Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.09 MB, 136 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Chuyên ngành: Ly luận Nha nước và Pháp luậtMã số : 5.05.01
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiêncứu của riêng tơi. Các số liệu nêu trong
luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Khái niệm hành vi pháp luật
1.1.1. Khái niệm hành vi trong một số ngành khoa học xã hội1.1.2. Định nghĩa và các yếu tố cấu thành của hành vi pháp luật
1.3.1.3. Mơ hình hố hành vi pháp luật
<small>¢ 1.3.2. Vi phạm pháp luật</small>
1.3.2.1. Khái niệm và bản chất của vi phạm pháp luật1.3.2.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
5458
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Chương 2: THỰC TRANG HÀNH VI PHÁP LUẬT VÀ PHƯƠNG
TIEU CUC
Thực trang hành vi pháp luật ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Khái quát về thực tiễn hành vi thực thi, tuân thủ pháp luậtở nước ta hiện nay
,2.1.2. Tình hình vi phạm pháp luật và thực tiễn cơng tác đấutranh phịng, chống vi phạm pháp luật ở nước ta hiện nay
pháp, tích cực, đồng thời đấu tranh phịng, chống các hành
vi bất hợp pháp, tiêu cực
2.2.1. Hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật và củng cố
các đảm bảo pháp lý nhằm đảm bảo cho sự thực thi tuân
thủ pháp luật
2.2.2. Nâng cao ý thức pháp luật và trình độ văn hoá pháp lý của
pháp luật, đảm bảo xử lý nghiêm minh, kịp thời, chínhxác các trường hợp vi phạm pháp luật
123125
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">1. Tính cấp thiết của đề tài
chúng ta nhiều vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết, trong đó then chốt là xâydựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quan điểm xây dựng Nhà nước phápquyền dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được đề ra như một nhiệm vụ chiến lượcvới phương châm “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổchức, cán bộ, cơng chức, mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp vàpháp luật” [20, tr.132]. Để thực hiện nhiệm vụ này, song song với việc hoànthiện hệ thống pháp luật, yêu cầu đặt ra là phải tổ chức tốt việc thực hiện phápluật và bảo vệ pháp luật.
Thực hiện phương châm này, trong những năm đổi mới vừa qua, các cơ
quan nhà nước đã từng bước đổi mới tổ chức, hoạt động và hệ thống pháp luật
dan dan được hồn thiện phục vụ cho cơng cuộc đổi mới cũng như xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đồng thời dânchủ được phát huy đi đôi với việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường phápchế; công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật chomọi người dân được chú trọng đã góp phần tăng cường hiệu lực và hiệu quảthực thi pháp luật trong thực tế, từ đó, bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự an
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong thời gian qua, quátrình thực thi pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra của công cuộc đổi mới cũng như xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhiều
quy định của pháp luật chưa phát huy được hiệu lực trong thực tế. Tính chủđộng, tích cực trong hành vi pháp luật của các chủ thể chưa cao, tình hình viphạm pháp luật diễn biến ngày càng phức tạp đã làm giảm vai trò, giá trị và
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">hiệu quả của pháp luật trong thực tiễn Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
giá tri toi cao.
thị trường trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay đã và đang làm nảy sinh nhiều
loại hành vi mới trong đời sống xã hội đòi hỏi phải được điều chỉnh pháp luậtmột cách kịp thời với những phương thức và biện pháp phù hợp nhằm kích
bảo đảm tận dụng và phát huy được những nhân tố tích cực của nền kinh tế thị
tối da mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất, kinh doanh của mọi thànhphần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau” [20, tr.188], đồng thời phải
vừa hạn chế được tối đa những tác động và ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội
cầu hố hiện nay.
đánh giá thực trạng hành vi pháp luật ở nước ta hiện nay, từ đó đưa ra phương
vụ cho cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
một cách chủ động trong xu thế toàn cầu hố hiện nay cũng như phục vụ choq trình xây dựng, củng cố và phát triển Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Vì
vậy, triển khai nghiên cứu dé tài “Hành vi pháp luật - những vấn dé lý luận và
2. Tình hình nghiên cứu
Hành vi pháp luật là một phạm trù cơ sở trong hệ thống các khái niệm vàphạm trù của khoa học pháp lý nói chung và lý luận Nhà nước và pháp luật nóiriêng. Trên cơ sở phạm trù này, lý luận về Nhà nước và pháp luật cũng nhưcác khoa học nghiên cứu về các ngành luật chuyên ngành hoặc các lĩnh vực
pháp luật cụ thể xây dựng các khái niệm chuyên ngành như vi phạm pháp luật,
tội phạm, hành vi pháp luật hành chính, hành vi pháp luật dân sự, hành vi phápluật kinh tế, hành vi pháp luật lao động... Do vậy, nó đã thu hút được sự quantâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau trong khoa học
pháp lý kể cả ở trong và ngoài nước, rất nhiều các cơng trình nghiên cứu về vi
phạm pháp luật, tội phạm, hành vi hành chính, thương mại, lao động v.v.. đã
vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật của Viện nghiên cứu Nhànước và Pháp luật (1995), bài viết “Hành vi thương mai” của Ngơ Huy Cươngđăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1 (2002), “Động cơ hoá hành vipháp luật” của Lê Vuong Long trên tap chí luật học số | (2000), dé tài luậnvăn thạc si “VI phạm pháp luật — một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở ViệtNam” của Bùi Xuân Phái (2002), “Hành vi phạm tội nhìn từ góc độ tâm lýhọc” của Đặng Thanh Nga trên tạp chí Luật học số 4 (1998)...và đặc biệt là
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">rất nhiều cơng trình nghiên cứu tương đối toàn diện và phong phú về tội phạmtrong khoa học luật hình sự và tội phạm học đã được cơng bố ở nước ta. Các
cơng trình ở nước ngồi có thể kể đến cuốn Ipaso u nopegeune của B.H.
<small>KynpspLeg (1978), The Sociology of Law cua Roger Cotterrell (1992) v.v..</small>
Tuy nhiên, tất cả các cơng trình nghiên cứu này cũng chi mới dé cap tớimột loại hành vi pháp luật cụ thể hoặc một số khía cạnh nào đó của hành vipháp luật. Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có một cơng trình khoa học nàonghiên cứu về hành vi pháp luật một cách toàn diện và có hệ thống.
3. Mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tàiMục đích nghiên cứu
Lam sáng to những vấn đề lý luận cơ bản về hành vi pháp luật và phântích, đánh giá thực trạng hành vi pháp luật ở nước ta hiện nay để xây dựng cơsở khoa học về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho việc đưa ra phương hướng
và các giải pháp phát triển các hành vi tích cực, hợp pháp và đấu tranh phòng,
chống các hành vi bất hợp pháp, tiêu cực.Phạm vi nghiên cứu
Do hành vi pháp luật là một phạm trù phức tạp, có nội dung rất rộng vàđa diện, tính phức tạp và đa diện của nó không những biểu hiện ở bản thân củavấn dé mà nó cịn được phản ánh trong các mối quan hệ mật thiết với cácthành tố khác trong cơ chế điều chỉnh pháp luật như quy phạm pháp luật, quanhệ pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật cũng như trong mối quan hệ với điềukiện kinh tế — xã hội và các yếu tố khác như pháp chế, ý thức pháp luật, các
đặc tính của chủ thể... Nên trong giới hạn của một luận văn thạc sĩ, để có điều
kiện đi sâu nghiên cứu và lý giải thấu đáo các mặt vấn đề cơ bản, cốt yếu củahành vi pháp luật hoặc các vấn đề đang còn gây nhiều tranh cãi về hành vipháp luật , luận văn chu yêu tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn dé lýluận và thực tiên cơ bản về hành vi pháp luật của cá nhân.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">như trên của đề tài, luận văn đặt ra nhiệm vụ triển khai nghiên cứu một cách
có hệ thống để làm sáng tỏ các vấn đề sau đây về hành vi pháp luật:
+ Khái niệm, đặc điểm và các yếu tố cấu thành của hành vi pháp luật; cơchế xác lập và thực hiện hành vi pháp luật ; các loại hành vi pháp luật;các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình thực hiện hành vi pháp luật.
> Thực trạng thực thi tuân thủ pháp luật, tình hình vi phạm pháp luật vàthực tiễn đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay.> Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhân rộng và phát triển các hànhvi tích cực, hợp pháp đồng thời hạn chế các hành vi tiêu cực, bất hợppháp.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về Nhà nước vàpháp luật, kết hợp với việc vận dụng hiệu quả phương pháp duy vật biện chứngvà duy vật lịch sử trong q trình nghiên cứu.
hệ thống, thống kê, điều tra xã hội học...
Đây là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách tương đối
một cách hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về hành vi pháp luật, đặc biệt làđã làm sáng tỏ ban chất của hành vi pháp luật nói chung và của hành vi hoppháp va vi phạm pháp luật nói riêng, cơ chế xác lập và thực hiện hành vi phápluật cũng như các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới quá trình xác lập và thực hiệnhành vi pháp luật. Những kết quả nghiên cứu theo hướng nay của luận văn góp
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">pháp luật, tạo ra cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu hành vi pháp luật trong các
lĩnh vực cụ thể ở nước ta.
Qua việc phân tích và đánh giá thực trạng hành vi pháp luật ở Việt Namhiện nay, rút ra những nguyên nhân của những thành tựu và ton tại, luận van
đấu tranh phòng, chống các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật. Những kếtquả đó có giá trị tham khảo phục vụ cho thực tiễn xây dựng và hồn thiện hệ
tế ở nước ta. Ngồi ra, luận văn cũng có giá trị là tài liệu tham khảo phục vụcho việc nghiên cứu và giảng day tại các cơ sở đào tạo luật học.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận vănđược kết cấu thành 2 chương với 6 mục và 15 tiểu mục.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Trong khoa học pháp lý nói chung và Lý luận về Nhà nước và Pháp luậtnói riêng, hành vi pháp luật là một phạm trù rất cơ bản nhưng có nội dung đađiện và phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ
luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hành vi- pháp luật, bao gồm: khái niệm, các yếu tố cấu thành của hành vi pháp luật, cơchế xác lập và thực hiện hành vi pháp luật, các loại hành vi pháp luật và cácnhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành hành vi pháp luật.
1.1.1. Khái niệm hành vi trong một sô ngành khoa học xã hội
Hành vi nói chung là một khái niệm được nhiều ngành khoa học xã hộinghiên cứu. Đặc biệt, trong một số ngành khoa học xã hội như ngôn ngữ học,triết học, xã hội hoc, tâm lý học, nhân chung học, dân tộc học v.v.., khái niệmhành vi hiện diện vừa với tư cách là đối tượng nghiên cứu, đồng thời vừa với tư
niệm hành vi pháp luật trong khoa học pháp lý, trước hết cần phải tiếp cậnkhái niệm hành vi từ một số góc độ của các ngành khoa học xã hội khác nhau.
e Về phương điện ngôn ngữ hoc
Hành vi là một từ Hán Việt, được tạo thành bởi một kết hợp ngang củahai âm tiết hành và vi, mà ngữ nghĩa chính của từ này nằm ở âm tiết thứ nhất -
độc lập có nghĩa (trừ nghĩa thứ yếu của hành trong từ hành tdi - có nghĩa là
âm tiết có quan hệ với nhau do ngữ nghĩa của nó. Các kết hợp đa âm tiết củatừ hành có hai nghĩa gốc, nghĩa thứ nhất là di (chẳng hạn trong các kết hophành khách, hành lý, hành dinh...) và nghĩa thứ hai là /m (chang han trongcác kết hợp thi hành, hành lễ, ban hành...). Hanh trong hành vi là kết hợpngang của nghĩa gốc là /am.
Tương tự như vậy, vi cũng khơng có biểu hiện đứng độc lập để làm mộttừ đơn tiết độc lập có nghĩa (phân biệt với chữ vi có nghĩa là rất nhỏ bé, như vi
<small>trong từ vi sinh vật và chữ vi có nghĩa là làm trái, như vi trong từ vi minh là</small>
làm trái lời thé). Vi trong từ hành vi cũng có nghĩa là làm hoặc hành động
<small>(tương tự như vi trong từ vơ vi là khơng làm gì hoặc trong từ vi sinh là kiếm</small>
Kết hợp ngang hành vi chi "toàn bộ những biểu hiện của con người trongmoi cách đốt xứ" [41, tr.121]. Trong các cuốn từ điển tiếng Việt, thì hành vi là“tồn bộ nói chung những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của mộtngười trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định” [84, tr.407], hoặc là “cách ứng
động nhất định” [3, tr.781]. Ngồi ra, trong các ngơn ngữ của các nước khác,
hành vi cũng được hiểu tương tự. Chang hạn trong tiếng Anh, hành vi
(behavior) được định nghĩa là “cách thức mà con người xu sự trong những
tình huống cụ thé” [90, tr.106] hoặc trong tiếng Pháp, hành vi (conduite) là
“việc một người lam và bằng cách đó thực hiện một ý định cua minh” [92,tr.436].
e Vé phuong dién triét hoc
Dưới lăng kính triết hoc, thế giới được tạo thành từ nhiều yếu tố, songsuy cho cùng bao gồm ba yếu tố cơ bản là giới tự nhiên, con người và xã hội,trong đó con người giữ vi trí trung tam. Con người (và xã hội) tồn tại tronglòng giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên, biến giới tự nhiên thành đối tượng của
xã hội đều là quá trình hoạt động của chính con người. Khơng có con ngườithì khơng có xã hội, như C. Mác đã nhận định: “xd hội là sản phẩm của sự tácđộng lần nhau giữa người và người ” (11, tr.2 14].
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội lại phụ
của hoạt động sống của con người. Nhờ các hoạt động lao động mà những lựclượng vật chất chủ yếu và những quan hệ xã hội (trước hết là quan hệ sảnxuất) của cộng đồng người được hình thành.
tiếp là cơ sở của sự hình thành các quan hệ xã hội khác: quan hệ chính trị,pháp quyền, đạo đức... và chỉ trong những quan hệ xã hội đó mới có xã hội.Như vậy, sự hình thành con người và qua đó là sự hình thành xã hội chính là
những hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực của con người; hơn nữa, nó cũng
vậy, xét từ nội dung cũng như từ hình thức thực hiện, chúng mang tinh xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Hình thức dau tiên của các hành vi trong thực tiên là hoạt động san xuất
vật chất. Hình thức này là tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ
của lồi vật và là cơ sở của tất cả các dạng thức khác của hoạt động sống của
con người. Hình thức cơ bản tiếp theo là hoạt động cải tạo xã hội, bao gồm các
hoàn thiện các thiết chế xã hội cùng các quan hệ xã hội. Những hoạt động
e Vé phương diện tam lý hoc
Theo đó, hành vi của con người là hồn tồn máy móc, cơ học và khơng có sựtham gia của ý thức, con người trở thành những cái máy phản ứng theo mơ
hành vi không lý giải được đời sống tâm lý của con người với tư cách là hoạtđộng có ý thức, mục đích.
thuyết mác- xít về con người cho rằng, hoạt động của con người và lý luận về
con người. Khái niệm hành vi theo tâm lý học mác- xit không tách rời với kháiniệm “hành động ý chí” - là các hành động có định hướng, có sự lựa chọnphương tiện, phương thức thực hiện, có sự theo dõi, kiểm tra và điều chỉnh để
khác phục những khó khăn, trở ngại, nhằm đạt được mục đích. Về mặt cấu
trúc, nó bao gồm các yếu tố:
- Mục đích của hành vi - là kết quả tương lai của hành vi, do chủ thểnhận thức và mong muốn đạt đến. Nó tồn tại dưới dạng các biểu tượng trong ý
muốn, lý tưởng... của con người;
thức thực hiện hành vi;
- Kết quả thực tế của hành vi - là sự hiện thực hố mục đích của hành vitrong thực tế.
đề ra một cách có ý thức từ trước, có sự tham gia tích cực của tư duy và nhữngnỗ lực của ý chí.
e Về phương diện xã hội học
Hành vi xã hội và hành động xã hội là hai khái niệm rất thường gặp trong
nghiên cứu nhiều hơn cả về hành vi trong xã hội học là “Lý thuyết hành vi”
vi dần được mở rộng và chứa đựng thêm nhiều yếu tố mới. Theo các nhà hànhvi mới (các nhà hành vi xã hội), thì giữa các tác nhân và phản ứng phải cónhững yếu tố trung gian (intervenning variables) gồm hệ thống nhu cầu, hệthống giá trị va tình huống thực hiện hành vi. Có nghĩa là, hành vi xã hội là
George H. Mead (1863-1931) cho rằng, “hành vi cần được phân tích như một
Từ đó, có sự phân biệt giữa các hành vị xã hội với các hành động vật lý bản nang (là những hành động hầu như khơng có sự chi phối của ý thức,
thống ngơn ngữ, giá tri;
Thứ ba, nó có tính duy lý và sự độc lập nhất định khi hành động mộtcách chủ quan.
Sau hết, xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản của xã hội học là làm rõ mối quanhệ giữa con người với tư cách là cá nhân, nhóm... và một bên là xã hội với tưcách là hệ thống cơ cấu xã hội thì các nhà xã hội học đã đi đến kết luận, hành
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">vi xã hội là những ứng xứ (hành động và nói) của một vai írị xã hội này đốiđiện với một vai trò xã hội khác, như nhà xã hội học Parsons quan niệm: “héthông xã hội là hệ thống được cấu thành bởi các hành động của cá nhân, mà
day cần chú ý phân biệt đơn vị của hệ thống xã hội là các vai tro chứ khôngphải là các cá nhân — một khái niệm chung chung trong xã hội học hành vi.Như vậy, mỗi vai trò ứng xử có hệ thống ứng xử riêng của nó, được quyết địnhbởi nhiệm vụ xã hội của vai trị đó. Mỗi chế độ xã hội đều xác lập những hệ
Như vậy, từ các góc độ tiếp cận khác nhau của nhiều ngành khoa học xã
mực xã hội. Điều này lý giải tại sao trong một hoàn cảnh, hành vi đó xảy ra
đối với người này mà khơng xảy ra đối với người khác. Ngược lại, cũng conngười đó, trong hồn cảnh khác lại có hành vi khác. Day là nguyên nhân tạo
ra sự đa dang, phong phú các hành vi trong thực tiễn cuộc sống.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">1.1.2. Định nghĩa và các yếu tô cấu thành của hành vi pháp luật1.1.2.1. Định nghĩa
Trong điều kiện Nhà nước pháp quyền, sự phát triển của các quan hệ xã
hội luôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Nhưng như vậy khơng có nghĩa làtất cả mọi hành vi xã hội được điều chỉnh bởi pháp luật. Bởi vì, trong xã hộicủa một thời đại nhất định, hệ thống hành vi của con người vô cùng phong phúcả về tính chất cũng như số lượng. Nhà nước chỉ lựa chọn những hành vi có ý
nghĩa quan trọng để điều chỉnh pháp luật. Hơn nữa, pháp luật không phải là
phải mọi hành vi của con người trong xã hội đều có nhu cầu được điều chỉnh
bằng pháp luật. Ngồi pháp luật thì chính trị, đạo đức, tơn giáo, phong tục, tập
việc dùng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi xã hội đã làm chocác hành vi được điều chỉnh pháp luật có tính chất pháp lý và trở thành hành vipháp luật.
là những hành vì xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh, đặc
thực tế.
Định nghĩa nêu trên chỉ ra hành vi pháp luật ở cấp độ chung nhất, khái
Thứ nhất, hành vi pháp luật trước hết phải là các hành vi xã hội. Xét về
bản chất, hành vi pháp luật là các hành vi xã hội, tức là những xử sự có ý
lập pháp. Ngoài những hành vi cua mình ra, tơi hồn tồn khơng tồn tại vớipháp luật, hồn tồn khơng phải là đốt tượng của nó. Những hành vi của tơi -đó là lĩnh vực duy nhất trong đó tơi đụng chạm với pháp luật ” [9, tr.19], phápluật không điều chỉnh những suy nghĩ, tình cảm, xúc cảm... của con người khi
khi thực hiện hành vi ln có sự suy xét và quyết định của bản thân họ.
Hơn nữa, hành vi pháp luật cũng giống như các hành vi xã hội ở tinh
chúng được hình thành một cách có quy luật. Chính vì vậy mới có căn cứ, cơ
sự chi phối của quy luật khách quan, nhưng con người nhờ hoạt động ý thức
hành vi pháp luật nói riêng và các hành vi xã hội nói chung.
hành vi pháp luật và đó chính là ranh giới để phân biệt một hành vi pháp luật
với một hành vi xã hội khác, sự điều chỉnh của pháp luật làm cho các hành vipháp luật có những tính chất riêng có sau:
Hành vi pháp luật có tinh phổ biến, điển hình: Su đa dang của các tình
huống trong cuộc sống cùng với sự tác động qua lại lẫn nhau giữa tính tất yếu
(khách quan) và tính tự do (chủ quan) của hành vi tạo ra sự đa dạng các hành
vi Xã hội trong thực tiễn. Trong sự đa dạng đó, Nhà nước căn cứ vào mức độ
Hanh vi pháp luật có tinh xã hội: Tinh xã hội của hành vi pháp luật
văn và hoàn thiện của hệ thống các quy phạm pháp luật hiện hành.
trong xã hội, đồng thời nó tỏ rõ thái độ của giai cấp cầm quyền đối với từng
đích điều chỉnh, trong việc xác định phạm vi, phương thức, khuynh hướng và
Thứ ba, đặc trưng cơ bản của hành vi pháp luật là sự hiện thực hoá
trong những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh (quan hệ pháp luật)
<small>: </small>
<small>)C LUATHA NOI</small>
pháp luật chính là phương tiện thực tiễn để các chủ thé pháp luật hiện thực hoácác quyên và nghĩa vụ được pháp luật ghi nhận nhằm thực hiện những nhucầu, lợi ích và trách nhiệm của mình trong thực tế. Nói rộng hơn, hành vi phápluật chính là phương tiện để đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống nhằm thựchiện các mục tiêu phát triển kinh tế — xã hội của đất nước, điều này phản ánhvị trí, vai trò của hành vi pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Từ những phân tích trên, ở cấp độ riêng, cụ thể của các hành vi pháp luật,
những điều kiện, hoàn cảnh khách quan cụ thể với những biểu hiện ra bênngoài và chịu sự chỉ phối chủ quan của ý thức chủ thể để nhằm đạt đượcnhững mục đích nhất định và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh
công việc cần thiết là tiếp tục đẩy sâu nghiên cứu về hành vi pháp luật trênphương diện cấu trúc của hành vi pháp luật.
1.1.2.2. Các yếu tố cấu thành của hành vi pháp luật
Khi xem xét hành vi pháp luật với tư cách là một chỉnh thé thì nó đượccấu trúc bởi những yếu tố tồn tại thống nhất khơng tách rời nhau, nhưng có thểphân chia được trong tư duy và do vậy có thể cho phép nghiên cứu chúng độclập với nhau. Các yếu tố cấu thành nên một hành vi pháp luật bao gồm: chủ
một trong các yếu tố này thì sẽ khơng tồn tại một hành vi pháp luật. Làm rõcấu trúc của hành vi pháp luật thông qua việc nghiên cứu các yếu tố cấu thành
của hành vi pháp luật là cơ sở để nhận diện và đánh giá một hành vi pháp luật.
© Chủ thể của hành vi pháp luật
Bất kỳ hành vi pháp luật cụ thể nào cũng phải có chủ thể, khơng có chủ
không điều chỉnh mọi hành vi của mọi chủ thể mà chỉ đối với những hành vi
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">nhất định của những chủ thể nhất định, thoả mãn các yêu cầu, điều kiện nhấtđịnh do pháp luật quy định. Chủ thể của hành vi pháp luật chỉ có thể là các cá
<small>nhân (cơng dân, người có quốc tịch nước ngồi, người khơng quốc tịch), tổ</small>
chức (pháp nhân, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước, Nhà nước) có khả năng
bảng chính hành vi của mình thực hiện các quyền và các nghĩa vụ theo pháp
luật một cách độc lập và chịu trách nhiệm pháp lý do những hành vi của mình
<small>mang lại.</small>
Dấu hiệu đặc thù của các chủ thể hành vi pháp luật là có năng lực chủ
lực pháp luật và năng lực hành vi thì mới có thể trở thành chủ thể thực tế củahành vi pháp luật (phù hợp với phạm vi nghiên cứu của luận văn như đã trìnhbày và được xác định ở phần mở đầu nên trong phần này chủ yếu tập trung đềcập tới loại chủ thể của hành vi pháp luật là các cá nhân).
- Năng lực pháp luật của cá nhân được hiểu là khả năng của chủ thể cóđược quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Năng lực phápluật là hiện tượng pháp lý không tách rời của mỗi cá nhân, nó xuất hiện từ khicá nhân đó được sinh ra và mất đi khi cá nhân đó chết đi (nhưng nó khơngphải là một thuộc tính tự nhiên), vì vậy một tuyên bố đơn phương về việckhước từ năng lực pháp luật hay mọi sự tự hạn chế năng lực pháp luật đềukhơng có giá trị pháp lý (Khoản 3 Điều 16 Bộ luật dân sự [1995] có quy định
<small>tương tự). Năng lực pháp luật là một phạm trù pháp lý có giới hạn (dung lượng</small>
các quyền và nghĩa vụ mà các chủ thể có khả năng được hưởng), vì vậy nó có
khác nhau là khác nhau, cũng như vay năng lực pháp luật của công dân mộtquốc gia trong các giai đoạn khác nhau là khác nhau (chẳng hạn như khác vớihiện nay, trước đây ở Việt Nam, các cá nhân khơng có năng lực sở hữu tư liệusản xuất).
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">- Nang lực hành vi là khả năng của chủ thể được Nhà nước thừa nhận mavới nó chủ thể bằng chính hành vi của mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp
lý một cách độc lập và chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó. Để trở thành
vi. Đây là yếu tố biến động nhất trong năng lực chủ thể của hành vi pháp luật.Thông thường, việc xác định nang lực hành vi của cá nhân được thực hiện theo
các căn cứ về độ tuổi và trạng thái sức khoẻ tâm thần.
Về độ tuổi, các nước thường lấy độ tuổi 18 làm điều kiện công nhận nănglực hành vi cho các cá nhân. Tuy nhiên, độ tuổi này không phải là duy nhất va
áp dụng thống nhất cho các loại hành vi tham gia vào các nhóm quan hệ pháp
luật khác nhau. Ví dụ, năng lực trách nhiệm hình sự bắt đầu có ở độ tuổi 14 và
có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ khi cá nhân đó trịn 16 tuổi, năng lực
kết hơn đối với nam là 20 tuổi, nữ là 18 tuổi... Co sở của việc căn cứ vào độ
hành vi của mình và do vậy mới phải chịu trách nhiệm pháp lý do hành vi đó.
hạn chế hoặc mất năng lực hành vi phải được xác định thông qua các quyết
hành vi của con người dưới lăng kính pháp luật mặc nhiên được coi là bìnhthường, do đó mặc nhiên ho được coi là có năng lực hành vi.
Như vậy, chủ thể của hành vi pháp luật là các chủ thể có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi, đã thực hiện hành vi được quy phạm pháp luật điềuchỉnh. Song, không phải mọi trường hợp, chủ thể của hành vi pháp luật đồng
pháp luật gây thiệt hại cho người khác là người vị thành niên.
e Khách thể của hành vi pháp luật
của hành vi pháp luật, hiện nay trong khoa học pháp lý tồn tại nhiều quan
“cái mà hành vi hướng tới chứ không phải là “cái” mà hành vi đó gây ra, ví
dụ khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ và
bị hành vi vi phạm pháp luật đó xâm hại chứ khơng phải là tất cả các quan hệ
phạm pháp luật đã làm phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại.
và như vậy sẽ không thấy hết nội dung và phạm vi của khách thể của hành vi
pháp luật cũng như không thấy được mục đích điều chỉnh của pháp luật đốivới các hành vi của con người.
Để có quan niệm chính xác về khách thể của hành vi pháp luật, trước hết
hành vi của mình và nó chịu su chi phối, tác động của hành vi trong mối quan
hệ với chủ thể. Nói một cách hình ảnh thì hành vi là “cầu nối” giữa chủ thể vàkhách thể. Mặt khác, xuất phát từ mục đích điều chỉnh của pháp luật đối với
hành vi pháp luật là các quan hệ pháp luật, trong đó bao gơm những lợi ích
vật chất hoặc phi vật chất mà chủ thể mong muốn đạt đến khi thực hiện hànhvi pháp luật. Khách thé của của hành vi pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ vớinhu cầu, động cơ, mục đích của chủ thể khi thực hiện hành vi pháp luật (mối
quan hệ này sẽ tiếp tục được làm rõ hơn ở mục 1.2.1)
Căn cứ vào việc hành vị pháp luật làm lợi hay gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ mà pháp luật sẽ
quy định đó là hành vi hợp pháp hay là hành vi bất hợp pháp. Tuy nhiên, việc
đều diễn ra dưới hình thức hành vi pháp luật trực tiếp tác động tới các đối
e Mat khách quan của hành vi pháp luật
hành vi pháp luật diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan mà con
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">bao gồm:
Hành vi pháp luật luôn do những chủ thể nhất định thực hiện, có những
khách quan thơng qua hành động (tác vi) hoặc không hành động (bất tác vi)
hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan.
cụ, hệ quả tác động... nếu khơng có hành vi khách quan. Hành vi khách quan
+ Hệ qua tác động của hành vi pháp luật:
buộc thực hiện đối với một hành vi chính là sự tác động tích cực hay tiêu cực
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi pháp luật với hệ quả tác động của
-quả của phép biện chứng duy vật trong khoa học pháp lý. Mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi pháp luật và hệ quả tác động của nó thể hiện ở chỗ, hệ quả đã
xảy ra là kết quả tất yếu phát sinh từ hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật phảilà nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đối với hệ quả đã xảy ra. Nếu khơng cómối quan hệ nhân quả thì hệ quả đã xảy ra trong thực tế khơng do hành vi
thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật, yếu tố này có vai trị và ý nghĩa rất
quan trọng, nhằm đảm bảo tính khách quan, tính quy luật, tránh suy diễn chủ
quan trong việc nhận diện và đánh giá một hành vi pháp luật.
+ Điều kiện, hoàn cảnh khách quan để thực hiện hành vi pháp luật:
thực hiện hành vi pháp luật là một nội dung quan trọng trong mặt khách quan
trình thực hiện hành vi pháp luật (vấn đề này sẽ được tiếp tục làm rõ hơn ởmục 1.2.3).
e Mat chu quan của hành vi pháp luật
Như các phần trên đã trình bày, hành vi của con người là hành vi có ý
thức, hơn nữa pháp luật chỉ đạt được chức năng điều chỉnh của nó khi tác động
được vào các yếu tố chủ quan và cũng chỉ có thể tác động được thơng qua các
yếu tố chủ quan mà thôi. Do vậy, hành vi pháp luật khơng những là hành vi có
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">biểu hiện khách quan ra bên ngồi mà cịn có giới hạn về mat chủ quan. Mat
chủ quan của hành vi là toàn bộ các hoạt động tâm lý, ý thức của chủ thể khithực hiện hành vi, bao gồm: động cơ, mục đích, yếu tố lý trí, yếu tố ý chí, tháiđộ tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi pháp luật.
Động cơ hành vi là động lực tâm lý thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi.
hành vi, từ đó xác định mục đích của hành vi.
Mục đích của hành vi là kết quả mà chủ thể mong muốn đạt đến bằnghành vi của mình.
Yếu tố lý trí chính là sự nhận thức của chủ thể đối với thực tại kháchquan, đối với tính thực tế và tính pháp lý của hành vi. Sự nhận thức của chủ
của hành vi.
Yếu tố ý chí chính là sự kiểm sốt và điều khiển hành vi của chủ thể trêncơ sở của nhận thức, thông qua việc đôn đốc, kiểm tra, điều chỉnh quá trình
thực hiện các thao tác, hành động, hoạt động trong hành vi của mình.
Thái độ tâm lý của chủ thể: Là thái độ tích cực hay tiêu cực của chủ thể
đối với hành vi cua mình cũng như hệ quả tác động cua hành vi đó, là ý thức
tự giác, chủ động hay thu động của chủ thể khi thực hiện hành vi.
Nguồn gốc, vai trị, vị trí và mối quan hệ giữa các yếu tố này với các yếutố khác cấu thành nên hành vi pháp luật sẽ tiếp tục được làm rõ trong mục
I.2.1 về cơ chế tâm lý, ý thức của hành vi pháp luật.
Hành vi pháp luật không đơn giản là một sự phản ứng máy móc trước sự
tác động của bên ngồi. Chủ thể hành vi pháp luật là một thực thể hoạt động
có lý trí và ý chí. Xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của mình, căn cứ vào các quy
các hành vi pháp luật để hiện thực hoá các quyền và nghĩa vu pháp luật củamình trong thực tế nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích bản thân cũng như lợi íchcủa xã hội. Q trình xác lập và thực hiện hành vi pháp luật của chủ thể diễn
<small>ra theo một cơ chế phức tạp, bao gồm các diễn biến tâm lý, ý thức của chủ thể</small>
khi xác lập và thực hiện hành vi và quá trình những diễn biến tâm lý, ý thức đóđược hiện thực hố ra bên ngoài dưới sự tác động của các điều kiện, hoàn cảnhkhách quan cụ thể.
1.2.1. Cơ chê tâm lý - ý thức của hành vi pháp luật
Mỗi hành vi là một q trình khơng chỉ gồm tuyến các động tác, lời nói
được biểu hiện ra bên ngồi mà cả cơ chế tâm lý, ý thức của nó. Cơ chế tâm
lý, ý thức của hành vi pháp luật là tổng thể các yếu tố, hoạt động tâm lý, ýthức có mối quan hệ tác động qua lại với nhau và với các điều kiện hoàn cảnhkhách quan bên ngoài, diễn ra theo một quá trình nhất định tạo nên nguồngốc, động lực, diễn biến và kết quả tâm lý, ý thức của hành vi pháp luật. Nódiễn ra qua các giai đoạn sau: giai đoạn hình thành động cơ hành vi, giai đoạn
vạch kế hoạch và ra quyết định thực hiện hành vi, giai đoạn thực hiện hành vi
pháp luật.
1.2.1.1. Hình thành động cơ hành vi
Mọi hành vi của người bình thường đều được thực hiện do sự thúc đẩycủa một hoặc một số động cơ nhất định. Động cơ là động lực có thực, thúc
Khởi nguyên của động cơ hành vi chính là nhu cầu của chủ thể. Dưới cảgiác độ tâm lý cũng như giác độ tự nhiên, con người là nơi phát sinh và chứađựng vơ số các địi hỏi và nhu cầu. Nhu cầu của con người rất phong phú và đadang đối với mọi người, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ, mọi dân tộc và khơng cógiới hạn cũng như khơng bao giờ được hồn tồn thoả mãn. Nhu cầu chưađược thoả mãn đầy đủ và việc thoả mãn nhu cầu của con người là nguồn gốccủa mọi hoạt động của cá nhân và nhóm xã hội, chẳng hạn nhu cầu làm giầu
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">bát chính dân tới các vi phạm pháp luật. Một nhu cầu đã được thoả mãn thì
khơng bao giờ cịn là động lực thúc đẩy hành vi của con người trong xã hội.
Hơn nữa, hầu hết mọi người đều có một hệ thống nhu cầu và như vậy, khi nhucâu nay được thoả mãn thì nhu cầu kia trở nên bức xúc hơn. Như nhà tâm lýhọc Nga A.G.Côvaliốp đã viết:
Nhu cầu là sự địi hỏi của cá nhân và của vài nhóm xã hội khác
quy định hướng lựa chọn của ý nghĩa, rung cảm và ý chí của con
người. Nó quy định hoạt động của cá nhân, nhóm xã hội và của
cả một giai cấp, một dân tộc, một thời đại [1, tr. 193].
Những nhu cầu này khi được nhận thức và được so sánh với hệ thống giátrị xã hội và các u cầu của pháp luật thì nó sẽ trở thành lợi ích. Nếu nhu cầu
ước muốn ở kế hoạch hoạt động sống của họ trong tương lai. Lợi ích khi có
hiện hành vi này hay hành vi kia. Đó chính là động cơ hành vi, là những nhucầu và lợi ích đã được nhận thức và có khả năng thực hiện. Nó có ý nghĩa là sự
pháp. Nhưng ngược lại, vẫn có những người đặt lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích
<small>va vi phạm pháp luật.</small>
cầu của chủ thể, bởi vì giải quyết các tình huống phức tạp chính là nhằm loạibỏ các can trở trong việc đáp ứng nhu cầu bản thân, còn thực hiện một kếhoạch thì cuối cùng cũng là nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của chủ thể.
Có thể khái quát giai đoạn này qua sơ đồ sau:
Sơ đồ Ï: ĐỘNG CƠ HOÁ HANH VỊ PHÁP LUẬT
Tinh huống phức tap
Nhu cầu, tinh huống phức tap, kế hoạch là nguồn gốc của động cơ hànhvi, tất cả các yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và khi so sánh, đốichiếu với hệ thống định hướng giá trị và yêu cầu của pháp luật, chúng đượcnhận thức dưới dạng lợi ích, mà nó trong giai đoạn này là “mắt xích” chuyểntiếp sang giai đoạn tiếp theo, giai đoạn vạch kế hoạch và ra quyết định thựchiện hành vi.
1.2.1.2. Vạch kế hoạch và ra quyết định thực hiện hành vie Vach kế hoạch:
Khi nhu cầu và lợi ích được nhận thức, động cơ xuất hiện thúc đẩy chủ
hiện rõ nét kha nang Jy tri của chủ thể thơng qua việc xác định, phân tích,đánh giá, cân nhắc các yếu tố khách quan và chủ quan để đưa ra các phươngán có khả năng (xu hướng và nội dung hành vi trong tương lai), bao gồm
<small>VIỆC:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">- Đánh giá khả năng thoả mãn nhu cầu và lợi ích (bao gồm cả năng lựcbản thân, điều kiện khách quan, khả năng cho phép của pháp luật).
- Lựa chọn đối tượng phù hợp mà hành vi sẽ hướng tới (chính là đốitượng tác động của hành vi pháp luật).
- Đề ra mục đích (việc lựa chọn mục đích là do động cơ quyết định. Mụcđích là hình ảnh chủ quan của kết quả tương lai mà chủ thể nhằm đạtđược, còn động cơ là nhân tố thúc đẩy họ để đi đến kết quả đó. Nhưngkhi mục đích đã được xác định rõ ràng, kiên định thì nó cũng trở lại thúc
day hành động của con người. Chính có sự gần gũi như vậy mà trong một
số trường hợp người ta dùng hai khái niệm này thay thế cho nhau).
- Lựa chọn phương tiện phù hợp (các yếu tố về thời gian, địa điểm, vềngười tham gia thực hiện... cũng được xem xét ở đây).
trên cơ sở của sự phân tích, đánh giá logic và kỹ lưỡng các yếu tố liên quan.
Điều này phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức, kinh nghiệm, năng lực tư duy,phẩm chất của từng người.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">e Quyết định thực hiện hành vi:
Với những phương án hành vi đã có, khi gặp điều kiện, hồn cảnh khách
phương án đang có, chọn lựa một phương án mà dường như là tốt nhất.
Quyết định thực hiện hành vi thực chất là sự khẳng định hoàn toànphương án cuối cùng dé thực hiện hành vi khi điều kiện hoàn cảnh khách quan
lập hành vi).
Quyết định thực hiện hành vị pháp luật là kết quả của sự tác động qua lạigiữa điều kiện hoàn cảnh bên ngoài, các quy định của pháp luật và những đặc
tính cá nhân của chủ thể theo sơ đồ sau:
Thơng tin về điều kiện, hoàn cảnh khách quan bên ngoài gồm tồn tại thực
tế khách quan và cả sự nhận thức, đánh giá của chủ thể về thực tế khách quan,
khả năng tiên đốn tình huống sau này mà chủ thể sẽ thực hiện hành vi, sự
hình dung về mối quan hệ giữa kết quả hành vi với các phản ứng xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Sự tác động của các quy định pháp luật (và có thể của cả các chuẩn mựcxã hội khác) trong việc chủ thể lựa chọn phương án và quyết định thực hiện
<small>phương án hành vị đã lựa chọn thông qua nhận thức pháp lý và thái độ của chủ</small>
thể đối với các quy định đó.
Tất cả những thơng tin về mơi trường bên ngồi, sự điều chỉnh của các
<small>quy phạm pháp luật, những phương án có khả năng... cuối cùng được đánh giá</small>
qua lăng kính cá nhân của từng chủ thể để đưa ra quyết định về hành vi, nóphụ thuộc rất lớn vào đặc tính cá nhân của từng người (thế giới quan, kinhnghiệm, khí chất... ).
Trong q trình vạch kế hoạch và ra quyết định, động cơ hành vi lnln có trong mọi trường hợp và sự tham gia tác động qua lại giữa các yếu tốsẽ không giống nhau. Sự đa dạng về mức độ tác động của chúng trong thực tếlà vô cùng tận!
<small>1.2.1.3. Thực hiện hành vi</small>
Các yếu tố tâm lý - ý thức khơng những chỉ đóng vai trị định hướng chohành vi mà cịn có chức năng điều khiển và điều chỉnh hành vi để đạt đượcmục đích đã đề ra.
Trong giai đoạn thực hiện hành vi, yếu tố ý chí được biểu hiện nổi trội đểvượt qua những khó khăn và trở ngại nhằm thực hiện phương án đã lựa chọn.
chẽ trên cơ sở so sánh và đối chiếu giữa mục đích, phương án đã lựa chọn vớinhững diễn biến của điều kiện, hoàn cảnh thực tế, từ đó đưa ra những điều
chỉnh, uốn nắn kịp thời cho hành vi. Những điều chỉnh, uốn nắn này có thể
dẫn tới một trong hai hệ quả sau đây:
- Quyết tâm thực hiện tới cùng hành vi để đạt được mục đích dé ra. Trongtrường hợp này, sự quyết tâm và nỗ lực ý chí để khắc phục và vượt qua cáckhó khăn và trở ngại (xuất hiện có thể do sự bất hợp lý của phương án hành viđã đề ra hoặc do sự thay đổi các hoàn cảnh hoặc do những trở ngại về mặt tâm
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>lý...) đóng vai trị quyết định. Nếu người có ý chí mạnh mẽ sẽ có đủ quyết tâm</small>
và kiên trì để thực hiện hành vi, đồng thời có thể linh hoạt thay đổi phương ánhành vi cho phù hợp với các điều kiện khách quan và chủ quan.
- Chấm dứt nửa chừng việc thực hiện hành vi: Khác với trường hợp trên,việc chấm dứt hành vi có thể xảy ra ngay cả khi khơng có sự xuất hiện củanhững trở ngại khó khăn, đặc biệt là trong trường hợp nửa chừng chủ thể nhậnthức được nhu cầu, mục đích, động cơ của mình khơng đúng đắn, đi ngược lạivới lợi ích của tồn xã hội, vi phạm các quy định pháp luật... chang hạn nhưtrường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội.
e Kế qua tâm lý của hành vi
Sau khi thực hiện hành vi thường có những thay đổi, diễn biến tâm lý thểhiện sự đánh giá của chủ thể hành vi pháp luật đối với kết quả đã đạt được.
Những thay đổi, diễn biến này thường làm xuất hiện những suy cảm nhất định,các suy cảm này thường kích thích chủ thể hành vi thực hiện hành vi mới. Kếtquả tâm lý hành vi của chủ thể có thể:
- Thoả mãn, bằng lịng, tự hào với quyết định đã lựa chọn và phương án đãthực hiện hành vi, từ đó củng cố niềm tin, lý tưởng của chủ thể hành viđối với tính đúng đắn của động cơ, mục đích của hành vi đã thực hiện,đồng thời rút ra những kinh nghiệm, bài học quý báu trong thực tiễn hànhvi của cá nhân, tăng thêm ý thức tận dung, tìm kiếm và tạo ra cơ hội chonhững hành vi tích cực, hợp pháp.
- Hướng ngược lại, làm xuất hiện những suy cảm ăn nan, hối hận, xấu hồvà lấy làm tiếc về việc đã thực hiện hành vi vi phạm các chuẩn mực pháp
luật, đạo đức, đi ngược lại với lợi ích chung của tồn xã hội. Đặc biệt,trong trường hợp người có hành vi phạm tội thì thường có tâm lý căng
nhiều người đã ra đầu thú trước pháp luật.
nhu cầu cá nhân, mục đích, động cơ, phương án hành vi trong mối quan hệ với
các chuẩn mực pháp luật, đạo đức, chính trị... và với nhu cầu, lợi ích chung
của cả xã hội. Trong đại đa số các trường hợp, sự nhận thức của chủ thểthường phù hợp với tính đúng dan khách quan của nhu cầu, động cơ, mục dichcủa hành vi, tính hợp lý và tối ưu của phương án thực hiện hành vi. Khi đó,hành vi tích cực thường sẽ dẫn tới kết quả tâm lý tích cực và hành vi tiêu cựcsẽ dẫn tới kết quả tâm lý tiêu cực. Nhưng trái lại, cũng có những trường hợpco sự sai biệt giữa nhận thức chủ quan của chủ thể so với tính đúng đắn kháchquan của hành vi thì sẽ có kết quả tâm lý ngược lại so với khi chủ thể có đượcsự nhận thức đúng đắn. Tính đúng đắn khách quan trong nhận thức của chủ
bị chi phối bởi cả sự lệch lạc trong niềm tin, lý tưởng của chủ thể trong cuộcsống, về quan điểm và thái độ của họ đối với các chuẩn mực đạo đức, phápluật, chính trị và các giá trị xã hội. Do vậy, dưới góc độ điều chỉnh hành vi, đểloại bỏ những lệch lạc này, việc giáo dục, củng cố và tăng cường ý thức đúng
đắn về các chuẩn mực pháp luật và và các giá trị xã hội là biện pháp hiệu quảvà triệt để hơn cả.
Ngồi ra, đơi khi cảm giác thoả mãn với kết quả của hành vi còn xảy ra
ngay cả khi chủ thể nhận thức được mình đã thực hiện những hành vi “lệch
thêm tâm lý coi thường pháp luật, đi ngược lại với lợi ích của người khác valợi ích xã hội. Từ đó, họ sẽ tích cực tìm kiếm cơ hội, lập kế hoạch cho nhữngvi phạm pháp luật sau đó và những hành vi này có thể ngày càng tinh vi và
chống đối xã hội và do vậy, bên cạnh các biện pháp giáo dục và thuyết phục,việc răn đe, trừng trị nghiêm khác là cần thiết và có tính quyết định trong mụcđích điều chỉnh hành vi và cải tạo những cá nhân này.
Tóm lại, cơ chế tâm lý, ý thức của hành vi pháp luật là một quá trìnhphức tạp diễn ra qua nhiều giai đoạn, với sự tham gia của nhiều yếu tố khác
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">nhau. Tuy nhiên, trong thực tế, hành vi của các chủ thể có thể bị rút bớt một
vài giai đoạn hoặc có thể khơng có sự có mặt của một vài yếu tố nào đó, từ đó
tạo ra sự đa đạng, mn màu muôn vẻ của các hành vi pháp luật.
1.2.2. Cau trúc khách quan (bên ngoài) của hành vi pháp luật
Tất cả hoạt động, diễn biến tâm lý, ý thức bên trong của chủ thể chỉ có ýnghĩa pháp luật chừng nào khi chúng được hiện thực hố ra khách quan (bênngồi) bằng hành vi xác định của chủ thể. Biểu hiện ra khách quan (bênngoài) của hành vi pháp luật là tồn bộ biểu hiện vat chất thực tế mà có thểquan sát được, nhận thấy được. Đó chính là những dấu hiệu đầu tiên, cơ bảnvà chủ yếu trong mặt khách quan của hành vi để từ đó nhận diện, đánh giá
một hành vi pháp luật, nó thể hiện mối quan hệ cụ thể của chủ thể với khách
xác định được có hay khơng có một hành vi pháp luật. Hành vi pháp luật được
1.2.2.1. Cấu trúc dạng hành động
Hành vi pháp luật dạng hành động (tác vi) là những hành vi được hiệnthực hố ra bên ngồi thơng qua những động tác, cử chỉ, lời nói của chủ thểdiễn ra theo một hệ thống có mục đích nhất định trong một hồn cảnh nhất
định mà qua đó có thể quan sát được, nhận thấy được. Đây là dạng hành vi
chính yếu tạo nên thực tiễn đời sống pháp luật. Pháp luật nước ta chủ yếu điềuchính hành vi dang này. Tuy vậy, hành vi mà thực chất bằng lời nói cũng
khơng được điều chỉnh một cách phổ biến vì hậu quả pháp lý trên thực tế donó đưa lại là rất ít và khó có khả năng kiểm sốt bởi hình thức tồn tại của nó.
Mỗi hành vi đều được thực hiện với những động lực thúc đẩy, phươngthức thực hiện nhất định, nhưng chúng lại được tổ chức thông qua một hệ
thống phức hợp các động tác, cử chỉ, lời nói với những dạng thức và cấp độ
vụ án”, ở hai trường hợp này khơng chỉ có sự khác nhau về nội dung hoạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">động mà cả ở mức độ tổng quát hoá, hệ thống hoá các động tác, cử chỉ trong
<small>đơn vị hành vị. Đối với người bác sĩ ta nói tới cơng đoạn cịn về người thẩm</small>
phán ta nói tới mục đích, cách thức chung chung. Để so sánh, cần phải nói“bác sĩ khám chữa bệnh” và “thẩm phán giải quyết vụ án” hoặc là “bác sĩ kêđơn thuốc” và “thẩm phán đọc hồ sơ vụ án”. Như vậy, hành vi ở những dạng
thức khác nhau có thể được tổ chức đồng thời ở một vài cấp độ mà những cấp
độ này được đặc trưng bởi những chừng mực tổng quát, hệ thống hoá các độngtác, cử chỉ khác nhau. Do vậy, về nguyên tắc mỗi một dạng thức hành vi xử sựsẽ được điều chỉnh pháp luật ở một mức độ nhất định tuỳ theo thang bậc cấpđộ của hành vi đó; thể hiện vai trị, khả năng và yêu cầu của pháp luật trong sựtác động đến hành vi. Ví dụ, vừa có hành vi khám chữa bệnh trái phép (chẳnghạn khơng có giấy phép), vừa có hành vi kê đơn thuốc sai quy định (chẳng hạn
do cau thả dẫn tới nhầm đơn thuốc của bệnh nhân này với bệnh nhân khác).
+ Cấp độ thấp nhất của hành vi pháp luật dạng hành động là các thao rác.Việc lật gid hồ sơ, bắt mạch, quan sát hiện tượng lâm sàng... bé ngoài tất cả
chỉ là những cử chỉ, động tác thể chất đơn thuần và có thể được liên kết trong
những trường hợp cần thiết với một cơ cấu truyền (phương tiện, công cụ).Chúng không phải là hành vi khi không hướng tới một đối tượng cụ thé này
hay đối tượng cụ thể khác của hoạt động (khơng nhằm vào việc xác định sức
khỏe và bệnh tình của bệnh nhân, khơng nhằm tìm ra sự thật của vụ án...).Trong trường hợp những cử chỉ, động tác, lời nói này kết hợp với nhau và vớicác yếu tố tâm lý - ý thức bên trong hướng tới một mục dích nhất định thì
chúng mới trở thành hành vi của chủ thể. Trong thực tế, những thao tác khơngcó hoặc ít ý nghĩa xã hội sẽ khơng thể trở thành hành vi của chủ thể trong mọiđiều kiện. Thao tác có thể được coi là những đơn vị, thành tố nhỏ nhất của
hành vi pháp luật. Khi xem xét hành vi pháp luật với tư cách là một hệ thốngthì thao tác chính là những “viên gạch” xây nên “toà nhà” hành vi pháp luật.
+ Cấp độ thứ hai của hành vi pháp luật là hành động. Một loạt các độngtác, cử chỉ, lời nói cùng hướng tới giải quyết một nhiệm vụ cụ thể sẽ tạo thành
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">cấp độ thứ hai của hành vi pháp luật. Lật giở trang hồ sơ trong sự kết hợp với
chủ ý có hướng nhằm thu nhận, xử lý thơng tin sẽ tạo thành hành động nghiên
cấp độ thao tác của hành vi pháp luật — chỉ bao gồm dạng thức bên ngoài, cấp
độ hành động của hành vi pháp luật cịn có cả nội dung bên trong (động cơ,mục đích...), chứa đựng cả tính khách quan lẫn chủ quan. Hành động là cấp độ
luật. Hoạt động là hệ thống thang bậc mà lần lượt được tạo thành từ hàng loạt
không chỉ bao gồm các thao tác và hành động (thu thập chứng cứ, xem xét