Luận văn
Hệ thống chùa huyện Phú
Bình tỉnh Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Kết cấu dân tộc của huyện Phú Bình (Thái Nguyên)
Bảng 2: Thống kê các ngôi chùa trên địa bàn huyện Phú Bình
Bảng 3: Niên đại một số chùa cổ ở Phú Bình
Bảng 4: Khảo sát các điêu khắc đá trong một số chùa Phú Bình
Bảng 5: Tượng thờ ở một số chùa Phú Bình
Bảng 6: Các chùa ở Phú Bình được xếp hạng di tích
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Mặt bằng chữ Đinh của chùa Hản (xã Tân Đức)
Sơ đồ 2: Mặt bằng chữ Công của chùa Ha (xã Nhã Lộng)
Sơ đồ 3: Mặt bằng Nội công ngoại quốc của chùa Úc Sơn (TT Hương Sơn)
Sơ đồ 4: Bài trí tượng Phật trong thượng điện chùa Ha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hoá làng xã có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình hình
thành và phát triển nền văn hoá dân tộc. Chùa lại là nhân tố phổ biến góp
phần tạo nên hệ thống văn hoá làng xã truyền thống của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Những ngôi chùa như một phần không thể thiếu trong bức
tranh về làng quê chúng ta xưa và nay.
Việt Nam là nước nông nghiệp nên hệ thống chùa luôn gắn bó mật thiết
với đời sống tinh thần của mỗi người dân nông thôn. Nó không chỉ có vị trí
đặc biệt trong văn hoá làng mà còn tác động sâu sắc, toàn diện đến nhiều mặt
của xã hội cổ truyền. Chùa với người Việt không chỉ là không gian tôn giáo,
nơi phục vụ các hoạt động thờ cúng, tâm linh mà còn là một nơi sinh hoạt
cộng đồng, là nơi in dấu những thiết chế lâu đời. Dân gian có câu “đất vua -
chùa làng - phong cảnh bụt” là vì thế. Do vậy, đã từ lâu chủ đề này trở thành
đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội, trong đó có khoa học
lịch sử.
Hiện nay, dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn, diện mạo của thôn làng, xóm ngõ có nhiều biến đổi. Trong quá
trình hội nhập, những yếu tố văn hoá ngoại quốc đang có xu thế lấn át và làm
mai một đi những yếu tố văn hoá cổ truyền. Vậy làm thế nào để chọn lọc, giữ
gìn và phát huy được các giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống, trong đó có
hệ thống chùa làng. Đây là vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội
ta quan tâm. Đặc biệt là các nhà nghiên cứu khoa học xã hội.
Từ lâu hệ thống chùa Việt Nam nói chung và hệ thống chùa ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ nói riêng đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến. Tuy
nhiên, tìm hiểu đề tài này ở một địa phương cụ thể thì chưa có nhiều, nhất là
các địa phương khu vực trung du miền núi lại càng ít hơn. Thái Nguyên là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
tỉnh nằm ở trung tâm của khu vực trung du miền núi phía Bắc, cửa ngõ nối
liền với vùng châu thổ Bắc Bộ, là địa bàn chuyển tiếp giữa miền núi và đồng
bằng. Việc đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết hệ thống chùa làng ở
đây do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên chưa được quan tâm
sâu sắc.
Chính vì vậy, qua luận văn thạc sĩ của mình, chúng tôi mong muốn
được tìm hiểu toàn diện và đầy đủ hơn vấn đề còn bỏ trống đó. Việc nghiên
cứu có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống tinh thần của người dân địa phương
nói riêng và nhân dân tỉnh Thái Nguyên nói chung, nhằm góp thêm những
hiểu biết về ngôi chùa ở vùng trung du miền núi phía Bắc, thấy được sự giao
thoa văn hoá giữa đồng bằng và miền núi trong tiến trình lịch sử.
Chọn đề tài “Hệ thống chùa huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên” làm
luận văn Thạc sĩ, bản thân tôi là người địa phương cũng như mọi người dân
địa phương khác có nhu cầu hiểu biết về đời sống văn hoá tinh thần của người
dân quê hương qua hệ thống chùa làng và mong muốn những truyền thống tốt
đẹp của quê hương sẽ luôn được phát huy trong cuộc sống hiện tại.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Ngôi chùa là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam, là một trong
những biểu tượng của làng xã Việt Nam truyền thống. Thêm nữa, chùa là cơ
sở thờ tự của đạo Phật - một tôn giáo gắn bó với dân tộc ta từ lâu đời và có
ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tinh thần của nhân dân. Vì thế, chùa từ lâu
là đối tượng quan tâm của các nhà nghiên cứu dưới nhiều góc độ: văn hoá dân
gian, kiến trúc, điêu khắc, tôn giáo, khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử
Trước hết phải kể đến cuốn “Chùa Việt” của tác giả Trần Lâm Biền
xuất bản năm 1996. Cuốn sách đã khái quát diễn biến của ngôi chùa Việt,
phân tích văn hoá, hướng, bố cục chung và khảo tả về hệ thống tượng thờ
trong chùa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Cuốn sách “Chùa Việt Nam” của tác giả Hà Văn Tấn là công trình kết
tinh các hình ảnh và giá trị của khối di sản văn hoá và tôn giáo - tín ngưỡng,
được các tác giả thể hiện tinh tế, súc tích qua bài dẫn luận công phu về toàn
cảnh chùa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và quá trình du nhập đạo Phật ở
Việt Nam. 118 ngôi chùa trong cả nước đã được phủ kín trong sách “Chùa
Việt Nam”; đặc biệt thêm hai dạng chùa mới ít thấy xuất hiện là chùa miền
núi và chùa miền hải đảo.
Trong cuốn “Đình chùa, lăng tẩm nổi tiếng ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Mạnh Thường xuất bản năm 1999, tác giả đã giới thiệu các công
trình kiến trúc cổ được xếp hạng cấp quốc gia trên phạm vi cả nước.
Gần đây, đề tài chùa làng còn được nghiên cứu, thống kê dưới hình
thức các cuốn địa chí hay từ điển như cuốn Từ điển di tích văn hoá Việt Nam
do tác giả Ngô Đức Thọ chủ biên xuất bản năm 2003, cuốn Địa chí tôn giáo -
lễ hội Việt Nam của tác giả Mai Thanh Hải xuất bản năm 2004.
Các công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu tập trung ở đồng bằng Bắc
Bộ. Việc tìm hiểu “Hệ thống chùa huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên” trước
nay chưa được thực hiện. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực và khía cạnh khác
nhau, các nhà nghiên cứu đã có đề cập tới nó một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Như cuốn “Thái Nguyên đất và người” do Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thái
Nguyên xuất bản năm 2003 điểm qua một số di tích lịch sử văn hoá ở Phú
Bình, cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình” cung cấp thêm một số tư liệu
khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội, truyền thống đấu tranh bất khuất quật
cường của nhân dân các dân tộc huyện Phú Bình, trong đó có đề cập đến một
số ngôi chùa là di tích lịch sử, nơi in ấn các tài liệu cách mạng, che giấu các
chiến sĩ yêu nước thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Vì thế, tìm hiểu hệ thống chùa ở một huyện trung du miền núi Bắc Bộ -
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên - là mới mẻ và cần thiết. Trong quá trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
thực hiện luận văn, chúng tôi tôn trọng thành quả của những người đi trước,
tham khảo và coi đó là ý kiến gợi mở quý báu, tạo điều kiện cho chúng tôi
tiếp tục vào nghiên cứu đề tài khoa học của mình.
3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là hệ thống chùa huyện Phú
Bình về các khía cạnh như: niên đại ngôi chùa, các vị thần, Phật được thờ ở
chùa, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của ngôi chùa Từ đó, thấy được sự
ảnh hưởng của chùa làng với đời sống văn hoá tinh thần của cư dân Phú Bình,
sự giao lưu văn hoá giữa miền xuôi với miền ngược và hiện trạng của các
ngôi chùa ở Phú Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm những ngôi chùa đang còn
hiện diện, còn dấu ấn trong nhân dân và cả những ngôi chùa mới được xây
dựng lại trên địa bàn huyện Phú Bình.
3.3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Hệ thống chùa huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên”,
chúng tôi mong muốn tìm hiểu và phản ánh được một cách khoa học, chân
thực hệ thống chùa của một huyện cụ thể ở khu vực trung du miền núi Bắc
Bộ, để từ đó có được nhận thức sâu sắc hơn về ngôi chùa và tôn giáo thờ Phật
của cư dân miền núi.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi còn nhằm cung cấp cho giáo viên, học
sinh, cán bộ văn hoá và nhân dân địa phương một cái nhìn khách quan về văn
hoá chùa làng. Từ đó, người dân có những hành động đúng về tín ngưỡng, tôn
giáo, không đi chệch hướng chủ trương của Đảng và Nhà nước.
3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
- Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội – văn hóa của huyện
Phú Bình.
- Tìm hiểu hệ thống chùa huyện Phú Bình
- Tìm hiểu vai trò của chùa trong đời sống cư dân Phú Bình.
4. Nguồn tƣ liệu
- Nguồn tư liệu chung: bao gồm một số sử sách và địa chí được viết dưới các
triều đại phong kiến như: Dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh
địa dư chí,…; các sách chuyên khảo về chùa và liên quan đến chùa Việt Nam
nói chung, chùa ở Thái Nguyên nói riêng. Các tài liệu liên quan đến vấn đề
nghiên cứu như: tài liệu về kiến trúc, điêu khắc dân gian, văn hoá làng xã, tôn
giáo đặc biệt là đạo Phật, …
- Nguồn tư liệu điền dã: hương ước, sắc phong, thần tích, câu đối còn lưu lại
trong các ngôi chùa làng. Ngoài ra, còn các tư liệu truyền miệng do các cụ cao
niên ở Phú Bình cung cấp (truyện thần thoại, truyền thuyết lịch sử, những
nghi lễ thờ tế).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn luận văn, chúng tôi sử dụng
phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu. Do có một số tư liệu
chữ Hán nên công tác giám định tư liệu cũng được chú trọng. Với đối tượng
nghiên cứu là hệ thống chùa trên địa bàn huyện Phú Bình, chúng tôi đã sử
dụng phương pháp miêu tả, thống kê, tổng hợp, hệ thống hoá bằng bảng biểu,
phương pháp phân loại, phương pháp đối sánh. Đồng thời, kết hợp với các
phương pháp liên ngành như: điều tra xã hội học, điền dã dân tộc học,…
6. Đóng góp của Luận văn
Đề tài “Hệ thống chùa huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên” mong muốn
góp phần nhỏ bé vào việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá cổ truyền của
đồng bào các dân tộc huyện Phú Bình qua việc khảo tả hệ thống chùa trên địa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
bàn huyện và đánh giá ảnh hưởng của nó với đời sống văn hoá tinh thần của
cư dân địa phương. Từ đây, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, lòng yêu quê
hương đất nước và trách nhiệm đối với việc bảo tồn các giá trị văn hoá cho
các thế hệ người dân Phú Bình.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, phần Nội dung của luận văn được
chia thành 3 chương.
Chương 1: Khái quát về huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
Chương 2: Hệ thống chùa huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Vai trò của chùa trong đời sống cư dân Phú Bình
Ngoài ra trong luận văn còn có các phần: Tài liệu tham khảo, Phụ lục
và Mục lục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lí, địa hình
Phú Bình là huyện trung du, miền núi, địa đầu phía đông nam của tỉnh
Thái Nguyên, gồm hai dải đất nằm dọc hai bờ sông Cầu, huyện lị đặt tại thị
trấn Hương Sơn, cách thành phố 28 km theo đường quốc lộ 37. Địa bàn huyện
có toạ độ địa lí từ 21
0
23’33’’ đến 21
0
35’22’’ vĩ Bắc, giữa 105
0
51’ đến
106
0
02’ kinh Đông. Phía bắc và tây bắc giáp huyện Đồng Hỷ, phía tây và tây
nam giáp huyện Phổ Yên và thành phố Thái Nguyên, phía đông giáp huyện
Yên Thế, phía nam giáp huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang).
Theo số liệu thống kê tháng 12 năm 2004, tổng diện tích tự nhiên của
huyện là 249,36 km
2
(bằng 24.936 ha) với 21 đơn vị hành chính gồm 20 xã và
1 thị trấn.
Đặc điểm kiến tạo địa chất cùng dòng chảy của sông Cầu, sông Máng
và kênh Đông (thuộc hệ thống đại thuỷ nông) chia cắt Phú Bình thành 3 vùng:
- Vùng I (tả ngạn sông Máng) gồm 8 xã trong đó có 7 xã miền núi là Đồng
Liên, Bàn Đạt, Đào Xá, Tân Khánh, Tân Kim, Tân Thành, Tân Hoà và xã
trung du Bảo Lý.
- Vùng II có địa hình trung du gồm 7 xã: Xuân Phương, Kha Sơn, Dương
Thành, Thanh Ninh, Lương Phú, Tân Đức và thị trấn Hương Sơn.
- Vùng III (vùng nước kênh núi Cốc) có 6 xã: Hà Châu, Nga My, Điềm Thuỵ,
Thượng Đình, Nhã Lộng và Úc Kỳ.
Muốn đến Phú Bình, lấy trung tâm thành phố Thái Nguyên làm điểm
xuất phát, xuôi theo đường Cách mạng tháng Tám chỉ khoảng 15 km ta đã ở
địa phận Phú Bình, xã đầu tiên giáp thành phố là Thượng Đình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Ở Phú Bình, tuy đồi núi thấp chiếm một diện tích lớn nhưng về giao
thông lại có ưu thế cả đường bộ lẫn đường sông. Phú Bình được ví như chiếc
cầu nối liền vùng đồng bằng châu thổ - nơi có những đô thị buôn bán sầm uất,
với miền núi non hiểm trở phía bắc – nơi ngã ba của con đường giao lưu với
các tỉnh lân cận: Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, …
Vị thế này rất thuận tiện cho Phú Bình giao lưu với các huyện xung
quanh, với thành phố và một số địa phương khác.
Nhìn chung, toàn huyện Phú Bình có địa hình tương đối bằng phẳng.
Vùng đồi núi hình bát úp thấp dưới 100m. Độ cao so với mặt nước biển trung
bình là 14m, nơi thấp nhất thuộc địa phận xã Dương Thành là 10m và đỉnh
đèo Bóp (xã Tân Kim) là nơi cao nhất (250m so với mặt biển). Địa hình Phú
Bình có độ dốc giảm dần theo hướng đông bắc - tây nam. Diện tích có độ dốc
nhỏ hơn 8
o
chiếm 67,56% tổng diện tích tự nhiên của huyện. Địa hình mang
đặc điểm của vùng đồi trung du xen với đồng bằng phù sa sông Cầu là điều
kiện tự nhiên thuận lợi để Phú Bình phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt
là trồng cây lương thực.
1.1.2. Giao thông, sông ngòi, khí hậu
Huyện Phú Bình có 2 con sông và 3 dòng suối chảy qua.
Dòng sông Cầu trước có tên là sông Phú Lương (theo “Thủy kinh chú”
thế kỷ VI), bắt nguồn từ độ cao trên 1200m phía Bắc Tam Tao (Chợ Đồn, Bắc
Kạn), chảy qua thị xã Bắc Kạn, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Bắc Ninh và thị
trấn Phả Lại.
Sông có lưu lượng nước lớn, khoảng 135
3
/s. Nhờ có lưu lượng nước
lớn mà từ xa xưa sông Cầu đã là một trong những tuyến đường thủy quan
trọng đảm nhận việc giao lưu buôn bán giữa các địa phương dọc hai bên bờ
sông với một số địa phương khác. Sông Cầu dưới nước cùng quốc lộ 3 trên bộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
là những con đường truyền thống nối liền miền núi Việt Bắc với miền xuôi
châu thổ.
Đoạn sông Cầu qua Thái Nguyên chảy theo hướng bắc – nam, uốn
khúc quanh những xóm làng trù phú lâu đời. Kết quả điền dã cho thấy lòng
sông có độ rộng hẹp khác nhau ở từng đoạn sông, khúc sông. Đoạn sông Cầu
chảy từ đập Thác Huống (xã Đồng Liên) qua 9 xã rồi đổ về Chã (huyện Phổ
Yên) có chiều dài 29km, có lưu lượng nước trung bình vào mùa mưa từ 280
đến 610m
3
/s, vào mùa khô từ 6,3 đến 6,5m
3
/s. Do chảy qua địa hình huyện
tương đối bằng phẳng, không có nhiều ghềnh đá nên lòng sông như mở rộng
ra, trung bình khoảng 120m, lòng sông cũng nông hơn, nước chảy hiền hòa
hơn so với ở thượng nguồn.
Sông Cầu gắn bó mật thiết với người dân Phú Bình, cung cấp nguồn
nước chính cho sinh hoạt và sản xuất của huyện. Sông còn được sử dụng vào
mục đích thông thương, vận tải, tạo điều kiện cho Phú Bình tiếp xúc, thâu
nhận những biến động về kinh tế, chính trị từ các trung tâm kinh tế - chính trị
- văn hóa. Nhờ con sông này mà có mối giao lưu văn hóa giữa hai miền đồng
bằng châu thổ sông Hồng và miền đệm trung du với miền núi cao phía Bắc.
Chảy từ miền núi xuôi xuống đồng bằng rồi đổ ra biển Đông nên sông
Cầu có ý nghĩa chiến lược quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát triển
chung của địa phương. Trên địa phận Phú Bình nói riêng và Thái Nguyên nói
chung, nơi được xem như cửa ngõ lá chắn phía Bắc bảo vệ Thăng Long – Hà
Nội, sông Cầu lại đặc biệt có ý nghĩa về quân sự. Trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, nhiều khúc sông là cạm bẫy nhử địch ở đồng bằng tiến lên để
bao vây, tiêu diệt.
Ngoài sông Cầu, trên địa bàn huyện còn có con sông Đào (còn gọi là
sông Máng) bắt nguồn từ đập Thác Huống (xã Đồng Liên) chảy qua địa phận
9 xã và đổ về sông Thương (Bắc Giang) với chiều dài 31km. Đây là con sông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
nằm trong hệ thống đại thủy nông được khởi công xây dựng từ năm 1922.
Hàng năm, sông Đào cung cấp nước tưới cho 1800ha ruộng của Phú Bình và
hàng ngàn ha ruộng của các huyện Hiệp Hòa, Tân Yên, Yên Thế thuộc tỉnh
Bắc Giang. Bên cạnh đó là hệ thống đại thủy nông Hồ Núi Cốc và 119 hồ trữ
nước cung cấp nước tưới cho hơn 1000ha đất canh tác thuộc các xã tây nam,
tây bắc của huyện.
Hệ thống giao thông trên địa bàn Phú Bình tương đối dày đặc. Quốc lộ
37 từ thành phố Thái Nguyên chạy qua suốt chiều dài của huyện đến thành
phố Bắc Giang. Quốc lộ 38 chạy từ Điềm Thụy qua Hà Châu, Kha Sơn đi
Nhã Nam (Bắc Giang). Ngoài hai tuyến quốc lộ nói trên, Phú Bình còn có
120km đường liên xã, 198km đường liên thôn, đảm bảo cho xe ôtô đi lại
thuận tiện đến tận các thôn xã trong huyện.
Về khí hậu: Khí hậu Thái Nguyên vào mùa đông được chia thành 3
vùng rõ rệt: Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai; vùng lạnh vừa
gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía nam huyện Võ Nhai; vùng ấm
gồm các huyện: Đại Từ, Thành phố Thái Nguyên, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ
Yên và Thị xã Sông Công.
Nằm trong cùng một tiểu vùng khí hậu nên cũng giống như thành phố
Thái Nguyên và một số huyện phụ cận, địa hình là yếu tố chủ yếu chi phối sự
phân hóa khí hậu huyện Phú Bình.
Địa phận trải ra trên giới hạn tọa độ địa lý từ 21
o
23’ đến 21
o
35’ vĩ Bắc,
thuộc phần cuối các cánh cung núi của đất nước. Do vậy, nhìn chung khí hậu
ở đây nóng ẩm, mưa nhiều, có một mùa đông lạnh giá và thất thường với
nhiệt độ trung bình năm ở mức 23
o
C. Mùa đông đến sớm và kết thúc muộn
hơn so với các tỉnh đồng bằng khoảng 10 ngày. Vì cách xa biển đến hơn
200km nên nơi đây rất ít chịu ảnh hưởng từ biển. Lượng mưa trung bình là
dưới 1500mm/năm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Nhìn chung, khí hậu này khá thuận lợi cho huyện Phú Bình phát triển
sản xuất nông nghiệp.
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội – văn hoá
1.2.1. Lịch sử hình thành huyện
Ngược dòng lịch sử, tìm kiếm những tư liệu xưa còn lưu giữ được, ta
thấy địa danh, địa giới của huyện Phú Bình nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói
chung có nhiều biến đổi.
Theo đó, đất Phú Bình ngày nay là đất huyện Tư Nông thời nhà Lý. Sách
“Thiên Nam dư hạ tập” ghi rằng Tư Nông là một trong sáu huyện (Tư Nông,
Đồng Hỷ, Võ Nhai, Phú Lương, Đại Từ, Bình Tuyền) thuộc phủ Phú Bình.
Sách “Cương mục” và sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi - một trong
những tác phẩm xưa nhất còn lại có giá trị trong nghiên cứu khoa học địa lý
của Việt Nam - lại ghi tư nông là một trong 8 huyện của phủ Phú Bình thuộc
thừa tuyên Ninh Sóc (tên gọi của tỉnh Thái Nguyên thời Lê Thánh Tông).
“Huyện đặt từ trước thời thuộc Minh, đời Lê vẫn theo như thế, phiên
thần họ Ma nối đời quản trị, bảo triều đầu đời Gia Long vẫn theo như thế”
[20,156].
Đến năm 1831, vua Minh Mạng chia cả nước thành 31 tỉnh. Tỉnh Thái
Nguyên gồm hai phủ là Phú Bình và Tòng Hóa. Huyện Tư Nông thuộc phủ
Phú Bình. “Đồng Khánh địa dư chí” chép rằng Tư Nông là một trong 5 huyện
(Tư Nông, Phổ Yên, Bình Xuyên, Động Hỷ, Vũ Nhai) của phủ Phú Bình.
“Huyện lỵ lúc trước đặt ở địa phận xã La Đình. Năm Tự Đức thứ 4
(1851) vâng chỉ giảm bỏ, vẫn do phủ Phú Bình kiêm lí.
Huyện hạt cách phía đông phủ lỵ 5 dặm, phía đông giáp xã Giản Ngoại
huyện Yên Thế tỉnh Bắc Ninh, phía tây giáp xã Đắc Hiền huyện Phổ Yên,
phía nam giáp các xã Nga My, Yên Châu huyện Hiệp Hòa, phía bắc giáp các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
xã Lưu Xá, Niệm Quang huyện Đồng Hỷ, phía Đông Bắc giáp xã Lâu
Thượng huyện Vũ Nhai.
Đông tây cách nhau 68 dặm. Nam bắc cách nhau 34 dặm. Huyện có 9
tổng, gồm 54 xã, thôn, phường:
- Tổng Nhã Lộng (7 xã, thôn): xã Triều Dương, xã Nhã Lộng, xã Úc Kỳ, xã
Điềm Thụy, xã Ngọc Long, thôn Ngọc Sơn, thôn Cống Thượng.
- Tổng Thượng Đình (9 xã, thôn): xã Thượng Đình, xã Quan Tràng, xã Đào
Xá, xã Ninh Sơn, xã Thuần Lương, xã Dưỡng Mông, xã Lục Dương, thôn
Nông Cúng, thôn Đình Kiều.
- Tổng Nghĩa Hương (4 xã, thôn): xã Trang Ôn, xã Vân Dương, thôn Cầu
Đông xã Nghĩa Hương, thôn Yên Mễ xã Nghĩa Hương.
- Tổng La Đình (9 xã, thôn): xã La Đình, xã Mai Sơn, xã Kha Nhi, xã La Sơn,
xã Úc Sơn, xã Phương Độ, xã Bằng Cầu, thôn Thượng xã Kha Sơn, thôn Hạ
xã Kha Sơn.
- Tổng Phao Thanh (6 xã): xã Phao Thanh, xã Lương Tạ, xã Phú Mỹ, xã
Lương Trình, xã Thanh Lương, xã Ngô Xá.
- Tổng Đức Lân (6 xã, thôn): xã Đức Lân, xã Nỗ Dương, xã Loa Lâu, xã Lũ
Vân, thôn Nội xã Xuân Nùng, thôn Ngoại xã Xuân Nùng.
- Tổng Tiên La (4 xã): xã Tiên La, xã Điều Khê, xã Bạch Thạch, xã Vân Đồn
- Tổng Lý Nhân (6 xã): xã Lý Nhân, xã Đăng Nhân, xã Kim Lĩnh, xã Lũ An,
xã Cô Giạ, xã Chỉ Mê.
- Tổng Bảo Nang (3 xã phường): xã Bảo Nang, xã Thanh Huống, phường
Thủy Cơ xã Triêu Dương” [12,67]
Như vậy, trong suốt quá trình hình thành và tồn tại, huyện Phú Bình đã
được ghi lại trong các sách vở có tính chất địa lý của các triều đại phong kiến
xưa. Tuy đôi chỗ không thống nhất về tên gọi và lãnh vực của huyện nhưng
vẫn cho thấy rằng huyện Phú Bình ngày nay đã được lịch sử công nhận từ lâu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời, ngày 25/3/1948, chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh 148SL
thống nhất trong cả nước bỏ phủ, châu, quận; trên cấp xã là cấp huyện.
Ngày 01/7/1956, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 268SL thành lập khu tự
trị Việt Bắc. Tỉnh Thái Nguyên trong khu tự trị Việt Bắc gồm thị xã Thái
Nguyên và các huyện Định Hóa, Phú Lương, Đại Từ, Đồng Hỷ và Võ Nhai.
Huyện Phú Bình tách sang tỉnh Bắc Giang, huyện Phổ Yên về tỉnh Vĩnh Phúc.
Đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai huyện Phú Bình, Phổ Yên, ngày
15/6/1957, chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định trả lại hai huyện nói trên về
tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 21/4/1965, ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra nghị quyết số 103 NQ – TVQH thành lập tỉnh Bắc Thái. Huyện
Phú Bình là một trong 14 huyện, thành, thị của tỉnh Bắc Thái.
Ngày 06/11/1996, trong kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, Quốc hội
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra nghị quyết tách tỉnh Bắc Thái
về tái lập hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Cạn. Huyện Phú Bình thuộc tỉnh Thái
Nguyên. Toàn huyện có 20 xã, 1 thị trấn, bao gồm 311 xóm và 4 tổ dân phố.
Các xã, thị trấn là: thị trấn Hương Sơn, xã Đồng Liên, Bàn Đạt, Đào Xá,
Thượng Đình, Điềm Thụy, Nhã Lộng, Bảo Lý, Tân Khánh, Tân Kim, Tân
Thành, Tân Hòa, Tân Đức, Lương Phú, Dương Thành, Thanh Ninh, Kha Sơn,
Xuân Phương, Úc Kỳ, Nga My, Hà Châu.
1.2.2. Dân cư
Dân cư là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế.
Thái Nguyên là một tỉnh đông dân, mật độ dân cư trung bình toàn tỉnh là
297 người/km
2
(2000). So sánh với nhiều tỉnh thuộc miền núi biên giới phía Bắc,
tỉnh Thái Nguyên có mật độ dân cư trung bình cao gấp 2 lần tỉnh Tuyên Quang,
gấp 3 lần tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Sơn La và gấp tới 7 lần tỉnh Lai Châu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Trong đó, theo Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2007 (Nxb
Thống kê, 2008, Tr8) thì huyện Phú Bình có tổng số dân là 142.218 người với
mật độ dân số 556 người/km
2
, đứng hàng thứ hai trong tỉnh sau thành phố
Thái Nguyên. Sự phân bố dân cư trong huyện không đồng đều. Ở các xã miền
núi dân cư thưa thớt, trong khi ở các xã phía nam dân cư quần tụ đông đúc
hơn nhiều. Là một huyện thuần nông nên ở Phú Bình, dân số nông thôn chiếm
trên 98%, dân số thị trấn chỉ có trên 1,2% tổng số dân của huyện.
Dân cư đông đúc làm cho địa phương có nguồn lao động dồi dào, có thị
trường tiêu thụ rộng. Nhưng trong điều kiện huyện Phú Bình nói riêng và tỉnh
Thái Nguyên nói chung còn nghèo thì số dân đông tất yếu sẽ dẫn đến mức thu
nhập tính trên đầu người thấp.
Tuy nhiên, dân số Phú Bình có chiều hướng giảm. Theo tổng điều tra
dân số và nhà ở 1/4/2009, trong 10 năm (1999-2009) dân số huyện giảm
2.100 người do có nhiều người di chuyển đi nơi khác.
Về kết cấu dân tộc: Thành phần dân cư huyện Phú Bình gồm 14 dân tộc
anh em chung sống xen kẽ với nhau, có thể kể đến các dân tộc: Kinh, Tày,
Nùng, Dao, Sán Dìu, Hoa, Thái, H’Mông, …
Kết cấu dân tộc trên toàn huyện được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Kết cấu dân tộc của huyện Phú Bình (Thái Nguyên)
(Đơn vị tính: người)
Dân tộc
Kinh
Tày
Nùng
Dao
Sán Dìu
Các dân
tộc khác
Số dân
126.965
1.954
4.025
27
2.053
420
Qua bảng trên, ta thấy dân tộc Kinh có 126.965 người trên tổng số
138.760 người của toàn huyện, tương đương với hơn 90%, chiếm số đông
nhất. Các dân tộc thiểu số còn lại như Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu, H’Mông,
Hoa, … chiếm số lượng rất ít.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
1.2.3. Hoạt động kinh tế
Cơ cấu kinh tế của huyện Phú Bình là nông nghiệp – lâm nghiệp – công
nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Trong đó ngành sản xuất chủ yếu là nông –
lâm nghiệp.
Sản xuất nông – lâm nghiệp
Có thể nói, người dân Phú Bình sống chủ yếu bằng sản xuất nông
nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp là 13.845,93 ha, trong đó có 10.085, 14 ha
đất trồng cây hàng năm, 2.296,55 ha đất vườn tạp và 1.060,43 ha đất trồng cây
lâu năm. Ngoài ra, Phú Bình còn có 400,8 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản.
Với tiềm năng như vậy, lại cộng thêm người dân cần cù lao động, giàu kinh
nghiệm sản xuất là điều kiện thuận lợi cho Phú Bình phát triển nông nghiệp.
Sản xuất nông nghệp tuy còn nhiều khó khăn, phụ thuộc vào thiên
nhiên nhưng từ xưa đến nay, Phú Bình vẫn được coi là vựa lúa ở Thái
Nguyên. Cùng với Đại Từ, Phổ Yên, Phú Bình là một trong những trọng điểm
lúa của tỉnh, năng suất lúa cao hơn mức trung bình của toàn tỉnh (đạt 34,36
tạ/ha so với mức trung bình 33,74 tạ/ha của toàn tỉnh).
Trong những năm gần đây, sản xuất nông – lâm nghiệp của huyện Phú
Bình chuyển đổi nhanh cơ cấu sản xuất theo hướng phát triển kinh tế hàng
hóa gắn với thị trường, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, phát
triển mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm. Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp từ
năm 1995 đến năm 2003 bình quân tăng 3,68%/năm. Trong đó, ngành chăn
nuôi tăng nhanh; năm 2003, toàn ngành tăng 7,85% so với năm 2002, trong
đó đàn bò tăng 28,89%, đàn lợn tăng 7,18%, đàn gia cầm tăng 16,49% (riêng
đàn trâu giảm 4,13%).
Ngành lâm nghiệp: Trong 10 năm trở lại đây, huyện tập trung khoanh
nuôi, trồng mới, cải tạo, bảo vệ rừng tái sinh, chưa có doanh thu.
Thủ công nghiệp và thương nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Bên cạnh nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, Phú Bình còn
có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng với 14
ngành nghề khác nhau.
Trong các nghề thủ công, đáng chú ý là nghề làm đồ gốm ở Lang Tạ,
nghề đan lát đồ mây tre rải rác ở các thôn xã,…
Do vị trí địa lý, giao thông thuận tiện cho việc giao lưu hàng hóa, đặc
biệt thuận tiện cho việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho thị trường Thái
Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hà Nội, nên buôn bán ở Phú Bình có vị trí
đáng kể.
Huyện Phú Bình có một số chợ lớn nằm sát đường giao thông như chợ
Đồn, chợ Cầu, chợ Hanh, chợ Tân Đức,… Đó chính là những cầu giao lưu
hàng hóa đối với các vùng xung quanh. Thị trấn Hương Sơn ngày càng mở
rộng, dân cư hội tụ về đây làm ăn buôn bán ngày một sầm uất.
Tiềm năng về kinh tế, nhất là tiềm năng về đất đai và sức lao động là
đặc điểm đáng chú ý của Phú Bình.
Trong gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng đề xướng, Phú
Bình đã khai thác các tiềm năng, nguồn lực, phát huy truyền thống cần cù, sáng
tạo của nhân dân, đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định,chuyển dịch
cơ cấu rõ nét. Những năm 90 trở về trước, kinh tế của huyện chủ yếu là nông
nghiệp (tỷ trọng trên 91%), đến năm 2004 nông – lâm nghiệp chiếm tỷ trọng
70,54%, công nghiệp – xây dựng 11,38% và dịch vụ 18,07%. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm (2000 - 2005), toàn huyện đạt 6,8%, đời
sống nhân dân được cải thiện, góp phần ổn định chính trị và xã hội.
1.2.4. Tình hình văn hóa
Lịch triều hiến chương loại chí chép lại từ xưa, “… về văn học, phủ
Phú Bình tuy kém 4 Thừa tuyên và trấn Thanh Hóa, Nghệ An nhưng 7 huyện
đều có người đỗ đạt”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
“Trong huyện, người Kinh có học, thỉnh thoảng có người thi đỗ đạt
khoa mục. Các tổng Phao Thanh, Đức Lân, Tiên La, Lý Nhân, Bảo Nang
nhiều người dũng mãnh, hung hãn. Các tổng Nhã Lộng, Thượng Đình nhiều
người nóng nảy. Dân phần nhiều làm ruộng, buôn bán, đánh cá, đốn củi. Mỗi
người đều theo nghề của mình nhưng cần kiệm thì giống nhau. Các lễ tiết
Nguyên Đán, Đoan Dương, Trung Nguyên, Trừ Tịch và tế lế thờ thần, tục
cưới xin tang ma thì giống miền xuôi.
Cũng có người Mán ngụ cư là Mán Sơn Miêu, Mán Quần Cộc, Mán
Cao Lang, tập tục khác với người Kinh. Dân theo đạo Thiên chúa thì chỉ có
xã Nhã Lộng giản tòng mà thôi” [12,89].
Ngày nay, sự nghiệp văn hóa – giáo dục của Phú Bình đã có nhiều thay đổi.
Về giáo dục – đào tạo: Năm mươi năm qua, giáo dục – đào tạo của Phú
Bình được quan tâm phát triển toàn diện ở các cấp học. Đến năm học 2003 –
2004, cả huyện có 66 trường, trong đó có 22 trường mẫu giáo, 21 trường tiểu
học, 21 trường THCS, 2 trường THPT; có 1055 lớp, trong đó có 179 lớp mẫu
giáo, 476 lớp tiểu học, 334 lớp THCS và 66 lớp THPT. Toàn huyện có 1584
giáo viên, trong đó có 216 giáo viên mẫu giáo, còn lại là giáo viên 3 cấp học
phông. Số học sinh phổ thông toàn huyện là 28 953. Năm 2003, có 19 trong
tổng số 21 xã, thị trấn của huyện đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục
THCS, 70% số trường đạt chuẩn quốc gia.
Về văn hóa: Nhiều di tích lịch sử còn lại trên mảnh đất Phú Bình ngày
nay như đình Phương Độ, đình Hộ Lệnh, đình Xuân La, chùa Mai Sơn,…
Những làn điệu dân ca như hát ví, hát chèo, hát trống quân,… biểu diễn
trong các dịp lễ hội được nhân dân rất ưa thích. Đặc biệt, kho tàng ca dao, tục
ngữ ở đây rất phong phú, đa dạng, phản ánh kinh nghiệm sản xuất, chế diễu
thói hư tật xấu trong xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Ngày nay, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được phát
triển mạnh mẽ từ huyện đến các cơ sở, góp phần nâng cao đời sống tinh thần
cho nhân dân các dân tộc trong huyện, tạo môi trường văn hóa lành mạnh,
đậm đà bản sắc dân tộc cho thế hệ trẻ.
Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư trong huyện. Năm 2003 có 267 trong tổng số 315 xóm đăng kí xây dựng
xóm văn hóa (tăng 23% so với năm 2002), 199 xóm có quy ước văn hóa, 70%
số hộ đạt gia đình văn hóa.
Tiểu kết chƣơng 1
Phú Bình là huyện trung du, miền núi, địa đầu phía đông nam của tỉnh
Thái Nguyên. Đây là vùng đất có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi để phát
triển kinh tế xã hội. Trên địa bàn huyện, nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống.
Được ví như chiếc cầu nối liền vùng đồng bằng châu thổ với miền núi
non hiểm trở phía bắc, bản sắc văn hóa của Phú Bình là kết quả của sự giao
thoa văn hóa giữa văn hóa miền xuôi và miền ngược. Điều này được thể hiện
qua ngôi chùa làng và tín ngưỡng thờ Phật của người dân địa phương.