Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

sự hình thành và phát triển của các tổ chức độc quyền những điểm mới của các tổ chức độc quyền trong chủ nghĩa tư bản hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.04 KB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT Y DƯỢC ĐÀ NẴNGKHOA DƯỢC</b>

<b>TIỂU LUẬNKINH TẾ CHÍNH TRỊ</b>

<b>SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TỔCHỨC ĐỘC QUYỀN. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CÁC</b>

<b>TỔ CHỨC ĐỘC QUYỀN TRONG CHỦ NGHĨA TƯBẢN HIỆN NAY</b>

<b>Đà Nẵng, ngày 1 tháng 6 năm 2022</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

2.1. Các tổ chức độc quyền có quy mơ tích tụ và tập trung tư bản lớn...6

2.2. Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi phối...7

II. Những điểm mới của các tổ chức độc quyền trong chủ nghĩa tư bản hiện nay....9

1. Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản...9

2. Biểu hiện về vai trị của tư bản tài chính trong các tập đồn độc quyền...10

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C. Mác và Ph. Ăngghen đã dự rằng: Tự do cạnh tranh tất yếu sẽ sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó, nhất định sẽ dẫn đến độc quyền.Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử mới củathế giới, V.I.Lênin đã chứng minh rằng, vào cuối thế XIX đầu thế kỷ XX trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyền.

Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hố, có khả năng định ra giá cả độc quyền, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

Trong nền kinh tế thị trường, độc quyền có thể được hình thành một cách tự nhiên, cũng có thể được hình thành bởi ý chí của nhà nước tạo ra các tổ chức độc quyền.

Một là, do sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật,đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Điều đó, địi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn lớn mà từng doanh nghiệpkhó đáp ứng được. Vì vậy, các doanh nghiệp phải đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn.

Cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyệnkim mới; các máy móc mới ra đời như: động cơ điêzen, máy phát điện, … phát triểnnhững phương tiện vận tải mới như: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay, tàu hỏa ...Những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện này,một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới địi hỏi các doanh nghiệp phải có quy mô lớn, mặt khác thúc đẩy

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ, tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩyphát triển sản xuất quy mô lớn.

Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường như: quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ, tích tụ, tập trung sản xuất ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

Hai là, do cạnh tranh.

Cạnh tranh gay gắt làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản hàng loạt, còn các doanh nghiệp lớn tồn tại được nhưng cũng đã bị suy yếu, để tiếp tục phát triển học phải tăng cường tích tụ, tập trung sản xuất, liên kết với nhau thành các doanh nghiệp với quy mô ngày càng to lớn hơn.

Ba là, do khủng hoảng và sự phát triển của hệ thống tín dụng.

Do cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn tồn tại, nhưng để tiếp tục phát triển được họ phải thúc đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất hình thành các doanh nghiệp có quy mơ lớn.

Sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành địn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sảnxuất, nhất là việc hình thành, phát triển các cơng ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của tổ chức độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, các tổ chức độc quyền có thể ấn định giá cả độc quyền để thu lợi nhuận cao.

Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của cơng nhân làm việc trong các xí nghiệp độc quyền, một phần lao động không công của công nhân làm việc trong các xí nghiệp ngồi độc quyền, một phần giá trị thặng dư cảu các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cạnh tranh, lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Giá cả độc quyền là giá cả do các tổ chức độc quyền áp đặt trong trong mua và bán hàng hoá. Giá cả độc quyền gồm chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Do chiếm được vị trí độc quyền về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nên các tổ chức độc quyền áp đặt được giá cả độc quyền.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Các tổ chức độc quyền luôn áp đặt giá cả cao khi bán và giá cả thấp khi mua. Như vậy, giá cả độc quyền gồm có giá cả độc quyền cao (khi bán) và giá cả độc quyền thấp (khi mua).

Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn khơng thốt ly và khơng phủ định cơ sở của nó là giá trị. Trong mối quan hệ này giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền chỉ lên xuống xoay quanh giá trị hàng hố. Khi xuất hiện giácả độc quyền thì giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả độc quyền, các tổ chức độc quyền luôn thu được lợi nhuận độc quyền cao.

2. Sự phát triển:

2.1. Các tổ chức độc quyền có quy mơ tích tụ và tập trung tư bản lớn

Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hố, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.

Các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao, bao gồm: Carte (Các-ten),Syndicate (Xanh-đi-ca), Trust (Tờ-rớt), Consoertium (Cơng-xóoc-xi-om).

- Cartel là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, sản lượng hàng hoá, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán, …

Các nhà tư bản tham gia Cartel vẫn độc lập cả về sản xuất và lưu thơng hàng hố. Họ chỉ cam kết thực hiện đúng hiệp định đã ký, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, Cartel là liên minh độc quyền không vững chắc, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút khỏi Cartel, làm Cartel thường tan vỡ trước kỳ hạn.

Ví dụ: Một trong những cơng cụ mà OPEC sử dụng để kiểm sốt thị trường dầu mỏ là chính sách giá dầu mỏ, được gọi bằng thuật ngữ “Giỏ” của OPEC (OPEC Reference Basket of Crudes). Thuật ngữ này được giới thiệu ngày 1/1/1987. Trị giá của “giỏ” được xem như chỉ số giá bình qn áp dụng đối với những loại dầu thơ mà các nước trong cartel khai thác. Giá trị của “giỏ” được OPEC cố gắng duy trì ở mức hợp lí, ổn định dựa vào kiểm sốt hạn mức trên – dưới, mức tăng – giảm sản xuất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Vấn đề chính của OPEC: Quyền lợi của các thành viên thường phân hóa vàkhơng thật sự phù hợp giữa một vài nước với nhau. Đây cũng là mầm mốngkhiến người ta liên hệ tới sự không bền vững vốn có của hình thức độc quyềncartel.

- Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn Cartel. Các nhàtư bản tham gia Syndicate vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thơng hàng hố (mọi việc mua, bán do một ban quản trị chung của Syndicate đảm nhận). Mục đích của Syndicate là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm hấp thu lợi nhuận độc quyền cao.

Ví dụ: Canadian Wheat Board – Hiệp hội Lúa mạch Canada (CWB) Hiệp hội Lúa mạch Canada (CWB) được thành lập bởi Quốc hội Canada vào 5/7/1935, được xem là hiệp hội thương mại cho các sản phẩm lúa mì, lúa mạch của miền Tây Canada. CWB được quản lí bởi một ban quản trị đảm nhiệm một hệ thống quảng bá, thương mại, lưu thơng sản phẩm lúa mì, lúa mạch tại Alberta,

Saskatchewan, Manitoba và một phần nhỏ thuộc British Columbia. Tất cả mọi nông dân trong khu vực kiểm sốt của CWB đều khơng được phép bán lúa mì, lúa mạch của mình qua bất cứ nơi nào khác ngồi CWB; nếu làm như vậy, nơng dân sẽ bị xem như đã vi phạm pháp luật. CWB do đó được xem như một tổ chức độc quyền, thể hiện rõ hơn là độc quyền mua vì CWB là người mua duy nhất đối với sản phẩm của nông dân.

CWB là tổ chức kiểm sốt thương mại, lưu thơng được khẳng định là hoạt động dựatrên lợi ích của nơng dân, mọi lợi nhuận thu về sẽ được trả lại cho nông dân theonguyên tắc: nếu thị trường chuyển biến tốt, nông dân được thu về phần lợi nhuận; nếuthị trường chuyển biến xấu, chính phủ sẽ bù đắp phần lỗ; nơng dân chỉ phải chịu cácchi phí lưu thơng, thương mại liên quan. Vì thế, có thể xem CWB là một biến thể từsyndicate, chiếm vị thế độc quyền trên thị trường lúa mạch và lúa mì thời đó.Thế độc quyền của CWB kết thúc vào ngày 1/8/2012 khi Bill C-18, hay còn gọilà luật Tự do Thị trường cho Nông dân (Marketing Freedom for Grain Farmers Act)được thông qua vào tháng 12/2011.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Trust là hình thức độc quyền cao hơn Cartel và Syndicate. Trong Trust thì cả việc sản xuất, tiêu thụ hàng hố đều do một ban quản trị chung thống nhất quảnlý. Các nhà tư bản tham gia Trust trở thành những cổ đông để thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.

Ví dụ: Tập đồn dầu lửa Standard Oil

Tập đồn dầu lửa Standard Oil được thành lập bởi và cũng gắn liền với tên tuổi của “Vua dầu lửa” Rockerfeller. Rockefeller trở thành một nhà công nghiệp trong lĩnh vực dầu mỏ khi bắt đầu với Công ty Rockefeller & Andrew. Năm 1870, độc quyền vềcông nghệ chế biến dầu thô, công ty dầu mỏ Standard Oil Company được thành lập số vốn ban đầu là 1 triệu USD. Do nắm giữ được bí quyết cơng nghệ, khả năng cạnhtranh của cơng ty rất lớn. Để kiểm sốt và tiến tới thống trị thị trường dầu mỏ đồngthời tránh bị cản trở, Rockerfeller lên những kế hoạch "cạnh tranh và gặm nhấm" hay"thâu tóm từng phần thị trường": lên kế hoạch để cho một số công ty nhỏ tự sáp nhậptrước khi mua lại.

Năm 1882, tất cả các công ty dầu mỏ mà Rockefeller nắm giữ được hợp nhất thành một tổ hợp công nghiệp dầu mỏ khổng lồ nhất trong lịch sử: Tập đoàn StandardOil Trust với số vốn điều lệ 70 triệu USD. Ở bang nào của nước Mỹ cũng có mặt"Standard Oil Trust" - cơng ty chế biến dầu mỏ gần như duy nhất, chiếm khoảng hơn90% thị phần.

Lo ngại những ảnh hưởng ngày càng lớn của Standard Oil Trust, năm 1890,chính quyền bang Ohio - nơi đặt trụ sở chính của Tập đồn - đã ra một sắc lệnh gọi là"sắc lệnh Trust" yêu cầu chia nhỏ tập đồn này thành nhiều tập đồn độc lập, khơngđược liên kết để độc quyền và kiểm soát thị trường. Tập đoàn chuyển trụ sở sang bang New Jersey, nơi sắc lệnh này khơng có hiệu lực và đổi tên tập đoàn thành "Standard Oil New Jersey".

Năm 1911, khi Rockefeller khơng cịn trực tiếp điều hành tập đồn, Tịa án

Hiến pháp Mỹ mới ra quyết định chia nhỏ Standard Oil thành 38 công ty độc lập. Môitrường cạnh tranh thật sự lúc này mới được thiết lập lại trong thị trường dầu mỏ tạiMỹ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- Consortium là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mơ lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia Consortium khơng chỉ có các nhà tư bản lớn mà cịn có cả Syndicate, các Trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên qua với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một Consortium có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết cơ sở hồn tồn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch xù.

Ví dụ: Hãng sản xuất máy bay Airbus S.A.S (Airbus Société par actions simplifiée)Airbus là nhà sản xuất máy bay thương mại hàng đầu thế giới, và là công ty con của EADS - công ty hàng không vũ trụ châu Âu. Trụ sở của Airbus đặt tại thành phố Toulouse, Pháp. Airbus sản xuất khoảng một nửa số máy bay phản lực của thế giới vàcó các hoạt động quan trọng trên khắp châu Âu. Airbus ra đời năm 1970 với tên Airbus Industrie và đổi tên thành Airbus S.A.S năm 2001.

Airbus Industrie được chính thức thành lập như một Nhóm lợi ích kinh tế chung (Economic Interest Group - GIE) vào ngày 18 tháng 12 năm 1970. Aérospatiale vàDeutsche Airbus mỗi công ty có 36,5% cổ phần, Hawker Siddeley 20% và FokkerVFW 7%. Mỗi công ty sẽ chuyển các bộ phận do mình chế tạo đến một nhà máy lắp ráp cuối cùng để máy bay sẵn sàng thực hiện chuyến bay.

Là một consortium với sự tập hợp nhiều xí nghiệp sản xuất, Airbus sử dụng khoảng 63.000 nhân công tại 16 địa điểm ở 4 quốc gia Liên minh châu Âu: Anh, Pháp, Đức và Tây Ban Nha. Khâu lắp ráp cuối cùng được đặt tại Toulouse - Pháp; Hamburg-Đức, Seville - Tây Ban Nha; Thiên Tân - Trung Quốc và đang trong q trình hồnthiện nhà máy tại Mobile, tiểu bang Alabama, Mĩ. Airbus có quy mơ như một cơng tyquốc tế, đáp ứng nhu cầu của các hãng hàng khơng trên tồn thế giới. Airbus cịn cócơng ty con ở Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông. Cùng với Boeing,Airbus là một trong hai hãng sản xuất máy bay lớn nhất thế giới thời điểm hiện tại với hình thức như một consortium nằm dưới sự quản lí của một nhóm cơng ti, một nhóm nhà tư bản nhất định.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

2.2. Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chiphối

Song song với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong cơng nghiệp, trong ngân hàng cũng diễn ra q trình tích tụ,tập trung dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng.

Quy luật tích tụ,tập trung trong ngân hàng cũng giống như trong cơng nghiệp, do q trình cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị phá sản hoặc bị thơn tính và hình thành những ngân hàng lớn.

Khi sản xuất trong ngành cơng nghiệp tích tụ, tập trung ở mức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ khơng đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp lớn. Trong điều kiện đó,các ngân hàng vừa và nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng lớn hoặc phải phá sản trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.

Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa các doanh nghiệp ngân hàng và cơng nghiệp, làm cho ngân hàng có vai trò mới: từ chỗ ngân hàng chỉ là trung gian trong việc thanh tốn và tín dụng, thì nay đã nắm được hầu hết lượng tiền tệ của xã hội nên có quyền lực “vạn năng”, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội.

Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng “cử” đại diện của mình vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay hoặc các tổ chức độc quyền ngân hàng cịn trực tiếp đầu tư vào cơng nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng mạnh mẽ của ngân hàng, một quá trình xâm nhậptương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của các ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng. Quá trình độc quyền hố trong cơng nghiệp và ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau làm nảysinh một loại hình tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.

V.I.Lênin viết: “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp.”

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Sự phát triển cuả tư bản tài chính dần dần dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ những nhà tư bản kếch xù chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của tồn xã hội,gọi là tài phiệt (hay đầu sỏ tài chính, trùm tài chính).

Các tài phiệt thực hiện sự thống trị của mình thông qua “chế độ tham dự”. Thực chất của “chế độ tham dự” là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đồn tài chính mua số cổphiếu khống chế, chi phối một công ty lớn nhất – công ty gốc gọi là “công ty mẹ”; công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị các “công ty con”; “công ty con” lại chi phối “công ty cháu”.

Nhờ có “chế độ tham dự” và phương pháp tổ chức tập đồn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, mà nhà tài phiệt có thể khống chế và điều tiếtđược một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.

Ngoài “chế độ tham dự”, nhà tài phiệt còn sử dụng những thủ đoạn như lập cơng ty mới, phát hành trái khốn, kinh doanh cơng trái, đầu cơ chứng khốn ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất … để thu lợi nhuận.

Về mặt chính trị, hệ thống các nhà tài phiệt chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là chi phối các chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước, biến nhà nước tư sản thành cơng cụ phục vụ lợi ích cho chúng, do chúng thống trị được vềkinh tế.

II. Những điểm mới của các tổ chức độc quyền trong chủ nghĩa tư bản hiện nay1. Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản

Hiện nay, đặc điểm tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền có những biêu hiện mới, đó là sự xuất hiện các cơng ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ.

Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ nên đã diễn ra quá trình hình thành những sự liên kết giữa các độc quyền theo cả hai chiều: chiều dọc và chiều ngang, ở cả trong và ngoài nước. Từ dó, những hình thức tổ chức độc quyền mới đã ra đời. Đó là các Concern (Consơn) và các Conglomerate (Công-gơ-lô-mê-rết).

- Concern: Là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí nghiệp có quan hệ với những ngành khác nhau và được phân bô ở nhiều nước.

</div>

×