Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 17 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>---BÀI THU HOẠCH</b>
<b>KỸ NĂNG TRANH TỤNG TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH</b>
<b>Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2022Mã số hồ sơ: LS.DS07/DA1Học phần: Thực tậpNgày thực hành: 10/03/2024Giáo viên hướng dẫn:</b>
<b>Họ tên học viên: Vũ Văn HùngSinh ngày 08 tháng 05 năm 1992</b>
<b>SBD 125 Lớp C2 LS.23.1 T7CN tại Hà Nội</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">2. PHẦN TRÌNH BÀY CỦA ĐƯƠNG SỰ (NGUYÊN ĐƠN)...23. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA CỦA LUẬT SƯ CỦA NGUYÊN ĐƠN...44. LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN...5 PHẦN NHẬN XÉT CÁC VAI DIỄN...
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>1. TĨM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN</b>
Bà Hồng Thị Hảo và ông Nguyễn Văn Nguyệt kết hôn trên cơ sở tự nguyện, cóđăng ký kết hơn tại UBND xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách nay là thành phố HảiDương vào ngày 26/03/1999. Ngày 02/01/2016 do nhận thấy bà Hảo nộp đơn khởikiện tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương để yêu cầu được ly hôn với ôngNguyệt; yêu cầu được nuôi 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi (sinh ngày04/01/2001) và cháu Nguyễn Đức Anh (sinh ngày 13/06/2007) và không yêu cầu cấpdưỡng, yêu cầu chia đôi tài sản chung là nhà đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diệntích 216 m2 đất tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.
Sau quá trình làm việc tại giai đoạn chuẩn bị xét xử bà Hảo có trình bày và ucầu như sau:
Về ly hơn bà Hảo trình bày do tình cảm vợ chồng khơng cịn, không thể chungsống được nên yêu cầu được ly hôn với ơng Nguyệt.
Về việc ni con phía bà Hảo trình bày bà và ơng Nguyệt có 02 con chung làcháu Nguyễn Thị Nhi (04/1/2001) và cháu Nguyễn Đức Anh (13/06/2007) và có ucầu được ni cả hai cháu mà khơng yêu cầu ông Nguyệt cấp dưỡng.
Về việc chia tài sản chung phía bà Hảo trình bày bà và ơng Nguyệt có tài sảnchung là nhà đất tại thơn Thượng Trệt I, xã Thượng Đạt. Đất có số thửa 496 tờ bản đồsố 01 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà và ông Nguyệt từnăm 2005. Trên đất có các tài sản là nhà, cơng trình phụ, tường bao, bể nước, giếngđào, chuồng lợn, chuối và một số cây ăn quả khác. Đối với phần tài sản trên đất bàkhơng có có u chia và chỉ yêu cầu được chia một nửa diện tích đất trên và xin đượclấy phần khơng có tài sản.
Sau q trình làm việc tại giai đoạn chuẩn bị xét xử ơng Nguyệt có trình bày vàu cầu như sau:
Về ly hơn ơng Nguyệt nhất trí ly hơn với bà Hảo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Về nuôi con ông Nguyệt không đồng ý cho bà Hảo nuôi 02 con chung, đề nghịgiao cháu Anh cho ông trực tiếp nuôi dưỡng và hiện nay ông đang trực tiếp nuôi cháuAnh, bà Hảo nuôi cháu Nhi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.
Về tài sản chung đối với phần tài sản trên đất ông thống nhất chia đôi và xinđược nhận bằng hiện vật, trả tiền lại cho bà Hảo. Còn phần đất ơng trình bày phần đấtđó là của bố mẹ anh em ông, không phải là của chung giữa ông và bà Hảo, đề nghịkhông chia đất cho bà Hảo. Bà Hảo khơng có một chút cơng sức nào trong việc tôntạo, bồi đắp thửa đất mặc dù bà Hảo sống từ năm 1999 đến năm 2014 khi bà Hảo bỏđi. Và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ơng và bà Hảo vì chorằng đây là tài sản của cha mẹ anh em ông Nguyệt Hảo và cấp lại cho hộ gia đình bàNguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang.
Vào khoảng năm 2014 bà Hảo và ông Nguyệt đã thế chấp tài sản chung của vợchồng là quyền sử dụng đất nêu trên để vay 30.000.000 đồng tại Ngân hàng nôngnghiệp và phát triển nông thôn – chi nhánh Nam sách. Hiện nay ông Nguyệt đã trảđược 10.000.000 đồng, số tiền nợ còn lại là 20.000.000 đồng. Trong quá trình giảiquyết vụ việc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng nông nghiệp và pháttriển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh khu Tiền Trung, thành phố Hải Dương, tỉnhHải Dương cũng đưa ra ý kiến là yêu cầu ông Nguyệt và bà Hảo thanh tốn số tiền cịnnợ của Ngân hàng là: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) và số tiền lãi phát sinhcho tới khi tất toán hợp đồng.
<b>2. PHẦN TRÌNH BÀY CỦA ĐƯƠNG SỰ (NGUYÊN ĐƠN)2.1. Nội dung vụ án</b>
Bà Hồng Thị Hảo và ơng Nguyễn Văn Nguyệt sống chung và có đăng ký kếthơn ngày 26/03/1999. Sau khi cưới ông bà chung sống được khoảng thời gian là 2 nămthì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai ông bà không hợp nhau, ông Nguyệthay đi chơi về chửi bới, đánh đập vợ con. Chính vì vậy bà Hảo và ông Nguyệt đã sốngly thân được một thời gian từ này 14/12/2014 đến nay. Nay nhận thấy mâu thuẫn giữahai vợ chồng khơng thể hồ giải, cuộc sống chung của vợ chồng không thể kéo dài nênbà Hảo đã nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết những vấn đề sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">- Về quan hệ hơn nhân: Bà Hảo u cầu được tồ án nhân dân thành phố HảiDương giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyệt.
- Về con chung bà Hảo và ơng Nguyệt có hai con chung là cháu Nguyễn Thị Nhivà cháu Nguyễn Đức Anh. Sau khi ly hôn bà Nguyệt yêu cầu được nuôi cả hai cháumà không yêu cầu ông Nguyệt thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung bà Hảo và ơng Nguyệt có khối tài sản chung hình thành trongthời kỳ hôn nhân là đất và tài sản trên đất có số thửa 496 tờ bản đồ số 01 đã được cấpgiấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà và ông Nguyệt từ năm 2005. Bà Hảokhông yêu cầu chia tài sản trên đất mà chỉ yêu cầu chia một nửa diện tích đất trên bằnghiện vật và xin được lấy phần khơng có tài sản và khơng đồng ý với yêu cầu huỷ giấychứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyệt.
<b>2.2. Các chứng cứ chứng minh.</b>
- Về quan hệ hôn nhân: Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 09, Quyển số:01/1999 do UBND xã Thượng Dật, Huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương cấp ngày26/03/1999; Luật hơn nhân và gia đình năm 2014;
- Về con chung: Giấy khai sinh của hai cháu Nguyễn Thị Nhi và Nguyễn ĐứcAnh; Luật hơn nhân và gia đình năm 2014;
- Về tài sản chung: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn VănNguyệt và Hoàng Thị Hảo; Ấn lệ số 03/2016/AL về vụ án ly hôn được Hội đồng Thẩmphán Tịa án nhân dân tối cao thơng qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bốtheo Quyết định 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tịa án nhândân tối cao; Luật hơn nhân và gia đình năm 2014.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>3. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA CỦA LUẬT SƯ CỦA NGUYÊN ĐƠN3.1. Câu hỏi chuẩn bị để hỏi bị đơn</b>
1/ Ông và bà Hảo kết hôn năm nào? Sau khi ông bà kết hơn thì ơng bà ở tại đâu?2/ Vợ chồng ông bà bắt đầu sinh sống tại thửa đất 496 tờ bản đồ số 01 vào thờigian nào?
3/ Hiện ơng và bà Hảo có cịn sống chung với nhau khơng?
4/ Ơng cho biết ai là người đăng ký kê khai quyền sử dụng đất đối với thửa đất496 tờ bản đồ số 01?
5/ Ai là người đóng tiền thuế sử dụng đất hàng năm đối với thửa đất trên?6/ Ông cho rằng UBND thành phố Hải Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sửdụng đất cho ông và bà Hảo là sai, vậy tại sao thời điểm nhận được Giấy chứng nhậnquyền sử dụng đất ông không khiếu nại hay yêu cầu cấp lại?
7/ Khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông và bà Hảo giađình ơng có ai phản đối về việc này khơng?
8/ Cơng việc hiện nay của ơng là gì? Thu nhập bình qn hàng tháng của ơng làbao nhiêu? Có điều gì thể hiện việc này khơng?
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">9/ Theo lời khai của chị Hảo và cháu Đức Anh thì ơng khơng cho cháu Đức Anhgặp mẹ, điều này có đúng sự thật hay khơng?
<b>3.2. Câu hỏi chuẩn bị hỏi nguyên đơn</b>
1/ Hiện bà và ông Nguyệt đang sống ly thân đúng hay không?2/ Tại sao ông bà lại sống ly thân?
3/ Trong thời gian sống ly thân cháu Anh ở với ơng Nguyệt đúng hay khơng?4/ Ơng Nguyệt có cho bà gặp cháu thường xun hay khơng? Mỗi lần bà gặpcháu ơng Nguyệt có biết khơng?
5/ Bà cho biết hiện tại bà làm nghề gì? Thời gian làm việc của bà như thế nào?Thu nhập như thế nào?
6/ Ơng Nguyệt có giúp bà chăm sóc, ni dạy con cái khơng?7/ Ơng Nguyệt có khi nào đánh đập con cái khơng?
8/ Bà có thực hiện việc kê khai và nộp thuế quyền sử dụng đất đối với thửa đất496, tờ bản đồ số 01 hay không?
9/ Khi vợ chồng bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên gia đìnhchồng bà có biết hay khơng? Có ai có ý kiến phản đối hay gì khơng?
<b>3.3. Câu hỏi để hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:</b>
1/ Bà có biết thời điểm đo đạc, kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtcho ông Nguyệt bà Hảo không?
2/ Bà cho biết vào thời điểm ông Nguyệt bà Hảo được cấp giấy chứng nhậnquyền sử dụng đất gia đình bà có biết việc này khơng?
3/ Tại sao về sau bà biết được ông Nguyệt, bà Hảo được cấp Giấy chứng nhậnquyền sử dụng đất này bà khơng có ý kiến gì mà tới nay bà mới phản đối?
<b>4. LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN</b>
Kính thưa Hội đồng xét xửThưa vị đại diện Viện kiểm sát!
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Thưa Quý luật sư đồng nghiệp!
Tôi là Luật sư ... thuộc Văn phòng luật sư …..., Đồn Luật sư thành phố HồChí Minh. Hơm nay, tơi được mời tới tham gia phiên tịa hơm nay với tư cách ngườibảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Hoàng Thị Hảo trong vụ án“tranh chấp về ly hôn, nuôi con, chia tài sản” với bị đơn là ông Nguyễn Văn Nguyệt.Hôm nay, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua phần xét hỏi cơng khai tại tịa hơmnay, tơi xin phép Hội Đồng xét xử được trình bày luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn nhưsau:
Thứ nhất, về yêu cầu ly hơn của ngun đơn bà Hồng Thị Hảo là hồn tồn cócăn cứ theo quy định của pháp luật cụ thể là các quy định tại Điều 51, Điều 56 Luậthơn nhân gia đình 2014. Qua các bằng chứng, lời khai của các đương sự cho thấy tìnhtrạng của vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hơnnhân khơng đạt được. Cụ thể:
- Tình trạng của vợ chồng bà Hảo, ông Nguyệt rất trầm trọng. Sau khi kết hônông Nguyệt và chị Hảo sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn,ngun nhân là do tính tình khơng hợp ơng Nguyệt không lo làm ăn, hay đi chơi về rồilại hay chửi bới, đánh đập vợ con. Điều này được thể hiện qua các lời khai của bà Hảo,của cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt trong biên bản xác minh ngày 09/03/2016.
- Đời sống chung không thể kéo dài. Khi tình trạng của vợ chồng đã phát sinhtrầm trọng, ơng Nguyệt khơng những khơng nhận ra lỗi lầm của mình mà vẫn tiếp tụcchứng nào tật đấy. Chính vì vậy mà ông Nguyệt và bà Hảo đã sống ly thân từ ngày14/12/2014 cho đến nay. Việc ông Nguyệt và bà Hảo sống ly thân đã được cả ôngNguyệt, bà Hảo cũng như những người có liên quan thừa nhận trong các bản tự khai,biên bản lấy lời khai.
- Mục đích hôn nhân không đạt được. Theo các lời khai của anh, em ơng Nguyệtthì bà Hảo là người phụ nữ ngoan hiền, chịu thương, chịu khó, chăm chỉ làm ăn, vunvén hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, cuộc sống hơn nhân không thể hạnh phúc nếu chỉmột chỉ một người vun vén. Hơn nữa, việc ông Nguyệt chơi bời, không lo làm ăn,
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">đánh đập, chửi bới vợ con làm cho bà Hảo không thể sống chung với ơng Nguyệt nữado đó mà dẫn đến việc ly thân.
Từ những căn cứ trên có thể thấy cuộc sống hôn nhân của ông Nguyệt và bà Hảođã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mụcđích của hơn nhân khơng đạt được. Do đó tơi kính đề nghị hội đồng xét xử xem xétchấp nhận cho thân chủ tôi được ly hôn với ông Nguyễn Văn Nguyệt.
Thứ hai, về yêu cầu nuôi con của bà Hảo:
Bà Hảo và ơng Nguyệt có hai con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi và cháuNguyễn Đức Anh. Khi ly hôn bà Hảo yêu cầu được nuôi cả hai con mà không yêu cầuông Nguyệt thực hiện cấp dưỡng nuôi con. Hiện cả cháu Nhi và cháu Anh đều trên 07tuổi. Do đó căn cứ theo khoản 2 Điều 81 Luật hơn nhân và gia đình 2014 thì nếu contừ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét được nguyện vọng của các con.
Căn cứ theo nguyện vọng của cháu Nhi trong đơn đề nghị ngày 20/01/2016 thìnguyện vọng của cháu là được ở cùng với mẹ là bà Hoàng Thị Hảo nếu bà Hảo và ôngNguyệt không sống chung với nhau nữa và nguyện vọng của cháu Anh trong đơn đềnghị ngày 22/01/2016 và biên bản lấy lời khai ngày 05/07/2016 thì nguyện vọng củacháu Anh là được ở với mẹ là bà Hoàng Thị Hảo nếu bố mẹ cháu ly hôn.
Hơn nữa yêu cầu được nuôi cả hai con sau khi ly hôn của bà Hảo là hoàn toànphù hợp. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con thì bà Hảo sẽ chăm sóc và dạy dỗ cáccon tốt hơn. Bà Hảo hiện đang làm cơng nhân do đó thu nhập của bà tương đối ổn địnhđể đảm bảo cho cuộc sống của ba mẹ con. Đồng thời đối với công việc trên bà Hảolàm 8 tiếng/ngày, làm giờ hành chính. Chính vì vậy bà Hảo sẽ có thời gian chăm sóccho con tốt hơn nhất là khi các cháu đang trong giai đoạn phát triển tâm sinh lý thì việcquan tâm, chia sẻ của người mẹ với con là một trong tác nhân giúp các cháu có thểphát triển một cách tồn diện. Trên thực tế cho thấy thì người mẹ ln là người gầngũi, tâm sự, sẻ chia với các con hơn người cha.
Hơn thế nữa qua các lời khai của cháu Anh, lời khai của bà Hảo cũng như lờikhai của cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt thì khi ly thân với bà Hảo ông Nguyệt khôngcho cháu Anh được gặp mẹ. Hai mẹ con muốn gặp nhau thì phải nên gặp, nếu ông
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Nguyệt biết được ông Nguyệt lại đánh đập, hành hạ cháu. Đối với một đứa trẻ đangtuổi phát triển thì hành vi của ông Nguyệt sẽ gây ra những ảnh hưởng tới sự phát triểncủa châu Anh. Mặt khác, hiện dù chỉ mới ly thân nhưng ơng Hảo cịn khơng cho cháuAnh gặp mẹ thì thử hỏi nếu giao cả cháu Nhi và cháu Anh cho ơng Nguyệt ni thìơng Nguyệt có cho các con của mình gặp mẹ hay khơng. Chính vì những lẽ trên có thểthấy việc giao cả hai cháu cho bà Hảo trực tiếp ni dưỡng chăm sóc sẽ giúp các cháuphát triển một cách toàn diện và đầy đủ hơn, đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho cả haicháu.
Chính vì những lẽ trên tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc chấp nhận yêucầu của bà Hảo được trực tiếp nuôi dạy 2 con phù hợp với nguyện vọng của con và vìlợi ích của các cháu.
Thứ ba, về yêu cầu chia tài sản chung được hình thành trong thời kỳ hơn nhâncủa bà Hảo và ông Nguyệt:
Căn cứ vào tất cả các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như qua lời khai của cácbên trong q trình tố tụng, tơi xin khẳng định đối với yêu cầu chia tài sản chung là đấtvà tài sản trên đất có số thửa 496 tờ bản đồ số 01 được hình thành trong thời kỳ hơnnhân giữa ơng Nguyệt và bà Hảo là hồn tồn có căn cứ. Bởi:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trong thời kỳ hôn nhân của ôngNguyệt và bà Hảo cụ thể là vào ngày 31/12/2005 đứng tên chủ sử dụng đất là bàHoàng Thị Hảo và ông Nguyễn Văn Nguyệt.
Cả ông Nguyệt và bà Hảo đều công nhận nguồn gốc thửa đất này là của gia đìnhơng Nguyệt mua của UBND xã Thượng Đạt. Năm 1999 gia đình ơng Nguyệt cho vợchồng ơng bà ra xây dựng nhà và ở trên thửa đất này từ đó tới nay. Theo bà Hảo trìnhbày thì gia đình ơng Nguyệt trước đây đã tuyên bố cho vợ chồng ông bà nhưng khônglàm giấy tờ.
Đồng thời, ông Nguyệt, bố mẹ ông Nguyệt cũng như tất cả các anh chị em tronggia đình ơng Nguyệt đều thừa nhận vào năm 1999 gia đình ơng Nguyệt cho ơngNguyệt, bà Hảo làm nhà và sinh sống trên thửa đất này. Thêm vào đó, bà Hảo và ôngNguyệt được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên vào ngày 31/12/2005 và
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">tất cả mọi người đều biết và không có bất kỳ ai có ý kiến gì hay phản đối gì về việcơng Nguyệt, bà Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đấttrên.
Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vợ chồng bà Hảo, ôngNguyệt xây dựng nhà và sinh sống ổng định từ đó đến nay, khơng xảy ra bất kỳ tranhchấp cũng như khơng có bất kỳ ai khiếu kiện, khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhậnquyền sử dụng đất đối với thửa đất 496 tờ bản đồ số 01. Việc này đã được ông ôngNguyễn Văn Bích – cán bộ địa chính xá Thượng Đạt xác nhận tại Biên bản xác minhngày 09/03/2016 và biên bản xác minh ngày 06/05/2016.
Về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ơng bà cũnghồn toàn hợp pháp (thể hiện trong Biên bản xác minh ngày 06/05/2016 và ngày23/06/2016 tại UBND xã Thượng Đạt). Hơn nữa khi thực hiện các thủ tục kê khai đểchuẩn bị hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ơng Nguyệt hồn tồn đồngý cho bà Hảo được đứng ra kê khai, nộp thuế và đứng tên trên giấy chứng nhận quyềnsử dụng đất. Điều này được thể hiện ở trong các hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sửdụng đất thì cả ơng Nguyệt, bà Hảo đều ký vào các hồ sơ đó. Thêm nữa sau khi đượccấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Hảo và ơng Nguyệt thì phía giađình ơng Nguyệt đều biết về việc này. Tuy nhiên khơng có bất kỳ ai phản đối haykhiếu nại gì về việc cấp này. Từ đó có thể thấy về mặt ý chí phía gia đình ơng Nguyệtđã đồng ý để cho ông Nguyệt và bà Hảo thửa đất này.
Căn cứ theo nội dung án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tịa ánnhân dân tối cao thơng qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyếtđịnh 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm
2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì “Trường hợp cha mẹ đã cho vợchồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cốtrên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ vànhững người khác trong gia đình khơng có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đãsử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp
</div>