Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH KỸ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ 5- 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI BIỂU TƯỢNG SỐ LƯỢNG 10 ĐIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 128 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b> </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small> </small> <sub> </sub>

<i><b><small> </small></b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>

Chăm sóc giáo dục trẻ em là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp chăm lo đào tạo thế hệ trẻ để trở thành những con người tương lai của đất nước. Có thể nói giáo dục trẻ trong thời kỳ này đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành cơ sở ban đầu của nhân cách con người và đặc biệt hơn hết giáo dục trẻ thời kỳ này đạt hiệu quả cao nhất.

Trong chương trình giáo dục mầm non, việc dạy trẻ hình thành biểu tượng tốn học sơ đẳng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, tạo cơ sở nền móng cho trẻ học tập nói chung và học tốn nói riêng ở trường phổ thơng sau này. Bởi lẽ hình thành biểu tượng tốn học sơ đẳng cho trẻ mầm non có vị trí quan trọng trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ, nó đặt nền móng cho sự phát triển tư duy, phát triển năng lực nhận biết của trẻ, góp phần phát triển tồn diện nhân cách và chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông với những biểu tượng toán sơ đẳng và những kỹ năng nhận biết như: quan sát, phân biệt, so sánh, phân loại, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, … Đồng thời, các hoạt động cho trẻ làm quen với toán ở trường mầm non giúp trẻ giải quyết được một số khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, dễ dàng tìm hiểu cuộc sống xung quanh trẻ, nhận thức được các dấu hiệu toán học và mối quan hệ tốn học có trong sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ.

Thế giới xung quanh bé luôn tồn tại muôn màu, muôn vẻ với sự đa dạng của màu sắc, hình dạng, số lượng… Chính vì vậy trong hoạt động cho trẻ làm quen với tốn nói chung và hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng nói riêng để nhận biết được chúng trẻ không chỉ dần tiến hành phân tích- tổng hợp- khái qt hóa mà cịn phải so sánh các dấu hiệu toán học. Nhờ so sánh mà trẻ nhận biết mối quan hệ toán học như: Nhiều hơn- ít hơn, có số lượng bằng nhau,… của sự vật, hiên tượng xung quanh trẻ. Như vậy có thể nói, mảnh đất tươi tốt để hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ mẫu giáo chính là hoạt động cho trẻ làm quen với biểu tượng số lượng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Việc hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng có tác dụng phát triển tri giác số lượng các vật của trẻ và làm cho nó trở nên ổn định hơn, chính xác hơn và góp phần chuẩn bị cho trẻ học phép đo đạc ở trường tiểu học tạo cơ sở cho trẻ nắm kiến thức như một khái niệm toán học, phát triển trẻ khả năng xếp chồng, xếp cạnh, xếp tương ứng của vật.

Trong các trường mầm non hiện nay, nhiệm vụ hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng là một trong những nhiệm vụ được quy định chặt chẽ trong chương trình “Chăm sóc giáo dục trẻ mầm non”. Trong những năm qua chương trình này đã thể hiện rất nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, việc tổ chức dạy trẻ 5- 6 tuổi kỹ năng so sánh số lượng ở trường mầm non hiện nay vẫn chưa đạt hiệu quả cao, cách thức tiến hành và hiệu quả hoạt động này còn nhiều hạn chế. Trẻ nắm kiến thức so sánh số lượng một cách máy móc hơn thế nữa trẻ không biết vận dụng vào cuộc sống. Mặt khác, việc tổ chức cho trẻ các kỹ năng so sánh số lượng bị giới hạn, trẻ chưa được ứng dụng nhiều thông qua các hoạt động khác ở trường mầm non, từ đó dẫn đến việc trẻ nắm kỹ năng so sánh số lượng của trẻ còn thấp.

<i><b>Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5 -6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng” làm đề tài nghiên cứu của mình. </b></i>

<b>2. Mục đích nghiên cứu </b>

- Đề xuất một số biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại trường mẫu giáo Trà Tân - Bắc Trà My - Quảng Nam.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu </b>

- Một số biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua họt động làm quen với BTSL

<b>* Phạm vi nghiên cứu </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

- Do thời gian nghiên cứu có hạn nên tơi chỉ đề cập nghiên cứu biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

<b>4. Khách thể nghiên cứu </b>

- Quá trình hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

<b>5. Nhiệm vụ nghiên cứu </b>

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của một số biện pháp hình thành năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại trường mẫu giáo Trà Tân - Bắc Trà My - Quảng Nam.

- Nghiên cứu thực trạng các biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại trường mẫu giáo Trà Tân- Bắc Trà My- Quảng Nam.

- Tìm ra một số giải pháp giúp hình thành kỹ năng cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

- Thực nghiệm kiểm tra tính khả thi của đề tài.

<b>6. Phương pháp nghiên cứu </b>

<b>6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận </b>

- Đọc và phân tích một số tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận của một số biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua làm quen với biểu tượng số lượng.

<b>6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: </b>

- Phương pháp điều tra:

+ Điều tra bằng phiếu Anket đối với giáo viên mầm non bằng hệ thống câu hỏi nhằm nắm được thực trạng nhận thức và thái độ của giáo viên cũng như thực trạng sử dụng một số biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng của giáo viên mầm non.

+ Điều tra mức độ hình thành kỹ năng so sánh của trẻ 5 - 6 tuổi bằng hệ thống các bài tập khảo sát.

- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Phương pháp trao đổi, đàm thoại cung GV về việc tổ chức các hoạt động làm quen với BTSL qua đó hình thành cho trẻ KNSS nhất định.

- Phương pháp quan sát:

+ Quan sát hoạt động của giáo viên mầm non trong quá trình tổ chức dạy trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen về biểu tượng số lượng để đánh giá thực trạng việc hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ của giáo viên.

+ Quan sát hoạt động học tập về biểu tượng số lượng của trẻ và trò chuyện với trẻ để kiểm tra mức độ hình thành kỹ năng so sánh của trẻ.

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm nhằm kiểm nghiệm tính khả thi, tính hiệu quả của một số biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng đã xây dựng.

- Phương pháp thống kê toán học: Xử lý kết quả nghiên cứu bằng các công thức tốn thống kê.

<b>7. Lịch sử nghiên cứu </b>

Cơng trình nghiên cứu về quá trình hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ cũng rất đa dạng và được khai thác dưới nhiều khía cạnh khác nhau:

+ Đề tài nghiên cứu hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5- 6 tuổi theo

<i>hướng tích hợp của PGS.Tiến sĩ Đỗ Thị Minh Liên và các giáo trình: “Lý luận và phương pháp hình thành biểu tượng tốn cho trẻ mầm non”, “Phương pháp cho trẻ làm quen với toán” của tác giả đã nêu lên cấu trúc của nội dung hình thành </i>

BTSL cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5- 6 tuổi nói riêng, cùng với nhiều phương pháp, biện pháp, hình thức, phương tiện nhằm hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ.

<i>+ Phùng Như Hoa với đề tài: “Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ làm quen với biểu tượng toán”. </i>

+ Trong luận văn của Thạc Sĩ Trần Thị Hà, khoa Tiểu học- Mầm non

<i>trường Đại học Quảng Nam với đề tài: “Biện pháp phát triển biểu tượng số lượng cho trẻ 5- 6 thông qua các bài tập vận động” đã nghiên cứu một số biện pháp phát </i>

triển biểu tượng số lượng cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua các bài tập vận động.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>+ Hay của tác giả Vũ Ngọc Như Linh với đề tài: “Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 5- 6 tuổi hình thành biểu tượng số lượng, con số và phép đếm thông qua hoạt động góc”. </i>

+ Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Phương đã có cơng trình nghiên cứu về mức độ phát triển các biểu tượng số lượng ở trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi và đưa ra một số tiêu chí đánh giá mức độ phát triển các BTSL của trẻ ở lứa tuổi này, từ đó làm cơ sở để đề xuất một số phương pháp, biện pháp dạy học nhằm giúp quá trình hình thành BTSL cho trẻ mẫu giáo đạt kết quả cao.

<i>+ Thạc sĩ Trịnh Minh Loan trong cuốn “Hình thành biểu tượng ban đầu về toán học cho trẻ mẫu giáo” xuất bản năm 1999 đã nêu lên cách sử dụng các </i>

phương pháp dạy học nhằm hình thành biểu tượng ban đầu về tốn cho trẻ. Hầu hết các cơng trình và đề tài nghiên cứu trên đều xoay quanh quá trình hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5- 6 tuổi nói riêng. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu hoặc đề tài nghiên cứu nào đề cập đến biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại một trường mầm non cụ thể nào đó.

<b>8. Đóng góp đề tài </b>

- Về lý luận: Góp phần hệ thống các vấn đề lý luận về việc sử dụng biện pháp hình thành kỹ năng so sánh thơng qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 5- 6 tuổi nói riêng.

- Về thực tiễn: Đề tài giúp giáo viên mầm non hiểu và vận dụng một cách có hiệu quả hệ thống các biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

<b>9. Cấu trúc đề tài </b>

Đề tài gồm 3 phần - Phần 1: Mở đầu - Phần 2: Nội dung Gồm có 3 chương:

+ Chương 1: Cơ sở lý luận của biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

+ Chương 2: Cơ sở thực tiễn về biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

+ Chương 3: Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

- Phần 3: Kết luận và kiến nghị. Tài liệu tham khảo

Phụ lục

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU </b>

<b>CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH KỸ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ 5- 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN </b>

<b>VỚI BIỂU TƯỢNG SỐ LƯỢNG </b>

<b>1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu </b>

<i><b>1.1.1. Khái niệm về biểu tượng số lượng </b></i>

<i>1.1.1.1. Biểu tượng </i>

Biểu tượng là một khái niệm, một phạm trù được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu. Đứng ở mỗi góc độ, quan điểm khác nhau mà có những định nghĩa khác nhau về biểu tượng.

Theo quan điểm của Triết học duy vật biện chứng thì “Biểu tượng là hình ảnh của khách thể đã được tri giác còn lưu lại trong bộ óc con người và do một tác động nào được tái hiện, nhớ lại”. [15 ]

Theo từ điển Tâm Lý học, “Biểu tượng là hình ảnh của các vật thể, cảnh tượng và sự xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai”. [17 ]

Theo từ điển Tiếng Việt, “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu khi tác dụng của sự vật vào các giác quan đã chấm dứt”.[16 ]

Như vậy, “Biểu tượng là những hình ảnh của sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được lưu giữ lại trong ý thức hay là hình ảnh mới được hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước”.

<i>1.1.1.2. Số lượng </i>

Là một danh từ, “Số lượng là con số biểu thị sự có nhiều hay ít .

Ví dụ: Số lượng trẻ, số lượng bạn gái trong một lớp học, số lượng bình hoa,… Số lượng là khái niệm chỉ số phần tử có trong một tập hợp tại một không gian và thời điểm xác định. Khái niệm số lượng có liên quan đến tập hợp, số lượng là một trong những thuộc tính đặc trưng của tập hợp, bất kỳ một tập hợp

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nào cũng xác định độ lớn (số lượng ) nhất định của nó, dù là phần tử thuần nhất hay không thuần nhất. [4, tr 8]

<i>1.1.1.3. Biểu tượng số lượng </i>

Từ định nghĩa về biểu tượng và số lượng, ta có thể hiểu “Biểu tượng số lượng là những hình ảnh, kiến thức về con số được lưu lại trong trí óc của mỗi con người, sau khi sự tác động của sự vật vào giác quan của con người đã chấm dứt”.

Biểu tượng số lượng bao gồm: Biểu tượng về phép đếm (đếm số lượng trong một nhóm vật), biểu tượng về mối liên hệ số lượng (so sánh số lượng của hai nhóm đối tượng ), biểu tượng về mối quan hệ số lượng (so sánh số lượng hơn kém bao nhiêu đơn vị đo). [4, tr 8]

<i><b>1.1.2. Biện pháp </b></i>

Trong cuộc sống, bất cứ ai cũng phải vận động để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, có những hành động khi chúng ta thực hiện có thể vượt qua một cách dễ dàng nhưng có những hoạt động thì vơ cùng khó khăn. Chúng ta phải xây dựng những biện pháp để làm sao vượt qua được những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Vậy biện pháp là gì?

Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên giải” tác giả Nguyễn Văn Đạm cho rằng: Biện pháp là cách làm, cách hành động, đối phó để đi đến một mục đích nhất định.

Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hồng Phi chủ biên thì: Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.

Như vậy nghĩa chung nhất của biện pháp là cách thức để thực hiện một công việc cụ thể nào đó nhằm đạt được mục đích đề ra.

<i><b>1.1.3. Kỹ năng so sánh </b></i>

<i>1.1.3.1. Kỹ năng </i>

Khi bàn về khái niệm kỹ năng, các tác giả đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng. Song có thể khái quát lại thành hai cách đặt vấn đề khác nhau của các tác giả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

• Cách thứ nhất: xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kĩ thuật hành động. Đại diện cho quan niệm này bao gồm tác giả: Trần Trọng Thủy, V.A.Kruteski, Ph.N.Gonobolin, A.G.Kovaliov…

Các tác giả này cho rằng kỹ năng được xem là phương tiện thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người đã nắm vững, người có kỹ năng hoạt động nào đó là người nắm được các tri thức về hoạt động đó và thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của nó mà khơng cần tính đến kết quả của hành động.

Như vậy, theo quan niệm thứ nhất có thể nhận thấy kỹ năng là mặt kĩ thuật của hành động, con người nắm được cách hành động tức là có kĩ thuật hành động. Họ coi trọng cách thức thực hiện hành động hơn kết quả của hành động đó.

• Cách thứ hai: Xem xét kỹ năng nghiêng về năng lực của con người. Đại diện cho quan niệm này bao gồm tác giả: K.K.Platonov, G.G.Golubev, N.D.Levitov, Lê Văn Hồng, Vũ Dũng, Huỳnh Văn Sơn…

Như vậy, cách xem xét kỹ năng nghiêng về năng lực của con người để thực hiện các cơng việc có kết quả đã bao hàm cả quan niệm kỹ năng là kĩ thuật hành động trong đó, bởi chỉ khi sự vận dụng tri thức vào thực tiễn một cách thuần thục thì mới có được kết quả cơng việc đạt chất lượng.

Do đó, từ các quan điểm trên chúng tơi cho rằng: Kỹ năng là khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm một cách linh hoạt để thực hiện có kết quả một hành động nào đó trong những điều kiện phù hợp.

<i>1.1.3.2. So sánh </i>

Theo X. L. Rubinstein: “Hạt nhân của hoạt động trí tuệ là các thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa... Chính vì thế, so sánh là một trong những kỹ năng quan trọng thường xuyên diễn ra trong quá trình hoạt động trí tuệ của con người. Bởi lẽ, để nhận biết được cái này giống hay khác với cái kia thì trong đầu óc của con người diễn ra quá trình so sánh. Tuy mỗi tác giả đưa ra các khái niệm khác nhau về so sánh như các nhà tâm lý học: Grant Evans, Trần Ngọc Lan, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang Uẩn nhưng chúng ta nhận thấy rằng tất cả họ đều có chung quan điểm đó là coi so sánh là sự đối chiếu giữa sự vật này với sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

vật kia để tìm sự giống nhau hay khác nhau của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.

<i>1.1.3.3.Kỹ năng so sánh </i>

Kỹ năng so sánh là khả năng con người vận dụng những hiểu biết, tri thức, kinh nghiệm của bản thân để đem sự vật này đối chiếu với sự vật kia nhằm phân biệt chúng trong thế giới khách quan.

Như vậy, từ đây chúng ta có thể hiểu kỹ năng so sánh là khả năng mà trẻ biết vận dụng những kiến thức đã học để phân biệt sự giống và khác nhau về các dấu hiệu và mối quan hệ của chúng trong các sự vật, hiện tượng.

<b>1.2. Quá trình hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5- 6 tuổi nói riêng trong hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng </b>

Thế giới xung quanh trẻ với những sự vật, hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng chính vì vậy mà ngay từ khi sinh ra trẻ đã được tiếp xúc và làm quen với những nhóm vật có màu sắc, kích thước, số lượng phong phú ở xung quanh trẻ. Lúc này trẻ dần được lĩnh hội được số lượng nhóm các giác quan khác nhau như: Xúc giác, thị giác, thính giác.

Trẻ lứa tuổi nhà trẻ đã bắt đầu có những nhận biết về số lượng nhưng KNSS số lượng của trẻ chỉ ở bước đầu thiết lập, chưa ý thức được hoàn toàn. Những biểu tượng đầu tiên về các nhóm vật giống nhau như: Nhiều con ốc, những cái lá, nhiều con búp bê… được tích lũy và phản ánh trong ngôn ngữ thụ động của trẻ nhỏ. Vì vậy, quá trình hình thành KNSS số lượng ở trẻ chỉ đạt ở mức độ định hướng tới dấu hiệu số lượng của nhóm vật.

Lên ba tuổi, trẻ em đã hiểu và phân biệt đúng các từ: một, ít, nhiều và biết vận dụng những kiến thức thực tiễn vào cuộc sống. Trẻ ba tuổi thích so sánh số lượng các nhóm vật. Khả năng so sánh số lượng các nhóm vật, các âm thanh phát triển dần cùng với lứa tuổi trẻ, vì vậy mà kỹ năng so sánh số lượng của trẻ cũng bước sang một bước tiến rõ rệt, trong quá trình so sánh số lượng trẻ dần lĩnh hội được các kỹ năng xếp chồng, xếp cạnh. Bên cạnh đó, trong q trình so sánh trẻ bắt đầu biết sử dụng các nhóm vật có số lượng khác nhau, trên cơ sở thực hành so sánh số lượng của chúng, trẻ nắm được tính tương đối của các khái niệm như:

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Nhiều hơn, ít hơn. Ví dụ ba con vịt sẽ nhiều hơn hai con gà. Trong quá trình trẻ thực hiện thao tác so sánh số lượng thì đồng thời lúc này cũng hình thành ở trẻ kỹ năng thiết lập tương ứng 1-1 giữa các vật của nhóm lúc này trẻ sẽ xác định mối quan hệ số lượng bằng nhau hay không bằng nhau.

Ở trẻ 4- 5 tuổi đã có kỹ năng phân tích từng phần tử của tập hợp, biết đánh giá độ lớn của chúng theo số lượng các phần tử của tập hợp. Các yếu tố như: Kích thước của các phần tử, khơng gian sắp đặt tập hợp đã ít ảnh hưởng hơn tới sự tri giác đánh giá độ lớn số lượng của vật mà lúc này trẻ chủ yếu đánh giá, so sánh số lượng dựa trên các thao tác kỹ năng mà trẻ có được qua q trình trẻ học hỏi, hướng dẫn của người lớn và dưới sự tác động của dạy học. Ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ trẻ đã nắm và sử dụng tốt các kỹ năng so sánh bằng việc thiết lập tương ứng 1- 1 giữa các phần tử của tập hợp khi so sánh độ lớn của chúng, lúc này trẻ thực hiện một loạt các thao tác thực tiễn như: Xếp chồng, xếp cạnh và so sánh từ xa bằng phép nối. Như vây, bằng thực tiễn sử dụng các thao tác, kỹ năng trong hoạt động so sánh số lượng lúc này trẻ đã xác định được mối quan hệ số lượng: bằng nhau, khơng bằng nhau, nhiều hơn, ít hơn giữa các nhóm đối tượng, qua đó phát triển cho trẻ kỹ năng tri giác, phân tích chính xác các phần tử của tập hợp làm cơ sở cho trẻ học đếm sau này.

Ví dụ: Khi yêu cầu trẻ so sánh số lượng giữa số mèo và số cá, lúc này trẻ sẽ sử dụng kỹ năng xếp tương ứng 1 - 1 để xếp cạnh hoặc xếp chồng các đối tượng. Khi nhóm nào có đối tượng dư ra trẻ sẽ bắt đầu có sự so sánh giữa hai nhóm đối tượng đó và nhận ra được nhóm nào có số lượng nhiều hơn, nhóm nào có số lượng ít hơn.

Ở trẻ 5- 6 tuổi, KNSS của trẻ đã được hoàn hiện hơn, trẻ có khả năng phân tích chính xác các phần tử của tập hợp, các tập hợp con trong tập hợp lớn. Khi đánh giá độ lớn của các tập hợp, trẻ mẫu giáo lớn ít bị ảnh hưởng của các yếu tố như: màu sắc, kích thước, vị trí sắp đặt của các phần tử của tập hợp điều này làm cho quá trình đánh giá số lượng của trẻ trở nên chính xác hơn. Đồng thời, hoạt động đếm của trẻ lúc này đã phát triển lên một bước mới, trẻ rất có hứng thú đếm và phần lớn trẻ nắm được trình tự cuả các số từ 1- 10, thậm chí cịn nhiều số hơn

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

nửa, trẻ biết thiết lập tương ứng 1- 1 trong quá trình đếm, mỗi từ số ứng với một phần tử của tập hợp mà trẻ đếm. Trẻ hiểu được rằng khi đếm thì số cuối cùng là số kết quả ứng với tồn bộ nhóm vật điều đó có nghĩa là sau khi trẻ đã khái quát được số cuối cùng của các nhóm vật trẻ đã bắt đầu có sự tư duy, phân tích, so sánh và đưa ra nhận định so sánh về số lượng của các nhóm vật một cách đầy đủ, chính xác nhất.

Ví dụ: Khi trẻ so sánh số lượng gà và vịt trong phạm vi 10, lúc này để so sánh số lượng của 2 nhóm trẻ có thể tiến hành bằng cách đếm từng nhóm đối tượng, khi trẻ đếm đến đối tượng cuối cùng của từng nhóm có nghĩa kết quả số lượng ứng với nhóm. Sau đó, trẻ phân tích, tổng hợp và so sánh số lượng của 2 nhóm rồi khái quát lại nhóm nào nhiều hơn, nhóm nào ít hơn.

<b>1.3. Quy trình hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5 - 6 tuổi </b>

Để hình thành kỹ năng về bất cứ hành động nào, con người đều phải luyện tập theo một quy trình. Theo các cơng trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học, kỹ năng được hình thành theo các giai đoạn nhất định.

- V.A. Cruchetxki, N.Đ. Leevitov, Phạm Minh Hạc.... đều cho rằng kỹ năng được hình thành theo 3 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1: Nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện hành động.

+Giai đoan 2: Quan sát mẫu và làm thử theo mẫu.

+ Giai đoạn 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo yêu cầu, điều kiện hành động nhằm đạt được mục đích đề ra.

- K.K. Platonov và G. G. Golubev đưa ra 5 giai đoạn hình thành kỹ năng như sau:

+ Giai đoạn 1: Giai đoạn kỹ năng sơ đẳng. Con người ý thức được mục đích, hành động và tìm kiếm cách thức thực hiện hành động dựa trên vốn hiểu biết và kỹ năng sinh hoạt đời thường. Hành động được thực hiện bằng cách thử và sai.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

+ Giai đoạn 2: Biết cách làm nhưng khơng đầy đủ nghĩa và có hiểu biết về phương thức hành động, biết sử dụng các kỹ xảo đã có nhưng khơng phải là chuyên biệt dành cho hành động này.

+ Giai đoạn 3: Có kỹ năng nhưng cịn mang tính riêng lẽ.

+ Giai đoạn 4: Có kỹ năng phát triển cao, sử dụng sáng tạo vốn hiểu biết và các kỹ xảo đã có, ý thức được khơng chỉ mục đích hành động mà cịn có cả động cơ lựa chọn cách thức đạt mục đích.

+ Giai đoạn 5: Sử dụng sáng tạo các kỹ năng khác nhau.

Như vậy, hai tác giả này không đề cập đến vai trò của hành động mẫu hay sự hướng dẫn của người có kiến thức, kỹ năng cao hơn so với sự hình thành kỹ năng mà chúng ta thấy hai ơng đã đánh giá cao vai trị của tri thức và các kỹ xảo đã có. Do vậy, giữa kỹ năng và kỹ xảo có mối quan hệ với nhau, kỹ xảo hồn thiện hơn và hình thành dựa trên cơ sở kỹ năng, kỹ năng nảy sinh trên tri thức, kinh nghiệm kỹ xảo đã có. Tuy nhiên khi xét mối quan hệ giữa kỹ năng và kỹ xảo chúng ta cần xem xét chúng trong một hành động cụ thể nào đó. Nếu những hành động đơn giản thì kỹ năng có trước sau đó mới hình thành kỹ xảo, ví dụ như: viết, vẽ, đan lát... Còn với những hành động phức tạp hơn ( địi hỏi có vận động cơ và hoạt động tư duy) thì kỹ năng được hình thành dựa trên trí thức, kinh nghiệm và kỹ xảo có trước.

Theo Phạm Tất Dong có 4 giai đoạn hình thành kỹ năng, mỗi giai đoạn có một đặc điểm, đặc trưng và yêu cầu nhất định:

+ Giai đoạn 1: Giai đoạn này được gọi là giai đoạn hình thành kỹ năng sơ bộ. + Giai đoạn 2: Con người có những tri thức về phương thức thực hiện hoạt động và sử dụng kỹ xảo đã có. Đây là giai đoạn hoạt động với những kỹ năng chưa thành thạo.

+ Giai đoạn thứ 3: Con người có những kỹ năng chung, cần thiết cho mọi hoạt động khác nhau.

+ Giai đoạn thứ 4: Con người sử dụng một cách sáng tạo những kỹ năng khác nhau. Đây là giai đoạn cao nhất cựa phát triển kỹ năng. Ở trình độ này con người dễ thực hiện được công việc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm về giai đoạn hình thành kỹ năng như trên, chúng tơi thấy rằng để hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ trong hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng được tiến hành theo các giai đoạn sau:

+ Giai đoạn 1: Giúp trẻ hiểu được mục đích của hoạt động so sánh số lượng của các đối tượng.

+ Giai đoạn 2: Có sự hướng dẫn (làm mẫu) của người lớn trẻ có tri thức về phương thức thực hiện so sánh.

+ Giai đoạn 3: Tạo điều kiện cho trẻ được rèn luyện, phát triển kỹ năng so sánh sơ bộ đã được hình thành ở trẻ.

+ Giai đoạn 4: Trẻ vận dụng những kỹ năng so sánh đã được hình thành vào các hoạt động khác nhau trong thực tiễn.

<b>1.4. Vai trò của kỹ năng so sánh đối với sự phát triển các quá trình nhận thức của trẻ </b>

So sánh là một trong những kỹ năng quan trọng của quá trình nhận thức nói chung và tư duy nói riêng. Khơng có so sánh thì khơng có sự nhận thức, khơng có hiện tượng tư duy và khơng có sự dạy học. Nhờ có so sánh mà con người khơng những tìm thấy các dấu hiệu bản chất giống và khác nhau của sự vật, hiện tượng mà cịn tìm thấy dấu hiệu khơng bản chất của chúng.

Với trẻ em, kỹ năng so sánh giúp cho chúng hiểu biết hơn về thế giới xung quanh, nhận ra sự đa dạng, phong phú mà sự vật, hiện tượng xung quanh đem lại cho chúng. Khi diễn ra q trình so sánh trẻ khơng chỉ nhận ra các dấu hiệu bên ngồi mà cịn biết được các dấu hiệu bên trong để tách bạch rạch rịi sự vật này với sự vật kia. Chính vì thế trí tuệ trẻ ngày càng phát triển, tri thức đến với trẻ ngày càng phong phú hơn.

- So sánh với quá trình tri giác, biểu tượng

So sánh giúp cho chúng ta tri giác sự vật, hiện tượng chính xác hơn. Tri giác là sự phản ánh sự vật, hiện tượng cùng tồn bộ các thuộc tính của chúng trong lúc chúng tác động lên các giác quan của mỗi người. Chính nhờ q trình so sánh mà các giác quan của chúng ta không bị nhầm lẫn giữa sự vật này với sự vật kia.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Ví dụ: Khi nhìn một cái cây chúng ta cảm nhận được thuộc tính riêng về: Màu hoa, kiểu dáng (to hay nhỏ, cao hay thấp), kiểu lá... tri giác nó như một vật khác biệt với các cây khác ở tất cả các đặc điểm về màu hoa, kiểu dáng, kiểu lá...

Mặt khác, đối với biểu tượng, khi chúng ta nhớ lại các sự vật, hiện tượng thì trong trí óc của chúng sẽ xuất hiện hình ảnh của sự vật đã tri giác trước đây, hình ảnh này gọi là tri giác biểu tượng về sự vật, hiện tượng đó. Nói cách khác biểu tượng là hình ảnh cịn đọng lại trong trí não của đối tượng nhận thức khi mà các sự vật, hiện tượng khơng cịn tác động lên các giác quan một cách trực tiếp. Trong não bộ của chúng ta ghi lại rất nhiều biểu tượng về sự vật mà chúng ta bắt gặp. Đối với trẻ em cũng vậy, tất cả các sự vật, hiện tượng xung quanh đều mới lạ, hấp dẫn cho nên trong kho trí nhớ của trẻ tồn tại rất nhiều biếu tượng về các sự vật, hiện tượng. Để không nhầm lẫn giữa sự vật này với sự vật kia thì chính q trình so sánh đã giúp cho con người thấy được sự khác biệt về các biểu tượng trong kho trí nhớ.

- So sánh với sự phát triển tư duy

Tư duy là giai đoạn cao nhất của q trình nhận thức lí tính. Đặc điểm của q trình nhận thức này là hình thành khái niệm, các phán đoán về sự vật, hiện tượng thế giới xung quanh, là sự vận dụng các suy luận trong quá trình nhận thức; là quá trình phản ánh hiện thực gián tiếp và khái quát, phản ánh những đặc điểm chung và bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: Nhờ khái niệm và thơng qua q trình tư duy mà trẻ em có thể nhận thức được hiện tượng cầu vồng mặc dù có thể trẻ chưa được tri giác hiện tượng này bao giờ. Hoặc mặc dù chưa được tham quan Lăng Bác nhưng qua lời kế của người lớn trẻ cũng có thể hình dung được Lăng Bác như thế nào. Sự phát triển tư duy của con người phần lớn nhờ quá trình so sánh. Thật vậy, so sánh đã dẫn đường và chọn tư liệu cho tư duy hoạt động, so sánh giúp cho quá trình tư duy loại suy có một giá trị to lớn. Bởi lẽ, để phân biệt được sự vật này trong muôn vàn sự vật khác thì phải diễn ra quá trình so sánh để loại suy những điều không cần thiết nhằm đưa ra một kết quả chính xác nhất. Bên cạnh đó so sánh là cơ sở của mọi sự phân hóa, phân loại và hệ thống hóa các sự vật, hiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

tượng trong thế giới khách quan. Khi sử dụng so sánh, con người nhận biết được các đặc điểm của mỗi đối tượng mới và của nhóm đối tượng, phân loại được chúng trong thế giới khách quan. Đối với trẻ mẫu giáo, trên cơ sở các đối tượng trẻ lĩnh hội được các khái niệm “bằng nhau”, “nhiều hơn”, “ít hơn”.

Ngồi ra, so sánh còn là chỗ dựa có ý nghĩ và ngơn ngữ, nó giúp cho sự phân biệt của con người trở nên tính tế, chính xác hơn. Như vậy, so sánh có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển tư duy của con người nói chung và trẻ em nói riêng. So sánh giúp cho q trình tư duy chính xác hơn, giúp cho con người phản ánh đúng đặc điểm bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh.

- So sánh với sự phát triển ngơn ngữ:

So sánh và ngơn ngữ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chính nhờ q trình so sánh giúp cho đứa trẻ có vốn từ đa dạng hơn, hiểu nghĩa của từ và biết vận dụng chúng cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. So sánh đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong sự phát triển các quá trình nhận thức của con người nói chung và trẻ em nói riêng.

<b>1.5. Mối quan hệ giữa kỹ năng so sánh với các kỹ năng tư duy khác </b>

So sánh là q trình con người dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các đối tượng nhận thức là sự vật, hiện tượng. Vì vậy mà có thể nói KNSS ln có mối quan hệ mật thiết với q trình phân tích, tổng hợp cũng như q trình trừu tượng hóa, khái qt hóa.

Nhờ có q trình phân tích, tổng hợp mà KNSS được hình thành một cách dễ dàng bởi quá trình con người tư duy trí óc để phân tích đối tượng nhận thức thành những bộ phận, những thuộc tính, những mối liên hệ và mối quan hệ giữa chúng từ đó nhận thức đối tượng được sâu sắc hơn. Sau khi đã phân tích tiếp đến là q tình tổng hợp nhằm hợp nhất những thuộc tính, thành phần dược phân tách nhờ phân tích thành 1 chỉnh thể. Trên cơ sở đó trừu tượng hóa các sự vật, hiện tượng bằng cách gạt bỏ những yếu tố không liên quan và giữ lại những yếu tố cần thiết cho việc so sánh. Cuối cùng, sau khi trải qua quá trình phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa thì con người bắt đầu khái qt hóa và xử lý mọi thơng tin

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

cuối và trả lời được yêu cầu so sánh ban đầu. Chính vì vây có thể nhận thấy rằng, KNSS có mối quan hệ chặt chẽ với các kỹ năng tư duy khác không thể tách rời, nếu thiếu các kỹ năng này thì việc so sánh khó có thể hồn thành được.

<b>1.6. Vai trò của hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng đối với việc hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi </b>

Việc cho trẻ làm quen với biểu tượng số lượng là một trong những nhiệm vụ giáo dục cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 5- 6 tuổi nói riêng. Thông qua hoạt động giúp tạo được sức hấp dẫn và làm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của trẻ. Trong quá trình này trẻ được tạo mọi điều kiện để huy động các giác quan, đồng thời trẻ thường xuyên phải tiến hành các thao tác trí tuệ như; quan sát, so sánh, suy luận, phán đốn, giải thích, nhận xét… Vì vậy, mà tư duy duy và ngôn ngữ của trẻ phát triển.

Hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng góp phần quan trọng vào việc phát triển nhận thức cho trẻ, từ đó tạo cơ sở cho việc hình thành các kỹ năng so sánh. Hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng cho trẻ 5 - 6 tuổi bao gồm nhiều nội dung đa dạng và phong phú xoay quanh về phép đếm, thêm bớt, xếp tương ứng 1: 1… tạo điều kiện cho trẻ phản ánh số lượng của vật một cách chính xác dựa vào quá trình của sự tri giác, cảm giác. Trong hoạt động này sẽ trẻ sẽ nắm được những kiến thức qua việc thực hiện trình tự các thao tác khi so sánh độ lớn của các tập hợp bằng cách thiết lập tương ứng 1:1… Trẻ không chỉ nắm được trình tự các thao tác đó mà đồng thời trẻ cịn nắm được mục đích và phương thức hành động để hình thành kiến thức đó như: trẻ nắm được mối quan hệ số lượng bằng nhau, không bằng nhau KNSS độ lớn các tập hợp bằng biện pháp thiết lập tương ứng 1: 1 (xếp chồng, xếp cạnh), hay ở trẻ hình thành biểu tượng về con số khi trẻ thực hiện trình tự các thao tác so sánh, đếm trong quá trình so sánh độ lớn hai tập hợp có số phần tử hơn kém nhau một phần tử. Trong q trình này ln có sự phối hợp hoạt động của các giác quan khác nhau như: Thị giác và xúc giác. Lúc này sự nhận biết so sánh số lượng của các vật một mặt được hình thành trên cơ sở cảm nhận, mặt khác dựa vào quá trình trẻ tư duy để trẻ thực hiện các kỹ năng so sánh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Trong quá trình cho trẻ làm quen với BTSL, trẻ được làm quen với một số KNSS số lượng như: xếp tương ứng 1: 1, đếm, biến đổi số lượng bằng việc thêm, bớt. Lúc này trẻ lĩnh hội tri thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, giáo viên là người tổ chức, tạo điều kiện cho trẻ được luyện tập các kỹ năng so sánh số lượng.

Ngồi ra, qua việc hình thành cho trẻ biểu tượng số lượng cho trẻ 5- 6 tuổi giúp trẻ nắm được các thuật ngữ chuyên biệt như: ít nhất, nhiều nhất… Qua đó góp phần quan trọng vào việc hình thành cho trẻ các kỹ năng cần thiết khi so sánh số lượng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<b>* Tiểu kết chương 1 </b>

Chương 1 chúng tơi đã tìm hiểu những cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu của mình. Trước tiên là một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu mình đó là các khái niệm: BTSL, biện pháp, KNSS, biện pháp hình thành kỹ năng so sánh thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng. Tiếp theo đặc điểm hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng trong hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng. Đề tài của chúng tôi tập trung nghiên cứu về các biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng vì vậy mà trong đề tài nhiên cứu của mình tơi đã đưa ra quy trình hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5 - 6 tuổi, vai trò của kỹ năng so sánh đối với sự phát triển quá trình nhận thức của trẻ và nêu lên những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng so sánh của trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng. Ngoải ra, chúng tơi cịn trình bày vai trò của hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng đối với việc hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi và mối liên hệ giữa KNSS với kỹ năng tư duy khác.

Qua những cơ sở trên, nội dung chính của đề tài được đảm bảo một phần nào đó về nội dung và có cơ sở để phát triển rộng hơn.

Từ việc nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, khái quát các nguồn tài liệu có liên quan đến việc hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng chúng tôi kết luận ra vấn đề như sau:

- Hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng nó góp phần phát triển trí tuệ cho trẻ, giúp trẻ phân biệt được sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, tìm ra được sự giống và khác nhau trong mối liên quan toán học, tạo tiền đề cho trẻ học tốn ở trường phổ thơng sau này.

- KNSS là khả năng con người vận dụng những hiểu biết, tri thức, kinh nghiệm của bản thân đo đếm sự vật này đối chiếu với sự vật kia nhằm phân biệt chúng trong thế giới khách quan. Kỹ năng so sánh của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng là khả năng trẻ biết vận dụng những kiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

thức để phân biệt sự khác biệt về các mối quan hệ số lượng như: Nhiều hơn, ít hơn, bằng nhau… Có trong các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ.

<b>- Để hình thành KNSS cần thực hiện theo 1 quy trình nhất định đó là: </b>

+ Giai đoạn 1:Giúp trẻ hiểu được mục đích của hoạt động so sánh số lượng của các đối tượng.

+ Giai đoạn 2: Có sự hướng dẫn (làm mẫu) của người lớn trẻ có tri thức về phương thức thực hiện so sánh.

+ Giai đoạn 3: Tạo điều kiện cho trẻ được rèn luyện, phát triển kỹ năng so sánh sơ bộ đã được hình thành ở trẻ.

+ Giai đoạn 4: Trẻ vận dụng những kỹ năng so sánh đã được hình thành vào các hoạt động khác nhau trong thực tiễn.

+ Khi hình hành kỹ năng so sánh cho trẻ cũng cần chú ý đến các yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến quá trình hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ.

Vì vậy, từ những kết luận trên chính là cơ sở để chúng tơi làm căn cứ cho việc điều tra thực trạng và xây dựng biện pháp nhằm hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi trong hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<b>CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH KỸ NĂNG SO SÁNH CHO TRẺ 5- 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN </b>

<b>VỚI BIỂU TƯỢNG SỐ LƯỢNG </b>

<b>2.1. Vài nét về trường mẫu giáo Trà Tân- Huyện Bắc Trà My- Quảng Nam </b>

<i><b>2.1.1. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của nhà trường </b></i>

Trường mẫu giáo Trà Tân được thành lập từ tháng 8 năm 2002. Hằng năm huy động học sinh ra lớp đạt tỷ lệ cao (100%). Trong những năm qua chính quyền địa phương đã tranh thủ các nguồn tài trợ của các tổ chức xã hội để xây dựng cơ sở vật chất khang trang đảm bảo nhu cầu phục vụ cho dạy và học, trẻ mẫu giáo đến trường được nhận các chế độ hỗ trợ theo quy định của Nhà nước như: Chế độ hỗ trợ ăn trưa cho trẻ 3-5 tuổi (TT 29), chế độ hỗ trợ chi phí học tập (TT 49). Cơng tác xã hội hóa giáo dục ngày càng được phụ huynh quan tâm đóng góp xây dựng trường và cho trẻ đi học các lớp bán trú.

Phòng học, trang thiết bị, đồ dùng dạy học và đồ chơi tương đối đảm bảo phục vụ cho dạy và học.

Trường có 11 lớp học, mỗi lớp học đều có phịng sinh hoạt chung, phịng vệ sinh và hiên chơi cho trẻ. Các phòng trong một lớp đều thơng thống về mùa hè, ấm áp về mùa đông và đủ ánh sáng cho trẻ hoạt động. Ngồi ra trường cịn có phịng vi tính, phịng năng khiếu đàn, vẽ cho trẻ tham gia vào các giờ sinh hoạt chiều. Trường có sân chơi với rất nhiều đồ chơi đẹp, hiện đại, phù hợp với trẻ mầm non.

<i><b>2.1.2. Đội ngũ cán bộ giáo viên của nhà trường </b></i>

Trường mẫu giáo Trà Tân có đủ số lượng cán bộ, giáo viên, nhân viên theo quy định: Có tổng số 23/22 nữ, trong đó: Có 3 cán bộ quản lý (1 HT, 2 PHT), 15 giáo viên, 5 nhân viên.

Chất lượng đội ngũ: 100% đạt chuẩn và trên chuẩn.

Có các tổ chun mơn, tổ cơng đồn, Đồn thanh niên, cơng đồn và Chi bộ Đảng độc lập.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<i><b>2.1.3. Số lượng trẻ trong trường </b></i>

Năm học 2016-2017 tồn trường có 11 lớp, lớp/161 trẻ, trong đó có 4 lớp bán trú/70 trẻ. Các lớp nằm rải rát ở các điểm thôn, đa số các lớp học ghép chung 3 độ tuổi(3-5 tuổi), 100% số lớp thực hiện giảng dạy theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ giáo dục quy định.

Trên 50% trẻ là người dân tộc thiểu số nên mặt bằng kiến thức chung của trẻ không đồng đều, 100% trẻ dân tộc thiểu số là hộ nghèo, nhận thức của một số phụ huynh chưa cao. Do vậy chất lượng, điều kiện học tập của trẻ dân tộc thiểu số nói riêng cịn những hạn chế nhất định.

100% Trẻ em 5 tuổi được học 2 buổi/ngày, không có trẻ bỏ học, trẻ mẫu giáo được Nhà nước hỗ trợ từ các chế độ 190.000đ/1trẻ/1 tháng, ngồi ra cịn được các tổ chức, xã hội quan tâm, hỗ trợ cho trẻ trong học tập.

<i><b>2.1.4. Các hoạt động của trường </b></i>

Thực hiện kế hoạch hoạt động năm học 2016- 2017 nhà trường đã tổ chức cho các giáo viên thi “Làm đồ dùng đồ chơi”. Đây là hoạt động phong trào không thể thiếu trong mỗi năm học của nhà trường. Phong trào tận dụng các nguyên phế liệu làm đồ dùng đồ chơi nhằm mục đích phục vụ và nâng cao chất lượng dạy và học của mỗi giáo viên. Bên cạnh về vấn đề về học tập, vui chơi, nhà trường rát quan tâm đến sức khỏe của trẻ. Vì vậy, hàng tháng nhà trường thường xuyên tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho trẻ

Ngồi ra, nhà trường cịn tổ chức tốt các ngày hội ngày lễ cho trẻ như là ngày hội đến trường, tết trung thu, vui hội xuân, vui đón giáng sinh… với sự tham gia của đông đủ cha mẹ trẻ, trẻ, và cán bộ giáo viên toàn trường đã thu được kết quả rất tốt, cha mẹ các cháu rất quan tâm háo hức đón chờ. Ngồi ra, hoạt động tham quan ngoại khóa của trẻ được quan tâm đó là những buổi tham quan làng nghề của địa phương, thắp hương tưởng niệm anh hùng liệt sĩ... nhằm giáo dục trẻ tình cảm uống nước nhớ nguồn lòng tự hào dân tộc.

Danh hiệu thi đua: Trong những năm qua trường mẫu giáo Trà Tân đã đạt được những kết quả và thành tích đáng tự hào. Tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh của nhà trường ln đồn kết, thống nhất. Chi bộ nhà trường liên

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

tục đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, nhà trường đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh, đơn vị văn hoá. Cụ thể: Nhiều năm liền đạt danh hiệu chi bộ trường mẫu giáo trong sạch vững mạnh, được nhà nước khen tặng tập thể lao động xuất sắc liên tiếp từ 2006 dến 2017 và nhà trường được khen thưởng có thành tích xuất sắc thực hiện chun đề nâng cao chất lượng giáo dục phát triển vận động cho trẻ trong trường mầm non…

<b>2.2. Cơ sở thực tiễn của việc hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng </b>

<i><b>2.2.1. Mục đích điều tra thực trạng </b></i>

Quá trình điều tra nhằm tìm hiểu thực trạng việc hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại trường mẫu giáo Trà Tân - Bắc Trà My - Quảng Nam, từ đó đề xuất các biện

<b>pháp nhằm giúp trẻ phát triển tốt các kỹ năng so sánh về biểu tượng số lượng. </b>

<i><b>2.2.2. Địa bàn và khách thể điều tra </b></i>

<i><b>2.2.3. Nội dung điều tra </b></i>

- Thực trạng một số biện pháp hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại trường mẫu giáo Trà Tân- Bắc Trà My- Quảng Nam.

- Thực trạng nhận thức của giáo viên về vấn đề hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại trường mẫu giáo Trà Tân- Bắc Trà My- Quảng Nam.

- Thực trạng việc sử dụng các biện pháp để hình thành kỹ năng so sánh cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

- Thực trạng mức độ hình thành kỹ năng so sánh của trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mẫu giáo Trà Tân - Bắc Trà My - Quảng Nam.

<i><b>2.2.4. Phương pháp điều tra thực trạng </b></i>

- Dự giờ, quan sát hoạt động làm quen với toán trên tiết học ở lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi.

- Trao đổi, đàm thoại cùng giáo viên về việc tổ chức các hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng qua đó hình thành cho trẻ kỹ năng so sánh nhất định.

- Nghiên cứu kế hoạch chăm sóc - giáo dục cho trẻ 5 - 6 tuổi theo chương trình hiện hành.

- Sử dụng phiếu điều tra An két để lấy ý kiến của giáo viên đang giảng dạy tại các lớp mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi của trường mẫu giáo Trà Tân.

- Xử lý số liệu điều tra bằng phương pháp thống kê toán học.

<i><b>2.2.5. Thời gian điều tra </b></i>

- Từ tháng 1/2016- 4/2017

<i><b>2.2.6. Kết quả điều tra </b></i>

<i>2.2.6.1 Thực trạng nhận thức của GV về vấn đề hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi thơng qua hoạt động làm quen với BTSL </i>

Chúng tôi đã tiến hành điều tra 08 giáo viên đang chủ nhiệm 5 lớp mẫu giáo thuộc độ tuổi 5- 6 tuổi tại trường mẫu giáo Trà Tân - Bắc Trà My- Quảng Nam bằng phiếu Anket, sau một thời gian chúng tôi đã tổng hợp được những ý kiến sau:

<i>* Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc hình thành KNSS thơng qua hoạt động làm quen với BTSL cho trẻ 5 - 6 tuổi. </i>

Hình thành KNSS cho trẻ trong quá trình cho trẻ làm quen với BTSL là một vấn đề hết sức cần thiết bởi lẽ nó góp phần làm nền tảng cho sự phát triển của trẻ khi bắt đầu chuyển tiếp lên các bậc học cao hơn. Chính vì thế mà người giáo viên đóng một vai trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển cuả trẻ, một giáo viên tốt khơng chỉ cần phải có tình u thương đối với trẻ, luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình và kiên trì trong quá trình dạy trẻ mà cần có những nhận thức đúng đắn về q trình giáo dục đối với trẻ nói chung và hình hành cho trẻ

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

KNSS thông qua hoạt động làm quen với BTSL nói riêng để từ đó có những phương pháp giáo phù hợp dành cho trẻ.

- Khi tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về vấn đề hình thành KNSS cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với BTSL, chúng tôi đưa ra 3 mức độ đánh giá, kết quả khảo sát giáo viên mầm non cho thấy GV đánh giá cao vai trò của việc hình thành KNSS số lượng cho trẻ cụ thể như sau:

<b>Bảng 2.1 : Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc hình thành KNSS thơng qua hoạt động làm quen với BTSL cho trẻ 5- 6 tuổi </b>

Qua bảng phân tích số liệu và quan sát thực tế cho thấy đa số GV mầm non nhận thức về vai trò của việc hình thành KNSS cho trẻ thơng qua hoạt động làm quen với BTSL ở mức độ cao. Thực tế cho thấy đây là một dấu hiệu đáng mừng

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

vì trong nhận thức của mỗi GV đã thấy được sự quan trọng của việc hình thành KNSS cho trẻ thông qua hoạt động làm quen với BTSL.

Nhằm tìm hiểu sâu hơn nhận thức của GV về tầm quan trọng của việc hình thành KNSS số lượng cho trẻ 5- 6 tuổi, chúng tôi đã đưa ra tìm hiểu nhận thức của GV về sự cần thiết của việc hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi.

<i>* Nhận thức của GV về sự cần thiết của việc hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi </i>

<b>Bảng 2.2: Nhận thức của GV về sự cần thiết của việc hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi </b>

<b>STT <sup>Nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của việc </sup></b>

Như vây tất cả GV tham gia vào nghiên cứu này đều nhận thức rõ về việc hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với BTSL là

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

cần thiết, khơng chỉ đối với việc hình thành KNSS mà cả đối với đời sống hàng ngày của trẻ.

Nhằm mong muốn tìm hiểu sâu hơn về nhân thức của GV về vấn đề hình thành KNSS, chúng tôi đã tiếp tục tiến hành điều tra nhận thức của GV về nguyên nhân hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi

* Nhận thức của GV về việc hình thành KNSS cho trẻ 5 - 6 tuổi trong các hoạt động làm quen với biểu tượng toán

<b>Bảng 2.3: Nhận thức của GV về việc hình thành KNSS cho trẻ 5 - 6 tuổi trong các hoạt động làm quen với biểu tượng toán </b>

<b>STT </b>

<b>Nhận thức của GV về việc hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi trong các hoạt động làm quen với biểu tượng tốn </b>

<b>TL % </b>

+ Hoạt động hình thành BTSL

Qua phiếu điều tra chỉ có 3 GV (chiếm 37,5%) sử dụng ở mức độ thường xuyên, trong khi đó có 5 GV (chiếm 62,5%) chỉ thỉnh thoảng tiến hành hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi trong hoạt động làm quen với BTSL. Sở dĩ như vậy là do GV cho rằng nội dung chương trình cho trẻ làm quen với biểu tượng toán rất đa dạng cho nên GV cần có sự phân bổ các tiết học cho phù hợp, không thể chỉ tập trung vào một nội dung học. bên cạnh đó một số GV cịn cho biết đối với việc hình thành cho trẻ KNSS trong tiết học hình thành BTSL khá phức tạp và cầu kỳ, GV cần phải chuẩn bị đồ dùng đa dạng và phong phú để gây hứng thú cho trẻ. Trong khi đó cơng việc của một người GV khá là bận rộn khi đã phải bắt đầu công việc từ 6h15 và kết thúc có khi là 6h tối khiến cho GV khơng có thời gian để chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho tiết dạy.

+ Hình thành biểu tượng kích thước

Qua bảng 2.5, có đến 6 GV (chiếm 75%) sử dụng ở mức độ thường xuyên, 2 GV (chiếm 25%) chỉ sử dụng ở mức độ thỉnh thoảng. Một số GV cho biết đối với việc hình thành KNSS cho trẻ 5 - 6 tuổi được tiến hành trong tiết học hình thành biểu tượng kích thước được GV quan tâm và chú trọng vì để lên một tiết dạy nhằm hình thành KNSS cho trẻ thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng kích thước, GV có thể tận dụng đồ dùng có sẵn có ở trong lớp học như. Bàn, ghế, sách, vở…..Điều quan trọng nhất GV cho rằng, KNSS kích thước tương đối khó và phức tạp, đặc biệt trẻ dễ nhầm lẫn giữa các chiều đo kích thước với nhau. Vì vậy, giáo viên rất quan tâm, chú trọng đến việc hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi trong tiết dạy làm quen với biểu tượng kích thước.

+ Hình thành biểu tượng hình dạng.

Có 3 GV (chiếm tỷ lệ 37,5%) sử dụng ở mức độ thường xuyên, 4 GV (chiếm 50%) sử dụng thỉnh thoảng và 1 GV (chiếm 12,5%) không bao giờ... Điều này có thể thấy rằng GV ít quan tâm đến việc hình thành KNSS thơng qua hoạt động làm quen với biểu tượng hình dạng. Khi được hỏi về vấn đề này GV cho biết hình thành biểu tượng hình dạng khơng giống như hình thành BTSL và kích thước. Với biểu tượng hình dạng ở trẻ 5- 6 tuổi đã phân biệt và nắm được những đặc điểm, đặc trưng của các hình vng, hình trịn, hình chữ nhật và hình tam giác, GV chỉ cần luyện tập để giúp trẻ sử dụng chúng như những hình chuẩn để xác định hình dạng của những vật có xung quanh trẻ. Vì vậy, KNSS về biểu

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

tượng hình dạng cũng ít được địi hỏi và đặt nặng, trẻ chủ yếu quan sát và phân tích so sánh về hình dạng, số cạnh...

Từ thực trạng trên có thể thấy rằng nhận thức của GV về mức độ hình thành KNSS thơng qua hoạt động làm quen với biểu tượng tốn có sự chênh lệch, không đồng đều. Hình thành KNSS về kích thước được GV chú trọng và tiến hành thường xuyên chiếm tỷ lệ cao, trong khi đó việc hình thành về KNSS số lượng và hình dạng ít được GV chú ý và quan tâm. Điều này, cho thấy GV chưa có sự nhận thức về tầm quan trọng của việc hình thành KNSS cho trẻ trong hoạt động làm quen với biểu tượng toán.

<i>* Nhận thức của GV về biểu hiện mức độ nắm KNSS số lượng cho trẻ 5 - 6 tuổi </i>

<b>Bảng 2.4: Nhận thức của GV về biểu hiện mức độ nắm KNSS số lượng cho trẻ 5 - 6 tuổi </b>

<b><small> </small></b>

<b>STT <sup>Nhận thức của GV về biểu hiện mức độ nắm KNSS </sup></b>

<b>số lượng cho trẻ 5 - 6 tuổi <sup>SL </sup></b>

<b>TL % </b>

1 <sup>Trẻ thực hiện tốt các yêu cầu so sánh số lượng mà cô </sup>

2 Trẻ hiểu được mục đích của việc so sánh số lượng 1 12,53 Trẻ khái quát chính xác về mối quan hệ của các số lượng 3 37,54 <sup>Trẻ nắm được các biện pháp so sánh khi tiến hành so </sup>

Khi được hỏi về biểu hiện của mức độ trẻ nắm được KNSS về số lượng được biểu hiện như thế nào, đa số các GV đều cho rằng trẻ nắm được KNSS số lượng biểu hiện ở việc trẻ thực hiện tốt các yêu cầu so sánh số lượng mà cô giao cho 4 ý kiến (chiếm 50 %) và biết khái quát chính xác về mối quan hệ của các số lượng có 3 ý kiến (chiếm 37,5%), trong khi đó biểu hiện ở việc trẻ nắm được mục đích của việc so sánh số lượng có 1 GV (chiếm 12,5%). Ngoài ra, biểu hiện trẻ nắm được các biện pháp so sánh khi tiến hành so sánh số lượng khơng có GV nào lựa chọn chiếm tỷ lệ 0%

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Như vậy, ta thấy rằng nhận thức của GV mầm non về việc hình thành KNSS số lượng cho trẻ 5 - 6 tuổi còn đơn giản và sai lệch, họ chỉ mới dừng lại ở việc thực hiện tốt các yêu cầu so sánh mà cô giao cho và quan tâm đến việc phản ánh số lượng của các nhóm đối tượng. Vậy thử hỏi rằng nếu trẻ chỉ biết dừng lại ở việc so sánh số lượng theo yêu cầu của GV nhưng lại không quan tâm đến việc trẻ nắm được biện pháp khi so sánh thì liệu rằng kết quả có chính xác khơng? Mặt khác, nếu chỉ dựa trên biểu hiện này thì trẻ chỉ được cung cấp về kiến thức về cách so sánh mà chưa thể có KNSS số lượng được.

Tuy nhiên có một thực tế khó khăn đối với GV mầm non để có thể tiến hành việc hình thành KNSS cho trẻ là do số lượng trẻ quá đơng trong một lớp với diện tích của lớp học lại nhỏ hẹp, điều này không chỉ làm cho lớp học luôn ở tình trạng thiếu khơng gian mà cịn ảnh hưởng đến tính cá biệt hố trong q trình dạy trẻ, kết quả học tập cũng ít nhiều bị ảnh hưởng.

<i>* Nhận thức của GV về hình thức tổ chức nhằm hình thành KNSS cho trẻ 5 - 6 tuổi thơng qua hoạt động làm quen với BTSL </i>

<b>Bảng 2.5: Nhận thức của GV về hình thức tổ chức nhằm hình thành KNSS cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với BTSL </b>

<b>Mức độ Thường </b>

<b>xuyên </b>

<b>Thỉnh thoảng </b>

<b>Không bao giờ SL <sup>TL </sup></b>

<b>TL % <sup>SL </sup></b>

<b>TL% </b>

1 <sup>Hoạt động tốn có chủ đích </sup> 5 62,5 3 37,5 0 0 2 <sup>Hoạt động chơi ngoài trời </sup> 2 25 5 62,5 1 12,53 <sup>Hoạt động vui chơi ở các góc </sup> 0 0 6 75 2 25 4 <sup>Trong sinh hoạt hằng ngày </sup> 1 12,5 3 37,5 4 50

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Qua bảng số liệu và phiếu trưng cầu ý kiến cho thấy:

+ Đối với hình thức sử dụng hoạt động tốn có chủ đích có 5 GV (chiếm 62,5%) thuộc diện điều tra cho rằng họ thường xuyên sử dụng hình thức này và 3 GV (chiếm 37,5%) sử dụng ở mức độ thỉnh thoảng và 0 GV (chiếm 0%) không bao giờ sử dụng. Qua đó, ta thấy được phần lớn GV thường hình thành KNSS được tiến hành trong hoạt động làm quen với BTSL.

+ Đối với hoạt động chơi ngoài trời: Có 2 GV (chiếm 25%) thường xuyên sử dụng hoạt động này để hình thành KNSS cho trẻ. Trong khi đó, có 5 GV (chiếm 62,5%) chỉ ở mức độ thỉnh thoảng. Cịn lại 1 GV (chiếm 12,5%) khơng bao giờ sử dụng. Điều này có thể thấy tỷ lệ GV hình thành KNSS cho trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động ngoài trời chỉ ở mức độ trung bình, GV cho rằng một ngày khi trẻ ở trường mầm non sẽ có một hoạt động ngồi trời cho trẻ. Với hoạt động này trẻ sẽ được trị chuyện với cơ về những hiểu biết có lên quan đến chủ đề ở trường mầm non đang thực hiện và trẻ được tham gia các trò chơi dân gian là chủ yếu. Trong khi đó thời gian quy định cho HĐNT chỉ có 30 - 35 phút, cho nên GV khơng có thời gian trong việc hình thành KNSS được tổ chức trong hoạt động này.

+ Hoạt động vui chơi ở các góc: Khơng có GV nào thường xuyên tổ chức trong hoạt động này. Và 6 GV (chiếm 75%) thỉnh thoảng hình thành KNSS cho trẻ được tiến hành trong hoạt động góc. Cịn lại 2 GV (chiếm 25%) không bao giờ sử dụng. Qua bảng phân tích số liệu có thể thấy GV khơng coi trọng vai trị của hoạt động góc trong q trình hình thành KNSS số lượng, GV cho rằng hoạt động góc là một hoạt động thường tổ chức cho trẻ chơi theo nhóm với nhau, vì vậy sẽ rất khó để hình thành KNSS cho trẻ trong hoạt động này.

+ Trong sinh hoạt hằng ngày: Có 1 GV (chiếm 12,5%) khẳng định thường xuyên hình thành KNSS cho trẻ thông qua sinh hoạt hằng ngày và 3 GV (chiếm 37,5%) thỉnh thoảng. Trong khi đó có tới 4 GV (chiếm 50%) lại khẳng định không bao giờ. Qua đó, có thể thấy GV ít chú tâm đến việc hình thành KNSS được tổ chức trong sinh hoạt hằng ngày bởi vì nhiều GV cho rằng đơi lúc GV có hình thành cho trẻ KNSS được lồng ghép trong sinh hoạt hằng ngày của trẻ nhưng ở mật độ rất thấp, một phần do yếu tố công việc của người GV rất vất vả

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

vừa phải đảm bảo giữa ni dưỡng, chăm sóc với giáo dục trẻ cho nên GV khơng có thời gian để hình thành KNSS cho trẻ thơng qua hoạt động này.

+ Hoạt động học khác được 2 GV (chiếm 25%) thừa nhận thỉnh thoảng có sử dụng và 6 GV (chiếm 75%) khẳng định không bao giờ. Qua đó có thể thấy GV hình thành KNSS được tổ chức trong các hoạt động học khác chiếm tỷ lệ rất thấp. Nguyên nhân là GV cho rằng các hoạt động học khác đều có những yêu cầu về nội dung day học riêng biệt, khó lồng ghép với làm quen với biểu tượng tốn nói chung và KNSS số lựơng nói riêng.

Nhìn chung, để hình thành KNSS cho trẻ GV lựa chọn tổ chức dưới hình thức hoạt động tốn có chủ đích ở mức độ thường xun chiếm tỷ lệ cao, trong khi đó lại hạn chế trong việc tổ chức hình thành KNSS cho trẻ dưới hình thức các mơn học hay các hoạt động khác. Vì GV ln suy nghĩ KNSS số lượng là một trong những nội dung học nằm trong chương trình cho trẻ làm quen với biểu tượng tốn cho nên chỉ có thể tổ chức dưới mơn học này mới đạt được hiệu quả. Từ đó có thể thấy rằng mặc dù GV đã nhận thức được tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc hình thành KNSS thơng qua hoạt động làm quen với BTSL nhưng còn nhận thức ở mức đơn giản, chưa đầy đủ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<i>2.2.6.2 Thực trạng các biện pháp mà GV sử dụng nhằm hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại trường mẫu giáo Trà Tân – Bắc Trà My- Quảng Nam </i>

<b>Bảng 2.6. Thực trạng các biện pháp mà GV sử dụng nhằm hình thành KNSS cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng tại trường mẫu giáo Trà Tân – Bắc Trà My- Quảng Nam </b>

<b>Thường xuyên </b>

<b>Thỉnh thoảng </b>

<b>Không bao giờ SL<sup>TL </sup></b>

<b>TL % <sup>SL </sup></b>

<b>TL % </b>

1 <sup>Lập kế hoạch cho nội dung hình </sup>

2 <sup>Sử dụng hành động mẫu kết hợp lời </sup>

3 Sử dụng trò chơi học tập 1 12,5 2 25 5 62,54 Sử dụng tình huống có vấn đề 2 25 1 12,5 5 62,55

Tạo cơ hội cho trẻ được vận dụng KNSS số lượng đã được học trong cuộc sống.

Dựa trên kết quả điều tra ở bảng trên, ta thấy: nhìn chung, GV đã sử dụng nhiều biện pháp sư phạm trong quá trình dạy trẻ so sánh số lượng trong đó biện pháp 1,2,4 thường xuyên được sử dụng hơn. Cụ thể như sau:

+ Biện pháp lập kế hoạch cho nội dung hình thành KNSS cho trẻ 5 - 6 tuổi Qua 8 phiếu có 5 GV (chiếm 62,5 %) trả lời rằng họ thường xuyên sử dụng biện pháp này. Tiếp đến có 2 GV (chiếm 25%) chỉ thỉnh thoảng lập kế hoạch cho nội dung hình thành KNSS số lượng cho trẻ. Cịn lại 1 GV (chiếm 12,5%) khơng bao giờ sử dụng biện pháp này. Điều này có thể thấy GV sử dụng biện pháp này ở mức độ thường xuyên chiếm tỷ lệ tương đối cao. Song qua thực tế cho thấy,

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

phần lớn GV ít xây dựng kế hoạch về hình thành KNSS số lượng trong hoạt động giảng dạy, nếu có thì cũng rất sơ sài, đơn giản.

+ Biện pháp sử dụng hành động mẫu kết hợp lời giảng giải.

Có 6 GV (chiếm 75%) thường xuyên sử dụng hành động mẫu kết hợp lời giảng giải để dạy trẻ KNSS thông qua hoạt động làm quen với BTSL và 2 GV (chiếm 25%) chỉ thỉnh thoảng sử dụng biện pháp này. Qua quan sát, chúng tôi nhận thấy đa số các giáo viên đã sử dụng rất tốt biện pháp này khi dạy trẻ so sánh số lượng. Tuy nhiên lời giảng giải kèm theo hành động mẫu thường chưa được GV quan tâm, chú ý nhiều, nên việc chuẩn bị cịn chưa được kỹ, vì vậy lời giảng giải của GV kém mạch lạc, rõ ràng nên hiệu quả chưa cao.

+ Biện pháp tăng cường sử dụng trò chơi học tập nhằm rèn luyện KNSS cho trẻ được rất ít GV quan tâm sử dụng, chỉ có 1 GV (chiếm 12,5%) là thường xuyên sử dụng. Trong khi đó có 2 GV (chiếm 25%) chỉ thỉnh thoảng sử dụng trò chơi học tập để rèn luyện kỹ năng cho trẻ. Còn lại 5 GV (chiếm 62,5%) không bao giờ sử dụng biện pháp này. Qua điều tra thực trạng và bảng phân tích số lượng, chúng tôi nhận thấy rằng các GV ở các lớp mẫu giáo lớn thuộc phạm vi điều tra rất hạn chế trong việc sử dụng biện pháp này. Họ cho rằng mỗi một giờ học chỉ cần sử dụng một trò chơi học tập là đủ. Mặt khác, những trò chơi học tập GV đưa ra quá quen thuộc với trẻ, do đó khiến cho trẻ có cảm giác nhàm chán, làm giảm hứng thú của trẻ đối với nhiệm vụ học tập.

+ Sử dụng tình huống có vấn đề

Có 2 GV (chiếm 25% ) cho rằng thường xuyên sử dụng biện pháp này và 1 GV (chiếm 12,5%) chỉ thỉnh thoảng sử dụng tình huống có vấn đề nhằm hình thành KNSS số lượng cho trẻ. Trong khi đó có đến 5 GV (chiếm 62,5%) khơng bao giờ sử dụng biện pháp này. Qua điều tra phiếu trưng cầu ý kiến chúng tôi nhận thấy GV có sử dụng tình huống có vấn đề nhằm hình thành KNSS cho trẻ nhưng ở mức độ rất ít. Trên thực tế các tình huống có vấn đề mà GV đưa ra không mới lạ và không gây được sự hứng thú đối với trẻ dẫn đến trẻ không mấy quan tâm, chú ý đến giờ học về so sánh BTSL. Vì vậy, làm ảnh hưởng đến kỹ năng so sánh của trẻ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

+ Tạo cơ hội cho trẻ được vận dụng KNSS đã học trong cuộc sống.

Có 2 GV (chiếm 25%) trả lời thường xuyên sử dụng biện pháp này. Bên cạnh đó có 2 GV (chiếm 25%) chỉ thỉnh thoảng tạo cơ hội cho trẻ được vận dụng KNSS đã học vào các tình huống khác nhau. Cịn lại khơng sử dụng biện pháp này có đến 4 GV (chiếm 50%). Thực tế chúng tơi quan sát thấy thì rất ít khi GV tổ chức cho trẻ được có cơ hội vận dụng các KNSS vào các tình huống khác nhau trong cuộc sống. Chính điều này cũng góp phần làm cho KNSS số lượng của trẻ bị hạn chế.

Như vậy, về cơ bản GV mầm non đã sử dụng các biện pháp hình thành so sánh số lượng cho trẻ 5- 6 tuổi. Tuy nhiên, không phải mọi giáo viên đều sử dụng tất cả các biện pháp đã được liệt kê ở bảng 2.6 hơn nữa họ lại không sử dụng chúng một cách thường xuyên. Mặt khác, các GV chưa có sự linh hoạt trong việc sử dụng các biện pháp với nhau, vẫn tồn tại kiểu học đồng loạt, phương pháp dạy chưa thực sự hướng tới trẻ. Về hình thức tổ chức thì cịn khá đơn điệu, chưa tận dụng được kinh nghiệm đã có của trẻ vào bài dạy. Bên cạnh đó, giáo viên chưa có sự tận dụng biện pháp ứng dụng cơng nghệ thơng tin nhằm hình thành KNSS số lượng cho trẻ cũng như chưa sử dụng hệ thống bài tập nhằm hình thành KNSS số lượng cho trẻ. Hơn nữa, số lượng trẻ trong lớp q đơng khiến GV ít có cơ hội quan tâm tới từng trẻ, trẻ khơng được thường xuyên luyện tập để ứng dụng những kiến thức, kỹ năng về so sánh đã học vào cuộc sống, do đó dẫn đến tình trạng một số trẻ không nắm được biện pháp so sánh, hoặc nắm biện pháp so sánh sai nhưng không được sửa chữa kịp thời.

Vì thế, trẻ thường khơng có KNSS và cũng không mấy hứng thú với bài tập so sánh số lượng do cô đưa ra. Do vậy mà hiệu quả của việc hình thành KNSS thơng qua hoạt động làm quen với BTSL cho trẻ là chưa cao.

<i>* Nhận thức của GV về những khó khăn thường gặp phải trong quá trình hình thành KNSS cho trẻ thông qua hoạt động làm quen với BTSL. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<b> Bảng 2.7: Những khó khăn thường gặp phải trong q trình hình thành KNSS cho trẻ thơng qua hoạt động làm quen với BTSL. </b>

<b>Thường xuyên </b>

<b>Thỉnh thoảng </b>

<b>Không bao giờ SL <sup>TL </sup></b>

<b>% <sup>SL </sup>TL </b>

<b>% <sup>SL </sup>TL </b>

<b>% </b>

1 Trẻ không chú ý đến tiết học 7 87,5 1 12,5 0 0

3 Cơ sở vật chất không đảm bảo 6 75 2 25 0 0 4 <sup>GV không gây hứng thú cho trẻ </sup>

trong quá trình giảng dạy <sup>1 </sup> <sup>12,5</sup> <sup>5 </sup> <sup>62,5 </sup> <sup>2 </sup> <sup>25 </sup>Qua bảng 2.7 có thể thấy GV gặp rất nhiều khó khăn trong q trình giảng dạy giúp trẻ hình thành KNSS thông qua hoạt động làm quen với BTSL. Cụ thể đó là những khó khăn sau:

+ Trẻ không chú ý đến tiết học: Có 7 GV (chiếm 87,5%) khẳng định họ thường xuyên gặp phải khó khăn này trong quá trinh giảng dạy. Còn lại 1 GV ( chiếm 12,5%) thỉnh thoảng vấp phải vấn đề này. Điều đó, cho thấy được rằng ở độ tuổi của trẻ 5 - 6 tuổi, trẻ rất tinh nghịch và hiếu động với thế giới xung quanh cho nên trong quá trình tổ chức tiết dạy nhằm hình thành KNSS về BTSL GV cần chuẩn bị đồ dùng đa dạng, phong phú để trẻ thực hành so sánh. Song khi GV phát đồ dùng để trẻ luyện tập thao tác so sánh thì trẻ chủ yếu chơi với đồ dùng đó mà ít quan tâm chú ý đến hành động hướng dẫn của cơ. Vì vậy, tiết dạy về hình thành KNSS cho trẻ khơng đạt được yêu cầu khi trẻ không chịu tập trung, chú ý.

+ Thời gian không đủ: Có 3 GV (chiếm 37,5%) thường gặp khó khăn về thời gian trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục nhằm hình thành KNSS về số lượng cho trẻ. Đồng thời, 5 GV (chiếm 62,5%) khẳng định thỉnh thoảng họ

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

vấp phải vấn đề khó khăn này, vì mỗi cá nhân có một khả năng tiếp nhận kiến thức khác nhau cho nên tùy vào trẻ, có trẻ đã có thể có KNSS số lượng dưới sự hướng dẫn của trẻ, cũng có trẻ GV phải hướng dẫn nhiều lần trẻ mới nắm được kỹ năng này. Trong khi đó thời gian quy định một tiết dạy mẫu giáo lớn từ 30 - 35 phút là thời gian quá ngắn để GV truyền thụ hết lượng kiến thức cần truyền thụ.

+ Cơ sở vật chất khơng đảm bảo: Có 6 GV (chiếm 75%) nhận định họ thường xuyên gặp khó khăn về cơ sở vật chất trong quá trình hình thành KNSS thông qua hoạt động làm quen với BTSL. Còn lại 2 GV (chiếm 25%) thỉnh thoảng gặp phải sự khó khăn này. Sở dĩ như vậy là do hoạt động làm quen với biểu tượng nói chung và làm quen với BTSL nói riêng là mơn học hết sức khô khan đối với người đối với người dạy cũng như người học, cho nên quá trình tổ chức tiết dạy cần phải có đầy đủ cơ sở vật chất như: máy tinh, đồ dùng... nhằm kích thích sự hứng thú cho trẻ. Ngồi ra, có 2 GV khơng bao giờ gặp phải khó khăn nào

+ GV không gây được hứng thú cho trẻ trong quá trình dạy: GV thường xuyên gặp khó khăn này có 1 GV ( chiếm 12,5% ). Bên cạnh đó có 5 GV (chiếm 62,5%) cho rằng thỉnh thoảng họ lại gặp khó khăn trong việc tạo hứng thú cho trẻ trong tiết học hình thành KNSS số lượng cho trẻ.

Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy GV gặp nhiều khó khăn trong việc hình thành KNSS thông qua hoạt động làm quen với BTSL, những khó khăn này gây ra nhiều mặt hạn chế trong cơng tác giáo dục trẻ nói chung và hình thành KNSS cho trẻ nói riêng. Vì vậy, kết quả khảo sát những khó khăn này sẽ giúp chúng tơi đề ra những biện pháp nhằm giúp trẻ hình hành KNSS.

<i>* Nhận thức của GV về nguyên nhân khách quan dẫn đến những khó khăn thường gặp phải trong q trình hình thành KNSS cho trẻ thơng qua hoạt động làm quen với BTSL. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<b>Bảng 2.8 Nguyên nhân khách quan dẫn đến những khó khăn thường gặp phải trong quá trình hình thành KNSS cho trẻ thông qua hoạt động làm quen với BTSL </b>

<i>* Nguyên nhân chủ quan về những khó khăn thường gặp phải trong quá trình hình thành KNSS cho trẻ thông qua hoạt động làm quen với BTSL. </i>

<b>Bảng 2.9: Nguyên nhân chủ quan dẫn những khó khăn thường gặp phải trong quá trình hình thành KNSS cho trẻ thông qua hoạt động làm quen với BTSL. </b>

4 <sup>Nhà trường chưa có sự quan tâm và tạo điều kiện để </sup>

giáo viên hình thành kỹ năng so sánh số lượng <sup>0 </sup> <sup>0 </sup>

</div>

×