàng. Các doanh nghiệp bán lẻ B2C có thể tự tiến hànhhoạt động giao hàng nếu có đủ chi phí và kinh nghiệm để xây dựng, đào tạo vàquản lý đội ngũ giao hàng. Nhưng các doanh nghiệp nhỏ thì thường thiếu nănglực này nên sẽ phải thuê các dịch vụ giao nhận từ các Công ty logistics bên thứba. Khi giao hàng, nhà bán lẻ B2C thường sử dụng một số phương thức giaohàng khác nhau, các phương thức này quyết định số lượng Dịch vụ logistics vàmức độ tham gia ít hay nhiều của doanh nghiệp vào các giao dịch điện tử.● Về giao hàng tại địa chỉ người mua

Buy online, ship to store hay mua hàng online, giao hàng tận nhà. Cho phéphàng hóa được giao đến vị trí khách hàng u cầu, tạo thuận lợi cho kháchnhưng lại làm tăng chi phí và nguồn lực logistics đáng kể. Lúc này, nhà bán lẻB2C sẽ phải chịu tồn bộ chi phí vận chuyển và giao hàng, trong trường hợpcòn hạn chế về vốn và năng lực giao nhận vận chuyển thì rất khó thực hiện.● Về giao hàng tại kho của người bán

Buy online, pick-up in-store hay mua hàng online, khách đến lấy hàng tại cửahàng. Cách này khách hàng đến tận kho, cửa hàng của nhà cung cấp để thanhtoán và nhận hàng. Đây là phương thức sơ khai nhất của thương mại điện tử vàkhông thuận tiện cho khách hàng. Tuy nhiên các doanh nghiệp khơng có khảnăng cung ứng dịch vụ logistics vẫn có thể sử dụng.

● Về Dropshipping

Là giao hàng bỏ qua khâu vận chuyển là mơ hình rất tối ưu, cho phép DN muasản phẩm cá biệt từ người bán buôn và chuyển trực tiếp đến khách hàng củadoanh nghiệp. Nhà bán lẻ B2C chỉ đơn giản là hợp tác với nhà cung cấp có khảnăng vận chuyển và liệt kê danh mục hàng hóa của họ có để bán. Sau đó, khinhận được đơn đặt hàng, đơn này sẽ được chuyển tiếp tới các nhà cung cấp đểthực hiện. Các nhà cung cấp sẽ xuất xưởng sản phẩm trực tiếp từ nhà kho củahọ tới khách hàng của DN và doanh nghiệp chỉ trả phí vận chuyển cho đơnhàng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Lợi ích của dropshipping là khơng cần nhiều vốn, khơng tồn kho, quay vịngvốn nhanh, khơng có áp lực về thời gian. Đặc biệt nó phù hợp với các doanhnghiệp, bán lẻ B2C hồn toàn thiếu mạng lưới nhà kho, phương tiện vận tải, độingũ giao hàng vì đã tận dụng được tồn bộ năng lực logistics của nhà cung ứng.Có thể nói, E-Logistics chính là một cơng cụ liên kết mọi hoạt động của chuỗigiá trị toàn cầu, bao gồm: sản xuất, cung cấp, lưu thông phân phối, mở rộng thịtrường….

<b>Nội dung 2: Logistics trong Thương mại điện tử tạiViệt Nam</b>

2.1. Thực trạng logistics trong thương mại điện tử ở Việt Nam

Hiện nay, logistics trong thương mại điện tử ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽvà có những cải tiến đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số thách thức cầnđược giải quyết để nâng cao hiệu quả và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng củakhách hàng. Nhìn chung, chi phí logistics cao và hạ tầng logistics chưa đáp ứngyêu cầu là hai vấn đề chính trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Điều này cầnđược cải thiện để giúp các doanh nghiệp tăng cường sức cạnh tranh và nâng caochất lượng dịch vụ cho khách hàng. Dưới đây là một số thực trạng logistics trongthương mại điện tử ở Việt Nam:

1. Hạ tầng logistics chưa đáp ứng yêu cầu: Hạ tầng vận chuyển tại Việt Nam hiệnnay chưa đạt yêu cầu để đáp ứng nhu cầu của ngành thương mại điện tử. Theo báocáo của Tổng cục Hậu cần và Logistics Việt Nam, chỉ có khoảng 10% địa chỉ ởViệt Nam có đủ thơng tin hướng dẫn và tiêu chuẩn đóng gói, điều này gây khókhăn cho các nhà bán lẻ trong việc cung cấp dịch vụ giao hàng đúng hẹn và đảmbảo chất lượng. Theo báo cáo của World Bank, chỉ số Logistics Performance Index(LPI) của Việt Nam là 3.10/5 điểm, xếp thứ 39 trong số 160 quốc gia và vùng lãnhthổ được xếp hạng. Tuy nhiên, chỉ số này đã tăng lên 3.15/5 điểm vào năm 2020.Ngoài ra, nhiều địa phương ở Việt Nam vẫn chưa có cơ sở hạ tầng vận chuyển hiệnđại, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc vận chuyển hàng hóa.

2. Tốc độ vận chuyển: Tốc độ vận chuyển ở Việt Nam vẫn chưa nhanh chóng vàđáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng. Theo báo cáo của Vietnam E-commerceand Digital Economy Agency (iDEA), tốc độ vận chuyển trong thương mại điện tửở Việt Nam hiện chỉ đạt trung bình từ 2 đến 5 ngày. Điều này dẫn đến việc kháchhàng phải đợi quá lâu để nhận được hàng hóa của mình, gây mất lịng tin của khách

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

hàng. Theo báo cáo của iDEA, trong năm 2018, tỷ lệ giao hàng trễ trong thươngmại điện tử tại Việt Nam là 30%. Tuy nhiên, trong năm 2020, tỷ lệ này đã giảmxuống còn khoảng 20%.

3. Chi phí logistics: Chi phí logistics ở Việt Nam vẫn cịn khá cao so với một sốquốc gia khác. Theo báo cáo của iDEA, chi phí logistics chiếm khoảng 30% - 35%giá trị đơn hàng, cao hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới.

- Năm 2018: Chi phí logistics chiếm khoảng 25% - 30% giá trị đơn hàng.- Năm 2019: Chi phí logistics chiếm khoảng 30% - 35% giá trị đơn hàng.

- Năm 2020: Chi phí logistics tiếp tục tăng và chiếm khoảng 35% - 40% giá trị đơnhàng.

- Năm 2021: Chi phí logistics tiếp tục tăng và chiếm khoảng 35% - 40% giá trị đơnhàng.

Chi phí logistics bao gồm nhiều khoản chi phí như chi phí vận chuyển, chi phí bảoquản, chi phí quản lý kho hàng, chi phí xử lý đơn hàng, chi phí bảo hiểm và chi phítài chính. Theo báo cáo của Vietnam Report, chi phí vận chuyển hàng hóa tại ViệtNam hiện đang ở mức khoảng 40-50 USD/1 tấn/km vào năm 2020, cao hơn so vớinhiều nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Indonesia, Malaysia vàPhilippines. Trong đó, chi phí vận chuyển là khoản chi phí chính trong logistics.Ngồi ra, chi phí quản lý kho hàng và xử lý đơn hàng cũng góp phần tăng chi phílogistics. Các doanh nghiệp thương mại điện tử phải đầu tư vào hệ thống quản lýkho hàng và xử lý đơn hàng hiệu quả để giảm thiểu chi phí. Tuy nhiên, việc đầu tưnày lại địi hỏi một số chi phí ban đầu khơng nhỏ.

4. Quản lý kho hàng: Hầu hết các doanh nghiệp thương mại điện tử ở Việt Namđều phải đối mặt với vấn đề quản lý kho hàng. Theo báo cáo của Cục Quản lý thịtrường, trên thị trường Việt Nam, hàng tồn kho của các doanh nghiệp bán lẻ trựctuyến đạt mức trung bình 30% - 40%, gây chi phí cho doanh nghiệp. Ngồi ra, việcquản lý kho hàng cịn gặp khó khăn khi các doanh nghiệp thường phải làm việc vớinhiều nhà cung cấp khác nhau, dẫn đến việc quản lý và kiểm soát kho hàng trở nênphức tạp.

5. Hạn chế về thanh toán và vận chuyển: Theo báo cáo của Vietnam E-commerceAssociation, chỉ có khoảng 30% các doanh nghiệp thương mại điện tử tại Việt Namcho phép thanh toán khi nhận hàng (COD) vào năm 2020. Trong năm 2020,khoảng 31% doanh nghiệp thương mại điện tử gặp khó khăn với việc vận chuyển

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

hàng hóa và chi phí logistics tăng cao được xếp hạng là một trong những vấn đềlớn nhất đối với thương mại điện tử tại Việt Nam. Ngồi ra, việc tích hợp các hìnhthức thanh tốn điện tử và vận chuyển hàng hóa hiệu quả cịn gặp nhiều khó khăn.6. Nâng cao chất lượng dịch vụ logistics: Theo báo cáo của iDEA, trong năm2019, chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp thương mại điện tử tại Việt Nam đạt chuẩnvề dịch vụ logistics. Tuy nhiên, vào năm 2021, tỷ lệ này đã tăng lên khoảng 50%,nhưng chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp thương mại điện tử tại Việt Nam sử dụngdịch vụ logistics chuyên nghiệp (theo báo cáo của VnExpress)

2.2. Đánh giá Logistics trong thương mại điện tử ở Việt Nam● Thành tựu

Tổng số tiền giao dịch bán hàng trực tuyến tại Việt Nam trong năm 2020 là 15,5 tỷUSD (theo báo cáo của Euromonitor).

Năm 2022, dự kiến có khoảng 44,9 triệu người sử dụng dịch vụ mua sắm trựctuyến tại Việt Nam, tương đương với 46,3% dân số (theo báo cáo của eMarketer).Tính đến tháng 3/2022, tỷ lệ tiết kiệm chi phí vận chuyển nhờ sử dụng các dịch vụvận chuyển trực tuyến ở Việt Nam là khoảng 18% (theo báo cáo của Sendo).

- Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy mở rộng liên kết kinh tế giữa cácngành hàng, các vùng kinh tế: Nhờ có sự kết hợp giữa logistics và TMĐT, ngànhDịch vụ logistics đem lại giá trị gia tăng ngày càng nhiều, hàng năm đóng gópkhoảng 4-5% GDP và tạo khoảng 20.000 việc làm cho người lao động với mứclương hàng tháng tương đối cao từ 500 - 1500USD. Đồng thời, các doanh nghiệpE-logistics với ưu thế vượt trội là hỗ trợ tốt trong công tác lưu kho, chuẩn bị đơnhàng, giao hàng tại kho người bán và tại địa chỉ người mua mà không phụ thuộcvào thời gian và địa điểm cung cấp, nên rất thuận tiện trong việc làm cầu nối liênkết giữa các doanh nghiệp, các lĩnh vực, các vùng miền và các ngành kinh tế cùngnhau hỗ trợ, phát triển.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Lĩnh vực hoạt động, kênh phân phối và các loại hình vận tải của E-logistics tươngđối đa dạng, tạo điều kiện mở rộng phạm vi kinh doanh ra các thị trường bên ngoàiViệt Nam.

- Năng lực logistics của các doanh nghiệp nhìn chung đều được đánh giá tương đốitốt về đáp ứng thời gian phản hồi và xử lý nhanh, đảm bảo độ tin cậy cho kháchhàng.

● Hạn chế

- Quy mơ doanh nghiệp cịn nhỏ, ít vốn, kéo theo việc đầu tư, ứng dụng công nghệthông tin ở các doanh nghiệp bị hạn chế, hoạt động ở các khâu chủ yếu vẫn là thủcơng, dẫn đến sai sót, chi phí cao. Ngoài ra, logistics chuỗi lạnh rất cần thiết vớilĩnh vực nơng sản của Việt Nam, tuy nhiên chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư chohệ thống này. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam, phần lớndoanh nghiệp logistics và chuyển phát nhanh tại Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ,trong đó 90% số doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỉ đồng, 5% doanh nghiệp có vốn từ10 - 20 tỉ đồng. Đối với những doanh nghiệp này, khả năng tham gia vào chuỗicung ứng E-logistics là vô cùng gian nan. Điều này khiến cho thị trường logisticscủa Việt Nam tương đối lớn, nhưng 80% thị phần rơi vào tay doanh nghiệp nướcngoài.

- Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu thị trường: Mặc dù nguồn nhânlực làm việc trong lĩnh vực logistics chủ yếu là trẻ, năng động, nhiệt tình. Tuynhiên, nguồn nhân lực logistics thiếu về số lượng, yếu về trình độ chun mơn sâu,thiếu kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp, hạn chế về ngoại ngữ và phải đảm nhiệmnhiều cơng việc hành chính khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- Chi phí logistics cao, tương đương khoảng 20,9% GDP và chiếm khoảng 30-40%giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, trong khi ở các nước như Thái Lan chiếm6%, Malaysia 12%, so với Singapore thì chi phí cao hơn gấp 3 lần.

- Do hạn chế trong ứng dụng công nghệ thông tin nên ở nhiều khâu doanh nghiệpE-logistics thực hiện thủ công làm ảnh hưởng đến thời gian giao hàng, kiểm đếmsai sót, tiếp nhận ý kiến khách hàng chậm,…

● Nguyên nhân

Thứ nhất, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp sinh sau đẻ muộn sovới rất nhiều cơng ty nước ngồi vốn có từ rất lâu đời như APL thì có kinh nghiệmtrên 100 năm, Maersk gần 100 năm....

Thứ hai, tầm phủ của các công ty Việt Nam chỉ trong phạm vi nội địa hoặc một vàinước trong khu vực. Trong khu tầm phủ của các cơng ty nước ngồi chẳng hạn nhưAPL Logisitics là gần 100 quốc gia, Maersk Logisitics là 60 quốc gia, Exel cũngvậy. Điều này là một trong những cản trở khi các doanh nghiệp offer các dịch vụtrọn gói cho khách hàng. Nhất là trong xu thế toàn cầu hố, chủ hàng ví dụ nhưWalmart, Kmart, Nike, Adidas… thì thường có xu hướng sourcing từ rất nhiềuquốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Chúng ta cũng có thể tính đến vai trị của các đạilý mà các cơng ty Việt Nam thiết lập ở các quốc gia khác nhưng quan hệ nàythường khá lỏng lẻo và không đồng nhất.

Thứ ba, Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chỉ tập chung vào khai thác nhữngmảng nhỏ trong toàn bộ chuỗi cung ứng. Mà chúng ta thấy rất phổ biến là hìnhthức giao nhận vận tải (freight forwarding). Đây là hình thức khá đơn giản, cáccơng ty giao nhận đóng vai trị là người bn cước sỉ sau đó bản lại cho người mualẻ. Thông qua hãng vận tải biển, hàng sau khi được gom thành những containerhàng đầy sẽ được vận chuyển đến quốc gia của người nhận. tại đó các đại lý màcác cơng ty Việt Nam có quan hệ đối tác sẽ làm thủ tục hải quan nhận và dỡ hàngvà giao lại cho người mua hàng tại kho. Như vậy hình thức này chỉ là một phầnnhỏ trong toàn bộ chuỗi giá trị gia tăng logisitics. Trong chuỗi logisitics hiện đạimà các công ty logisitics lớn đang cung cấp cho khách hàng của mình như Maersklogisitics, APL Logisitics. P & O Nedlloyd Logisitics

Thứ tư, chúng ta có thể nhìn thấy rất rõ là trong quan hệ thương mại quốc tế, phầnlớn các nhà xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu hàng theo điều kiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

FOB, FCA trong incoterms (nghĩa là người bán chỉ cần giao hàng qua lan can tàutại cảng bốc hàng theo qui định là hết trách nhiệm). Như vậy quyền định đoạt vềvận tải đều do người mua chỉ định và dĩ nhiên người mua sẽ chỉ định một công tynước họ để thực hiện điều này. Và cơng ty logisitics của Việt Nam sẽ là ngườingồi cuộc. Bất cập này không phải dễ dàng giải quyết vì phần lớn các nhà xuấtkhẩu của Việt Nam đều gia công hoặc xuất hàng cho những khách hàng lớn ngườimà đã có những hợp đồng dài hạn và tồn cầu với các công ty logisitics. Đơn cửnhư hàng giày Nike đây là cơng ty có rất nhiều hợp đồng làm ăn với các doanhnghiệp Việt Nam nhưng riêng về khâu vận tải và logisitics thì các doanh nghiệpViệt Nam khơng thể tham gia vào trong q trình thương thảo. Rõ ràng một ơnglớn như Nike thì việc ký được hợp đồng gia công với họ đã là quá tốt với cácdoanh nghiệp gia dày của Việt Nam rồi chứ đừng nói đến việc đàm phán về vận tảivà logisitics. Trên thực tế Nike đang sử dụng hai công ty là Maersk Logisitics vàAPL Logisitics cung cấp dịch vụ logisitics cho mình. Hơn thế nữa phần lớn cácdoanh nghiệp Việt Nam vẫn cịn chưa có nhiều ý thức trong việc đầu tư vào quảnlý hiệu quả chuỗi cung ứng. điều này thấy rõ ở chỗ các doanh nghiệp Việt Nam hầuhết khơng có phịng quản lý logisitics hoặc chuỗi cung ứng. Mà phòng này thườngđược hiểu là phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này tạo ra rào cản đối với cácdoanh nghiệp logisitics Việt Nam trong việc chào các dịch vụ logisitics giá trị giatăng.

Thứ năm, chúng ta đang đối mặt hệ thống giao thơng vận tải cịn rất thiếu và yếu.Điều này làm cho các chi phí logisitics của Việt Nam sẽ cao hơn hẳn các nướckhác. Bản thân các cơng ty logisitics sẽ tốn nhiều chi phí đầu tư, làm giảm lợinhuận của họ cũng như khả năng mở rộng dịch vụ.

Thứ sáu, về hạ tầng thông tin, đây chính là điểm yếu các doanh nghiệp logisiticsViệt Nam. Mặc dù các doanh nghiệp logisitics đã có nhiều ý thức trong việc ápdụng CNTT vào hoạt động kinh doanh của mình những điều này vẫn cịn kém xaso với các cơng ty logisitics nước ngồi. Nếu chỉ xét về khía cạnh xây dựngwebsite thì phần lớn website của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đơn thuần giới thiệuvề mình, về dịch vụ của mình nhưng thiếu hẳn các tiện ích mà khách hàng cần nhưcông cụ track and trace (theo dõi đơn hàng), lịch tàu, e - booking, theo dõi chứngtừ... Chúng ta nên biết visibility (khả năng nhìn thấy và kiểm soát đơn hàng) là mộtyếu tố được các chủ hàng đánh giá rất cao khi họ lựa chọn nhà cung cấp dịch vụlogisitics cho mình. Bản thân các công ty như APL Logisitics, Maersk Logisiticsđược Nike chọn là nhà cung cấp dịch vụ cho mình là họ có thể cung cấp cho Nikecơng cụ visibility - trong bất kỳ thời điểm nào, tại bất kỳ nơi nào nhân viên của

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Nike cũng có thể nắm bắt và có thể kéo ra bất kỳ các loại báo cáo liên quan đến cácđơn hàng của mình đã, đang và sẽ được thực hiện bởi các công ty trên. Điều này sẽgiúp Nike tính tốn tốt những dự báo, kiểm soát hàng tồn, đáp ứng kịp. yêu cầu củakhách hàng ở chi phí tối ưu nhất.

Thứ bảy, Tính liên kết. Cho tới nay các doanh nghiệp logisitics của Việt Nam hoạtđộng còn rất độc lập thiếu hẳn sự liên kết cần thiết. Trong xu hướng outsourcing,mỗi doanh nghiệp cần tập trung vào thế mạnh của mình và sẽ th ngồi các dịchvụ khơng phải là thế mạnh. Thì tinh liên kết cẩn thiết bao giờ hết. Đã đến lúcchúng ta, các doanh nghiệp logisitics Việt Nam cần ngồi lại và hợp tác để có thểđưa ra thị trường một chuỗi các dịch vụ logisitics tổng thể cho khách hàng. Mộtcơng ty giao nhận có thể liên kết với một công ty về kho bãi, về vận tải, về môigiới, về hàng không tạo thành một chuỗi liên kết chặt chẽ. Như chúng tơi đã nói ởtrên, mơ hình dịch vụ tổng thể hay cịn được gọi dưới cái tên One - stop Shop (chỉdừng một lần có thể mua được tất cả những gì mình cần) là một xu thế phổ biến.Thứ tám, vai trò của nhà nước. Vai trò định hướng và hỗ trợ của nhà nước là cựckỳ quan trọng. Tới nay chúng ta mới chỉ có Hiệp hội giao nhận kho vân Việt Nam.Nhưng bản thân tên của hiệp hội này cũng đã quá cũ.

Thứ chín, Xây dựng thương hiệu trong ngành logisitics. Việt nam vẫn chưa cóđược những thương hiệu mạnh tầm cỡ khu vực hay thế giới trong lĩnh vựclogisitics mà bản thân điều nay cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Chúng ta cần cónhững thương hiệu dẫn đầu làm đầu kéo cho ngành logisitics phát triển đúnghướng.

Thứ mười, Nhân lực. Chúng ta đang thiếu một đội ngũ chuyên viên trong ngànhlogisitics chuyên nghiệp và được đào tạo bài bản. Bản thân các trường Đại học lớncũng chưa hề có khoa dạy về ngành này. Có chăng chỉ là giới thiệu theo kiểu “cưỡingựa xem hoa”. Hơn bao giờ hết sự thành công bắt đầu từ con người. Chúng ta cầnxây dựng chiến lược nhân lực cho logisitics.

● Thách thức:

Có nhiều thách thức mới và khó hơn cho e-logistics, hay thậm chí là chuỗi cungứng của Việt Nam khi có tới 82% số lượng cơng ty bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịchbệnh và chưa có sự chuẩn bị tốt. Ngồi ra, những giải pháp e-logistics trong nướccịn nhiều hạn chế về mặt công nghệ và bảo mật thông tin hay bảo mật thanh. Bên

</div>

×