Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.45 MB, 105 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>TRIMS ¿A| Hoe</small>
Tính cấp thiết của đề tài. 1-2
Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2-3
Phạm vi nghiên cứu của đề tài. 3
Cơ cấu của luận án. 4-5
Chương 1.
Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam với những
quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong pháp luật
tố tụng dân sự của một số nước ngoài. 12-17Sơ lược về sự phát triển của các quy định về quyền tự định ,
đoạt của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự nước ta.
Giai đoạn từ 1945 đến 1954. 17-19
Giai đoạn từ 1954 đến 1975. 19-22Giai đoạn từ 1975 đến 1989 và đến nay. 22-25
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">12.3.6 `
Co sở xã hội của các quy định về quyền tu định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự.
Cơ sở pháp lý của các quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự.
Nội dung quyền tự định đoạt của đương trong tố tụng dân
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án
dan sự.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu,
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc hoà giải.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra chứng
của đương sự. :-¿
Quyền tự định đoạt của đương sự tại phiên toà.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản
án, quyết định của Toà án.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giai đoạn thi hành
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong thực tiễn
xét xử. 76-84
các quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương
sự trong tố tụng dân sự. 84-893.3 Một số kiến nghị . 893.3.1 Về xây dựng và hồn thiện pháp luật. 89-95
tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp
luật trong nhân dân. 95-96
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp. Sự đa
dân sự, các yêu cầu của công dân trong việc bảo vệ những quyền và lợi ích hợppháp của họ cũng ngày càng có chiều hướng gia tăng về số lượng, và độ phứctạp về nội dung tranh chấp. Vấn đề đặt ra là, việc giải quyết các tranh chấp đó
quá trình giải quyết tranh chấp, thì các quy định của pháp luật liên quan đếnquyền tự định đoạt của đương sự phải được bảo đảm ra sao, để Toà án giải
Quyền tự định đoạt của đương sự được ghi nhận trong Pháp lệnh thủ tục
Thực tế những năm qua việc giải quyết các vụ án dân sự của Tồ án nhân dâncác cấp gặp nhiều khó khăn và cũng nhiều vướng mắc trong việc áp dụng cácquy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự. Một mặt do những
đời sống xã hội, trong đó có pháp luật về tố tụng dân sự, mặt khác sự nhận thứccủa nhân dân nói chung và của đương sự trong tố tụng dân sự nói riêng vềquyền và nghĩa vụ của họ cịn thấp. Do đó, nghiên cứu quyền tự định đoạt củađương sự trong tố tụng dân sự chính là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao
xã hội và mọi cơng dân. Chính vì thế việc chọn và nghiên cứu đề tài “Quyền tự
pháp luật tố tụng dân sự.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài “Quyển tự định đoạt của đương sựtrong tố tung dân sự” là nhằm làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiệnhành về quyền tự định đoạt của đương sự, đồng thời góp phần nghiên cứu, xâydựng được hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về quyền tự định đoạt củađương sự, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật đó phù hợp với thực tiễn, phù
là: Xây dựng một Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.Nghiên cứu "Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự”, nhằm
cơ sở đó họ tự giác tuân thủ và thực hiện.
cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành, cịn nhằm mục đích làm sáng tỏcơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến việc thực hiện quyền tự định đoạt củađương sự trên thực tế. Qua đó đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần nhỏ vàoviệc hồn thiện những quy định của pháp luật tố tụng dân sự liên quan đếnquyền tự định đoạt của đương sự.
nghiên cứu đề tài được xác định là:
Tập trung nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dânsự theo quy định của pháp luật hiện hành, trong đó chủ yếu tập trung nghiên
sót của các quy định của pháp luật hiện hành, những thiếu sót trong việc áp
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Quyền tự định đoạt của đương sự nói chung là một quyền tố tụng đượcghi nhận trong nhiều ngành luật. Trong khuôn khổ ban luận án này, ngườinghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự (dân sự, hôn nhân và gia đình).3. Phương pháp nghiên cứu.
Dựa trên phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lê Nin để tìm ra cơsở của việc pháp luật quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụngdân sự nhằm nghiên cứu, đánh giá vấn đề một cách khoa học.
Mặt khác trên cơ sở của phương pháp lịch sử, nghiên cứu sơ lược hệ thốngnhững quy định của pháp luật tố tụng dân sự trước khi có Pháp lệnh thủ tục giải
quy định của pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự.
Nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, ngườithực hiện còn dùng phương pháp so sánh những quy định của pháp luật vềquyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự với những quy định vềquyền tự định đoạt trong pháp luật tố tụng kinh tế và lao động, trong Luật tố
tụng dân sự của một số nước ngoài.
Ngoài ra, nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sựngười thực hiện còn nêu ra một số thiếu sót trong việc xây dựng pháp luật, áp
của pháp luật về vấn dé này luôn là những quy định mới phù hợp với sự phát
Nếu như trong Pháp lệnh 29/11/1989 quyền tự định đoạt của đương sựtrong tố tụng dân sự được quy định ở Điều 2 với tư cách là một nguyên tắc củatố tụng, thì trong luận án này, người thực hiện nghiên cứu” Quyền tự định đoạtcủa đương sự trong tố tụng dan sự” trên cơ sở những quy định cụ thể của phápluật về quyền và nghĩa vụ của đương sự và thực tiễn thực hiện quyền đó.
Ngồi ra, điểm mới của việc nghiên cứu đề tài cịn thể hiện ở chỗ, ngườinghiên cứu khơng chỉ dừng lại ở những quy định của pháp luật về quyền tự địnhđoạt của đương sự, mà thơng qua đó cịn thấy được quyền tự định đoạt củađương sự có liên quan chặt chẽ đến việc bảo đảm cho đương sự thực hiện đầyđủ các quyền của họ trong việc giải quyết vụ án dân sự tại Toà án, và thấy đượchậu quả pháp lý của việc vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự.
Hy vọng, những kết quả đạt được sẽ là tài liệu phục vụ cho việc nghiêncứu, giảng dạy và học tập ở các Trường Đại học chuyên ngành Luật tố tụng dân
việc giải quyết các vụ án dân sự. Đây cũng sẽ là một phần đóng góp nhỏ của tác
pháp luật trong cán bộ và nhân dân. Nhân đây tôi cũng xin chân thành cảmThầy Định Ngọc Hiện Phó tiến sỹ Luật học, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứukhoa học xét xử - Toà án nhân dân tối cao đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơihồn thành bản luận án này.
5. Cơ cấu của luận án.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận nội dung bản luận án được chia rathành 3 chương với những vấn đề chính như sau.
Chương 1. Khái niệm" Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân
trong tố tụng dân sự; so sánh sơ bộ quyền tự định đoạt của đương sự trong tốtụng dân sự với quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng lao động và tốtụng kinh tế, và một số các quy định của luật nước ngoài về quyền tự định đoạt
đến 1975; giai đoạn 3 từ 1975 đến 1989 và đến nay).
Chương 2. Nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dânsự, đây là chương trọng tâm của luận án. Trong chương này trước hết chúng tơitrình bầy về cơ sở xã hội và cơ sở pháp lý của việc pháp luật quy định quyền tựđịnh đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Tập trung nghiên cứu sự thể hiệnnội dung của quyền này, như quyền khởi kiện; quyền đưa ra yêu cầu, thay đổi
chứng cứ; quyền cử người đại diện... nghiên cứu quyền tự định đoạt của đươngsự tại phiên tồ, trong đó nghiên cứu quyền tham gia phiên toà, quyền yêu cầu
của Toà án. Đồng thời nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong giai
đoạn thi hành án.
Chương 3. Một số tồn tại trong việc áp dụng các quy định của pháp luật vềquyền tự định đoạt của đương sự trong thực tế giải quyết vụ án dân sự của Tồán. Trong chương này chúng tơi cũng xin nêu ra một số nguyên nhân dẫn đếnnhững thiếu sót trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về quyền tự định
phần vào việc hồn thiện pháp luật tố tụng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Chương I
1.1 Khái niệm "Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một trong nhữngquyền tố tung quan trọng được quy định trong pháp luật. Luật tố tụng dân sự
pháp của họ trước Toà án. Điều 2 Pháp lệnh 29/11/1989 quy định về quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự như sau:
"Người khởi kiện vụ án dân sự có quyền rút đơn khởi kiện; thay đổi nộidung khởi kiện. Các đương sự có quyền tự hồ giải với nhau”.
Quyền tự định đoạt của đương sự đó chính là quyền tự do ý chí của đươngsự, trong đó đương sự hồn tồn có quyền chủ động trong việc giải quyết cácmâu thuẫn, các tranh chấp và các việc khác có liên quan đến quyền lợi hợppháp của họ. Quyền tự định đoạt của đương sự có liên quan chặt chẽ đến nhữngquy định của pháp luật nội dung, và như vậy quyền tự định đoạt của đương sự
cách là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảođảm cho đương sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ theo quyđịnh của pháp luật. Như vậy, quyền tự định đoạt của các đương sự có mối liên
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một quyền tố
Quyền tự định đoạt của đương sự là một quyền tố tụng được pháp luật quy
giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp trong quan hệ pháp luật nội dung đó.Các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ các giao dịch dân sự không phải là
thực hiện bằng hành vi cố ý hoặc vơ ý xâm phạm khơng những đến lợi ích củangười bị hại, mà còn đồng thời xâm hại đến lợi ích và trật tự xã hội, mối quanhệ ở đây là mối quan hệ giữa người bị thiệt hại với người đã gây ra thiệt hại vàcũng là mối quan hệ giữa người gây thiệt hại với Nhà nước, xã hội, do đó nhữnghành vi của người vi phạm pháp luật hình sự phải bị nghiêm trị. Cịn các mâu
thuẫn, tranh chấp giữa các đương sự trong đời sống dàn sự không phải là những
và bảo đảm cho đương sự có quyền tự định đoạt trong việc giải quyết các mâuthuẫn, các tranh chấp đó.
Quyền tự định đoạt của đương sự là một quyền tố tụng, tuy nhiên mọihành vi định đoạt của đương sự phải tuân theo các quy định của pháp luật.
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nướcquản lý xã hội bằngpháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa...", do đó pháp
vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và
luật. Như vậy, trong q trình giải quyết vụ án của Tồ án, đương sự có quyềnthực hiện quyền tự định đoạt của mình. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt đó phải
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">hiện tính giai cấp sâu sắc. Giáo sư Nguyễn Duy Thơng viết “Trong xã hội cógiai cấp các quan hệ xã hội được hình thành chủ yếu là phù hợp với lợi ích củagiai cấp thống trị, trên cơ sở các quy phạm và quy tắc hành vi do pháp luật của
đương sự trong tố tụng dân sự không những phải phù hợp với pháp luật mà cịn
phải phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Điều 4 Hiến pháp năm 1992
nhân dân lao động và cua các dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tu tưởngHồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội... ".
Quyền tự định đoạt là một quyền tố tụng của đương sự nhưng việc thựchiện quyền này phải là ý chí tự nguyện thực sự của đương sự. Đây là một đặcđiểm quan trọng của quyền tự định đoạt của đương sự, bởi vì quyền tự địnhđoạt của đương sự là sự thể hiện ý chí của đương sự, mà ý chí đó được thực hiện
hiện quyền tự định đoạt ngồi ý chí của họ.
đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự như sau: Quyền tự định đoạt của đươngsự trong tố tụng dân sự là một quyền tố tụng được quy định trong pháp luật tốtụng dân sự, theo đó đương sự có quyền bằng chính hành vi và ý chí của mìnhthực hiện những hành vi tố tụng nhằm bdo vệ những quyền và lợi ích hợp pháptại Toà án theo quy định của pháp luật.
<small>hiện đại, Viện thông tin khoa học xd hội, Trang 2.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">tê, lao động.
Trong tố tụng kinh tế. Điều 2 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinhtế (được Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khố IX thơng qua ngày 16/3/1994) quy định:
"Người khởi kiện có quyền rút đơn khởi kiện, thay doi nội dung khởi kiện,các đương sự có quyền hoà giải với nhau". Như vậy, cũng giống như việc giảiquyết vu án dan sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế cũng quy
tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự cũng có những sự khác nhau, đó là:
Tố tụng kinh tế ghi nhận quyền này một cách triệt để hơn, phạm vi quyềntự định đoạt của đương sự trong tố tụng kinh tế rộng hơn.
quyền lợi bị vi phạm hay tranh chấp có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ
tố là rất rộng, nhưng đối với tố tụng kinh tế luật chỉ quy định cá nhân, pháp
tố vì lợi ích chung như trong tố tụng dân sự. Như vậy, ta thấy quy định của luật
tụng kinh tế có tính chặt chẽ, tuyệt đối hơn so với tố tụng dân sự.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức giải quyết tranh
người có kinh nghiệm trong kinh doanh; giải quyết tranh chấp thông qua các cơ
quan trọng tài; giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng trước Toà án. Đối với
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">việc giải quyết vụ án kinh tế của Tồ án, thì Tồ án chỉ giải quyết tranh chấptrên cơ sở có đơn khởi kiện của đương sự với điều kiện là: nếu sự việc khôngđược các bên thoả thuận trước là phải giải quyết theo thủ tục trọng tài và nếu
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự còn bị hạn chế bởiphạm vi các loại việc mà pháp luật quy định không được hồ giải (Điều 43Pháp lệnh 29/11/1989), cịn trong tố tụng kinh tế thì khơng bị hạn chế bởi các
tố tụng kinh tế rộng hơn, bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền này một cách
định đoạt của đương sự trong tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự có nhiều điểmtương đồng voi nhau, như đều quy định nguyên đơn có quyền thay đổi yêu cầu,các đương sự có quyền đưa ra chứng cứ, có quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện
Đối với tố tụng giải quyết các tranh chấp lao động; Khoản 2 Điều | Pháplệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động quy định: "Nguoi khởi kiện vụ
có quyền hồ giải”. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng lao động
chỉ quy định cá nhân, pháp nhân có quyền, lợi ích bị vi phạm có quyền khởikiện; trong tố tụng dân sự pháp luật quy định cá nhân, pháp nhân có quyền khởi
dân, tổ chức xã hội có quyền khởi tố, khởi kiện vụ án vì lợi ích chung. Trong tố
quy định một cách tương đối rộng rãi đó là: người lao động, tập thể lao động,người sử dụng lao động có quyền khởi kiện. Ngồi ra, cơng đồn cấp trên của
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">cơng đồn cơ sở có quyền khởi kiện trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi
án lao động nếu khơng có ai khởi kiện đối với những vi phạm pháp luật liênquan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động là người chưa thànhniên, người tàn tật và các vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác. Như vậy, trong
kiện vụ án dân sự, đó là những người có quyền và lợi ích bị xâm phạm, tranh
nhân dân cũng có quyền khởi tố. Trong tố tụng lao động, luật quy định cơngđồn cấp trên của cơng đồn cơ sở có quyền khởi kiện trong trường hợp cần bảo
khơng quy định có quyền khởi kiện vụ án lao động.
Về trình tự giải quyết tranh chấp lao động; theo quy định tại Điều 162 Bộluật lao động được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày 23/6/1994
Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động của cơ quan laođộng cấp huyện và Toà án nhân dân. Như vậy, việc giải quyết tranh chấp về laođộng cá nhân trước hết phải thông qua Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặchoà giải viên. Nếu hồ giải khơng thành thì đương sự mới có quyền u cầu Tồ
động). Cịn đối với việc giải quyết vụ án dân sự, pháp luật khơng quy định việc
Toà án giải quyết.
Ngoài ra đối với quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng lao động
quyền thay đổi yêu cầu đã nêu ra trong đơn khởi kiện, quy định việc Toà án tiến
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">hành hoà giải giữa các đương sự trước khi mở phiên toà, quy định quyền hoàgiải giữa các đương sự với nhau, quyền đưa ra chứng cứ...
Tóm lại: Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, tố tụngkinh tế, tố tụng lao động đều là những quyền mà pháp luật quy định cho đươngsự. Về cơ bản các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng
tự định đoạt của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trướcToà án. Tuy nhiên, xuất phát từ quy định của những quan hệ pháp luật nội dungkhác nhau, quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, tố tụng kinh
tế, tố tụng lao động cũng có sự khác nhau.
1.1.2 Vài nét so sánh các quy định về quyền tự định đoạt của đương sựtrong Luật tố tụng dân sự Việt Nam với quy định về quyền tự định đoạt củađương sự trong một số Luật tố tung dân sự của nước ngoài.
Trong Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xơ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tồ án (Điều 3). Cùng với quyền yêucầu Toà án bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Bộ luật cũng
việc kiện của nguyên đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án của Tồ án, quyền tự định đoạt của đương
kết thúc vụ kiện bằng việc hoà giải. Điều 293 của Bộ luật trên cũng quy định vềviệc nguyên đơn rút đơn khởi kiện về việc hoà giải của các đương sự. Theo tinhthần quy định của điều luật này thì sau khi các đương sự chống án lên Tồ án
hồ giải với nhau. Bộ luật cũng quy định trước khi công nhận việc nguyên đơn
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">đơn hoặc cho các đương sự về hành vi tố tụng của họ.
Bộ luật cũng quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia vụ kiện
trích hồ sơ vụ kiện, cáo ty, dé xuất chứng cứ, tham gia sưu tầm chứng cứ, đặt racác câu hỏi, đưa ra các lời thỉnh cầu, đưa ra các điều giải thích miệng và viếtcho Tồ án, đưa ra những ý kiến kết luận và ý kiến nhận xét của mình đối vớitất cả mọi vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử, đưa ra các ý kiến chống lạicác điều thính cầu, kết luận và những nhận xét của những người tham gia vu
tố tụng của những người tham gia vụ án, Bộ luật cũng quy định nghĩa vụ củahọ, theo đó thì người tham gia vụ kiện có nghĩa vụ sử dụng một cách có thiện
được đề xuất bởi các đương sự và những người tham gia vụ kiện. Nếu chứng cứ
mặt tại phiên tồ mà khơng có lý do chính đáng, nếu khơng có người nào trong
sở tài liệu có trong hồ sơ (Điều 158).
Đối với quyền kháng cáo của đương sự Điều 282 của Bộ luật cũng quyđịnh đương sự có quyền kháng cáo bản án của Tồ án. Trong đó quy định rõ:
quyền kháng nghị đối với bản án khơng hợp pháp hoặc vơ căn cứ của Tồ án,mặc dù có tham gia hay khơng vào vụ án đó.
Nghiên cứu Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hoà dân chủ Đức, trong đó cũng
tụng dân sự Cộng hoà dân chủ Đức quy định về các quyền và nghĩa vụ củađương sự. Theo tinh thần của điều luật này thì nếu có những quyền lợi bị xâmphạm hay có nguy cơ bị xâm phạm hoặc có điều khơng rõ ràng về các quan hệ
đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia vào quá trình tố tụng, đặc biệt trongviệc xác định các tình tiết của vụ án. Họ phải có nghĩa vụ khai báo rõ và giảithích đầy đủ, đúng sự thật những điều họ biết.
Cùng với việc Bộ luật quy định đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tồán bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì Bộ luật cũng quy định
Về sự thoả thuận của đương sự trước Toà án, Bộ luật tố tụng dân sự Cộnghoà dân chủ Đức quy định: Sự thoả thuận giữa hai bên đương sự phù hợp với
theo cách diễn đạt của họ. Biên bản ghi nhận những sự thoả thuận phải nêu rõnhững tình tiết, hồn cảnh liên quan đối với việc thoả thuận giữa hai bên đươngsự. Đối với quyền rút thoả thuận của đương sự, Bộ luật cũng quy định: Tronghai tuần sau ngày ghi nhận biên bản, các bên đương sự có quyền rút thoả thuận
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">của mình (khoản 2 Điều 46). Ngoài ra liên quan đến sự thoả thuận của các
đương sự, Bộ luật cũng quy định: Nếu sự thoả thuận không được ghi nhận vào
biên bản, không phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ
nghĩa, hoặc đã được ghi nhận vào biên bản mà bị rút lại trong thời hạn hai tuần
sau ngày ghi nhận biên bản, Toà án sẽ tiếp tục tiến hành thủ tục tố tụng chung.
Cộng hoà dân chủ Đức quy định: Nếu Toà án đã triệu tập nguyên đơn đúng
theo quy định, mà nguyên đơn không tới và không cử người đại diện tham gia
phiên tồ, thì Tồ án ấn định thời hạn mới cho phiên tồ, nếu Tồ án khơng thểtiến hành xét xử và quyết định vụ án vắng mặt nguyên đơn. Đối với các vụ án ly
định nếu nguyên đơn đã được Toà án triệu tập lại theo đúng quy định mànguyên đơn không tới hay cử người đại diện đến phiên tồ thì Tồ án quyếtđịnh đình chỉ tố tụng. Quyết định đình chỉ bị huỷ bỏ nếu nguyên đơn trong haituần, sau ngày nhận được tống đạt có đơn yêu cầu tiếp tục tố tụng.
Đối với quyền kháng cáo của đương sự. Luật tố tụng dân sự của Cộng hồdân chủ Đức cũng quy định: Các đương sự có quyền kháng cáo, có thể khángcáo một quyết định hoặc đồng thời nhiều quyết định trong bản án. Về thời hạn
kháng cáo của đương sự, Bộ luật quy định thời hạn kháng cáo là hai tuần đối
cho đương sự. Về quyền rút kháng cáo của đương sự Bộ luật quy định người
Nghiên cứu Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hoà Pháp, chúng ta cũng thấy
quyền tự định đoạt của đương sự, mà trước hết là quyền khởi kiện của đương sựcũng được quy định trong Bộ luật. Điều 1 của Bộ luật tố tung dân sự Cộng hoaPháp quy định: Chỉ các đương sự mới có quyền khởi kiện trừ các trường hợpLuật có quy định khác. Các đương sự được tự do chấm dứt tố tụng trước khi tố
tụng bị tiêu diệt theo hiệu lực của bản án hoặc theo quy định của pháp luật. Như
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">vay theo quy định của Bộ luật, đương sự có quyền khởi kiện vụ án dan sự dé
yêu cầu Toà án bảo vệ các quyền và lơi ích hợp pháp của họ. Cùng với việc quyđịnh quyền khởi kiện của đương sự, Bộ luật cũng quy định đương sự có quyềnrút đơn khởi kiện hoặc sửa đổi yêu cầu khởi kiện. Đương sự có quyền đưa rayêu cầu khi khởi kiện. Bộ luật quy định Thẩm phán, phán xử về tất cả các yêucầu và chỉ phán xử trên cơ sở các yêu cầu đó (Điều 5).
Bộ luật quy định đương sự có quyền đưa ra yêu cầu nhưng các đương sự cónghĩa vụ viện dẫn các tình tiết nhằm mục đích làm căn cứ cho các yêu cầu đó,
<small>Bộ luật quy định không đương sự nào bị xét xử nếu trước đó họ khơng</small>
được trình bày ý kiến hoặc không được triệu tập, Bộ luật cũng quy định cácđương sự có thể tự bào chữa cho mình, trừ trường hợp Luật quy định phải có đạidiện bắt buộc, các đương sự có quyền tự do lựa chọn người đại diện cho mình
hoặc giúp đỡ mình tuỳ từng trường hợp mà Luật quy định.
Về hoà giải; Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hoà Pháp cũng quy định cácđương sự có quyền tự hồ giải với nhau, quyền tự hoà giải này được áp dụngtrong suốt quá trình giải quyết vụ án. Ngồi ra, việc hồ giải giữa các đương sựđược tiến hành theo sáng kiến của Thẩm phán, các đương sự bất cứ lúc nào
Đối với sự vắng mặt của đương sự tại phiên toà. Bộ luật tố tụng dân sựCộng hoà Pháp quy định: Việc xét xử được tiến hành với sự có mặt của cả haibên hoặc đại diện của đương sự. Tuy nhiên, trong trường hợp nguyên đơn vắngmặt khơng có lý do chính đáng, thì bị đơn có thể yêu cầu cứ xét xử về nội dung
nguyên đơn, hoặc theo quyết định của Thẩm phán nếu giấy triệu tập lần trước
của Toà án mà đương sự khơng nhận được giấy triệu tập đó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Tóm lại: Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang Cộng hoà xãhội chủ nghĩa Xô viết Nga, Bộ luật tố tụng dân sự của Cộng hoà dân chủ Đức,Bộ luật tố tụng dân sự của Cộng hồ Pháp, thì nhìn chung cũng như các quyđịnh của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam các quyền tố tụng của đương sự
trong việc khởi kiện vụ án; quyền đưa ra yêu cầu; quyền đưa ra chứng cứ;quyền hoà giải; quyền cử người đại diện; quyền tham gia phiên toà... đều được
quyền tự định đoạt của đương sự trong mỗi Bộ luật cũng có sự khác nhau.Nhưng như trên đã đề cập, những quyền chủ yếu, cơ bản của đương sự trong tốtụng dân sự đều được Luật quy định. Nghiên cứu quyền tự định đoạt của đươngsự trong một số quy định của các Bộ luật nước ngoài nêu trên, tạo điều kiện cho
rút ra được những kinh nghiệm cần thiết trong việc xây dựng pháp luật và áp
dụng pháp luật.
của đương sự trong tố tụng dân sự.
quyền của Toà án "trong toàn cối Việt Nam các Tồ án Việt Nam có thẩmquyền đối với mọi người về bất cứ quốc tịch nào”. Theo sắc lệnh này Tồ án có
sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946. Điều 50 Sắc lệnh 13 quy định: "Mỗi thẩmphán xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Khơng quyền lựcnào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử dn". Điều 83 cũngquy định: “Các thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự déu các phiên toà, xétxử thật nhanh chóng và thật cơng minh. Thanh liêm là một đức tính thiêng liêng
17/4/1946 và Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 quy định về tổ chức các Toà ánvà các ngạch Thẩm phán. Theo Sắc lệnh này thì các tổ chức Tồ án và các
Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dânchủ cộng hồ trong đó tại chương II, mục B quy định về quyền lợi của công dântrong đó tại các Điều 6, 7, 12... quy định các quyền về tài sản, quyền bình đẳng
trước pháp luật của công dân được bảo đảm...
bản hoà giải thành, quy định quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc hoàgiải như sau: “Biên bản hoà giải thành là một cơng chính chứng thư, có thể đemchấp hành ngay. Tuy nhiên, cho đến lúc biên bản hoà giải được chấp hànhxong, nếu biện lý xét biên bản ấy phạm đến trật tự chung, thì có quyền u cầu
thuận. Han kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày phòng biện lý nhận được biênbản hoà giải thành”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Trong lĩnh vực về hơn nhân va gia đình Sac lệnh số 159/SL ngày17/1/1950 quy định về vấn dé ly hơn. Trong đó quy định về dun cớ ly hônkhi người vợ hoặc chồng xin ly hôn; đồng thời Sắc lệnh cũng quy định đơi bênvợ chồng có thể xin thuận tình ly hơn (Điều 3 Sắc lệnh 159/SL). Về thủ tục lyhôn Sắc lệnh 159 cũng quy định rõ: khi xử việc ly hơn Tồ án áp dụng thủ tụctố tụng thường như việc xét xử các việc hộ khác. Tuy nhiên, trong trường hợphai vợ chồng thuận tình ly hơn nếu Tồ án nhân dân huyện hay thị xã hồ giảikhơng thành, và nếu sau đó một tháng hai vợ chồng vẫn giữ ý kiến xin ly hơn,
thì Tồ án nhân dân huyện hay thị xã sẽ chính thức cơng nhận sự ly hơn.
Tóm lại, trong thời kỳ từ 1945 đến 1954, chúng ta thấy rằng: Ngoài nhữngsắc lệnh nói trên, hầu như khơng có văn bản nào quy định và hướng dẫn cụ thểcác thủ tục tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dânsự. Tuy nhiên, bằng các quy định trong sắc lệnh đó, khi mà trong bối cảnh lịchsử của Nhà nước, của dân tộc ta vừa mới giành được độc lập lại phải vừa chốngthù trong, giặc ngồi, tình thế đất nước mà như Bác Hồ nói “ngàn cân treo trên
các việc ly hôn...) là một sự cố gắng lớn và rất tiến bộ của những quy định củapháp luật liên quan đến quyền của đương sự trong việc giải quyết các vụ án đânsự; hơn nhân và gia đình. Chính những quy định đó là cơ sở để Nhà nước taban hành những văn bản pháp luật liên quan đến quyền tự định đoạt của đươngsự ngày càng đầy đủ, bao dam cho các đương sự thực hiện quyền tự định đoạtcủa họ trong việc giải quyết các vụ án dân sự tại Toà án.
1.2.2 Giai đoạn 1954 đên 1975.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Miền Bắc được giải
nước. Các văn bản pháp luật được ban hành trong thời kỳ này nhằm phục vụ
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng, phát triển kinh tế ở miền Bắc, tiếp tục đấu
được giữ lại theo Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945. Bộ Tư pháp đã ra thông tư
số 19/VHH ngày 30/6/1955 và thông tư số 2140/TT-VHH/HS ngày 6/12/1955;
Toà án nhân dân tối cao ra chỉ thị số 772/NC ngày 10/7/1959 đình chỉ việc ápdụng luật pháp cũ của đế quốc, phong kiến. Để bảo đảm cho việc xét xử tốt,
chính xác, nhanh chóng các vụ án hình sự, dân sự, bảo đảm quyền tố tụng của
đương sự trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hệ thống Toà án nhân dânbước đầu được củng cố, tăng cường. Quốc hội ra Nghị quyết thành lập Toà ánnhân dân tối cao (ngày 29/4/1958), và hệ thống Toà án nhân dân tách ra khỏiBộ Tư pháp. Các văn bản này đã bước đầu xác định rõ hơn thẩm quyền xét xửcủa Tồ án nhân dân nói chung và thẩm quyền xét xử về dân sự của Tồ án
nhân dân nói riêng.
luật cũng dần dần quy định một cách cụ thể về thủ tục tố tụng trong việc xét xửcác vụ án dân sự. Thông tư Liên Bộ số 60-TC ngày 31/12/1958 sửa đổi thẩmquyền của các Toà án nhân dân và thủ tục về ly hơn (Bộ Tư pháp - Tồ án nhân
dân tối cao) trong đó có quy định: “Trong trường hop hai vợ chồng xin thuận
tình ly hơn khơng thoả thuận với nhau về con cái và tài sản chung thì Tồ ánnhân dân huyện cứ cơng nhận việc thuận tình ly hơn, cịn về con cái và tài sản
giải quyết”.
pháp 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, Hiến pháp 1959 đã ra
trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hiến pháp
mới quy định chế độ chính tri, kinh tế và xã hội của Nhà nước ta... Chương III
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">của Hiến pháp 1959 quy định quyền lợi và nghĩa vụ cơ ban của công dân, Điều22 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hồ déu bình đẳng trướcpháp luật”. Luật tổ chức Toà án nhân dân 1960 (Điều 1) quy định: “Các Toà án
nhân dân là những cơ quan xét xu của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Toà
án nhân dân xét xử ... và giải quyết những việc tranh chấp về dân sự trong nhân
sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân xét xử sơ thẩm
theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đơng Chính phủ, cơ quan nhà nước
địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dán...” Luật hơn nhân va
gia đình năm 1959 cũng quy định về việc ly hơn do thuận tình, ly hơn do mộtbên yêu cầu (Điều 25, Điều 26) quy định về việc chia tài sản (Điều 29), quyềnvà nghĩa vụ của vợ chồng đối với con chung sau khi ly hôn (Điều 31)...
thông tư hướng dẫn thi hành, như thơng tư số 1080-TC ngày 25/9/1961 của Tồ
dân tỉnh, thị xã, huyện, khu phố, thơng tư số 39-NCPL ngày 21/1/1972 của Tồán nhân dân tối cao hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việckiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp dân sự. Thơng tư số 06-TATC ngày
tụng dân sự. Thơng tư số 25-TATC ngày 30/11/1974 của Tồ án nhân dân tốicao hướng dẫn việc hoà giải trong tố tụng dân sự, trong đó có những quy định
dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật hôn nhân và gia đình, các thơng
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">tư hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao đã làm rõ các chế định co ban củaluật tố tụng dân sự, từng bước xác định rõ thẩm quyền xét xử về dân sự, về điềutra, hoà giải, các thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm... Các quy định này nhằmđảm bảo cho việc xét xử của Toà án nhân dân các cấp ngày càng đạt được chấtlượng cao, các quyền và nghĩa vụ của đương sự dần được quy định cụ thể bảo
trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
1.2.3 Giai đoạn từ 1975 đến 1989 và đến nay.
Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1975) đất nước đã thống nhất nhưng về mặt Nhà nước ở miền Nam vẫn cịn tồntại Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà Miền Nam Việt Nam. Để bảo đảmcho việc xét xử của Toà án nhân dân ở Miền Nam ngày 15/3/1976 Hội đồngChính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam đã ra Sắc luật số
Điều 8 của Sắc luật trên quy định rõ: “Các Toà án nhân dân thực hành chế độhai cấp xét xử. Bi cáo hoặc các đương sự có quyền chống bản án hoặc quyếtđịnh của Toà án nhân dân cấp sơ thẩm lên toà án trên một cấp".
Năm 1977 Toà án nhân dân tối cao ra bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơthẩm về dân sự kèm theo Thông tư số 96-NCPL ngày 8/2/1977, trong đó quyđịnh quyền yêu cầu bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trướcToà án, các đương sự khác trong vụ kiện cũng có quyền bảo vệ những lợi ích
cứ... Tiếp đó, Tồ án nhân dân tối cao ra Thông tư số 82/TATC ngày 7/1/1982
và gia đình của Tồ án nhân dân địa phương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Ngoài ra quyền tự định đoạt của đương sự còn liên quan đến những quy
quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự.
Ngày 29/11/1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Thủ tục giảiquyết các vụ án dân sự, đây là một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhấttừ trước đến nay quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự một cáchcó hệ thống.
Điều 2 Pháp lệnh 29/11/1989 quy định: “Người khởi kiện vụ án dân sự cóquyền rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện. Các đương sự có quyền tự
tra, tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự, hoà giải vụ án dân sự...Ngồi ra sau khi có Pháp lệnh 29/11/1989 Toà án nhân dân tối cao đã ra Nghịquyết số 03 ngày 19/10/1990 hướng dẫn việc áp dụng Pháp lệnh Thủ tục giảiquyết các vụ án dân sự, và một số công văn khác như Công văn số 309/NCPL,Công văn số 310/NCPL ngày 22/12/1990 giải thích một số vấn đề về tố tụng
nhân dân 1992 tiếp tục quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Toà án nhân dân
công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền tự định
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợppháp của mình trước Tồ án.
đương sự trong tố tụng dân su" từ năm 1945 đến nay chúng ta có thé thấy rằng:Các quy định liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự ngày càng được cụthể và mở rộng hơn, ngày càng hoàn thiện hơn. Nếu như từ tháng 8 năm 1945đến năm 1954, trong điều kiện của cuộc kháng chiến chống Pháp các Toà ánchỉ tập chung vào việc xét xử các vụ án hình sự, do đó ngoài các quy định củacác sắc lệnh (đã nêu ở phần trên), chúng ta thấy hầu như khơng có những văn
được giải phóng và đến trước năm 1960, (trước khi ban hành Hiến pháp 1959,
vẫn cịn ít, chủ yếu tập trung vào việc hướng dẫn các thủ tục giải quyết việc lyhôn. Sau những năm 1960 đến năm 1975 và cho đến nay chúng ta thấy, các vănbản pháp luật quy định về thủ tục tố tụng, về quyền tự định đoạt của đương sự
Thơng tư số 1080-TC ngày 25/9/1961 của Tồ án nhân dân tối cao hướng dẫn
việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân gia đình; Thơngtư số 25/TATC ngày 30/11/1974 về hồ giải; Thông tư số 96/NCPL ngày8/2/1977 của Toa án nhân dân tối cao; Thơng tư số 82/TATC ngày 7/1/1982của Tồ án nhân dân tối cao và đặc biệt là Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụán dân sự ngày 29/11/1989 và sau đó là Nghị quyết số 03 ngày 19/10/1990 của
dụng các quy định của pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Hiện nay,
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Nhà nước ta đang khẩn trương xúc tiến việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sựtrong đó tiếp tục quy định quyền tự định đoạt của đương sự. Các quyền, nghĩavụ của đương sự sẽ được quy định trong Bộ luật một cách cụ thể và đầy đủ hơn,tạo điều kiện cho đương sự thực hiện tốt những quyền và nghĩa vụ tố tụng của
Chương 2
2.1 Cơ sở xã hội của các quy định về quyên tự dinh đoạt đương sựtrong tố tụng dân sự.
cứu cơ sở xã hội của các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự, trên cơsở sự hình thành giai cấp, nhà nước, chế độ kinh tế ... từ những vấn đề đó màxác định những địi hỏi của pháp luật trong việc xây dựng các quy phạm phápluật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế, trước hết cùng với chế độcộng sản nguyên thủy là hình thái xã hội cộng sản ngun thuỷ, đó là hình thái
nguyên thuỷ là một xã hội khơng có giai cấp, khơng có nhà nước. Cơ sở kinh tếcủa xã hội đó là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất. Con người trong xãhội đó do lực lượng sản xuất thấp kém, năng xuất lao động không cao, đời sống
đó buộc con người phải cùng sống chung, lao động chung, hưởng thụ chung. Cơ
nào đối với người khác.
Về quyền lực xã hội: Trong xã hội nguyên thuỷ đã tồn tại quyền lực và hệthống quản lý các công việc thị tộc. Nhưng quyền lực này chỉ mang tính xã hội,chứ chưa mang tính giai cấp, hệ thống quản lý thì rất đơn giản. Quyền lực xã
xã hội đó phục vụ lợi ích của cả cộng đồng. Cũng chính bởi vậy mà trong xãhội cộng sản nguyên thuỷ chưa có pháp luật nhưng cũng đã tồn tại những quytắc xử sự chung của cộng đồng. Xã hội Cộng sản nguyên thuỷ chưa phân chiagiai cấp, chưa có đấu tranh giai cấp và cũng chính vì vậy chưa có Nhà nước,Pháp luật, Tồ án, khơng có tranh chấp, kiện tụng nhau về của cải vật chất. Xã
mọi người tự giác tuân theo hoặc chịu áp lực của xã hội mà phải tuân theo.Trong lao động và cùng với lao động, lực lượng sản xuất ngày càng phát
và xã hội loài người. Lịch sử lồi người đã trải qua ba lần phân cơng lao động
thêm quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Nếu như ở hai lần phâncông lao động trước (chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt, thủ công nghiệp tách ra
sinh ra một ngành mới “/hương nghiệp”. Chính bởi có lần phân cơng lao động
sản xuất và bắt người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế... và bóc lột
Đồng tiền xuất hiện, nạn cho vay nặng lãi, sở hữu tư nhân phát triển.. xã
hội hình thành kẻ giàu, người nghèo, xuất hiện mầm mống giai cấp, xuất hiện
chức đó là Nhà nước và như vậy Nhà nước đã xuất hiện.
Những nguyên nhân làm xuất hiện Nhà nước, cũng là những nguyên
nhân làm xuất hiện pháp luật. Như trên đã phân tích trong xã hội thị tộc tồn tạinhững quy phạm xã hội, những quy phạm xã hội đó đủ sức đề điều chỉnh xã
hội, nhưng trong hoàn cảnh mới, tình hình mới khi chế độ tư hữu xuất hiện, vìlợi ích của những giai cấp nhất định, xung đột về lợi ích giữa các giai cấp diễn
ra ngày càng ác liệt, đấu tranh giai cấp tất yếu xây ra. Các quy phạm xã hội
khơng cịn tác dụng điều chỉnh xã hội, xã hội địi hỏi phải có một loại quy
ý chí của giai cấp thống trị đó là những quy phạm pháp luật, quy phạm pháp
bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, xã hội là một hệ thống các quanhệ phức tạp, đa dạng nảy sinh giữa cá nhân với nhau, giữa các cá nhân với tổchức. Giai cấp, nhà nước, pháp luật xuất hiện, sự hình thành giai cấp, nhà nước,
quan hệ xã hội là nói đến một phạm trù rất rộng, nó chứa đựng các quan hệ giữa
con người với con người trong xã hội như: quan hệ chính trị, đạo đức, tơn giáo,
văn hố, kinh tế.. trong đó có quan hệ pháp luật. Con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội, do đó trong đời sống hàng ngày con người luôn thực hiện
những giao lưu về văn hoá, kinh tế... sự giao lưu đó như là một địi hỏi cần thiết
yếu sẽ khơng tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp và những yêu cầu khác
nhau của các chủ thể. Mâu thuẫn, tranh chấp, yếu tố khác nhau đó ln gắn liền
Là tổng hoà các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người, do đó
các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống hàng ngày là một tất yếu khách
quan. Việc bảo vệ quyền và các lợi ích chính đáng của con người cũng là một
tất yếu khách quan. Do đó, trong xã hội có giai cấp, có nhà nước, có pháp luật
các tranh chấp, bảo vệ các quyền và lợi ích của con người, nhằm bảo đảm sự ổnđịnh của một trật tự xã hội một cách hữu hiệu nhất là một vấn đề lớn đặt ra cho
nhà nước đó, pháp luật đó.
Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ trương: “Nhà nướcquản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
tranh chấp, mâu thuẫn dân sự được nhanh chóng, bảo vệ được quyền và lợi íchhợp pháp của đương sự, Nhà nước phải ban hành một hệ thống pháp luật đủ sứcđể điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Luật, hệ thống luật đó (trong đó có Luậttố tụng dân sự) phải đảm bảo được một trong các yêu cầu cơ bản là tôn trọngquyền của công dân đã được Hiến pháp, Luật ghi nhận, bảo đảm cho đượng sựtrong tố tụng dân sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ dân mà luật đã
quy định.
Như vậy, về cơ sở xã hội của các quy định về quyền tự định đoạt của
Như trên đã phân tích, các mâu thuẫn, tranh chấp dân sự trong đời sống xãhội là một tất yếu khách quan, nhưng xét về nội dung thì các tranh chấp dân sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">không phải là những hành vi vi phạm pháp luật hình sự, khơng phải là hành vi
định đoạt của đương sự là một biểu hiện của quyền chủ thể khi tham gia quanhệ pháp luật tố tụng dân sự. Với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, đương sự có
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã ghi nhận. Quyền của chủ thể mà pháp luậttố tụng dân sự quy định tạo ra một khả năng nhất định (trong khuôn khổ pháp
quyền tự định đoạt của đương sự cũng là một yếu tố của quyền con người. Bởivì, quyền của con người là quyền được sống, được lao động, được học tập, đượchưởng thụ, được tự do sáng tạo, quyền được tự mình quyết định những vấn đềcó liên quan đến mình... Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự luôn gắnliền với quyền của con người.
2.2 Cơ sở pháp lý của các quy định về quyền tự định đoạt của đươngsự trong tố tụng dân sự.
Trong khoa học pháp lý, Luật tố tụng dân sự là luật hình thức, là cơ chếbảo đảm của luật nội dung (Luật dân sự và Luật hơn nhân và gia đình). Luật tố
pháp luật về nội dung đang bị tranh chấp hay vi phạm hoặc giải quyết các yêu
sự, về hôn nhân và gia đình mà luật nội dung đã quy định. Như vậy, quyền tựđịnh đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có cơ sở về nội dung của nó là
những quy phạm pháp luật dân sự, hơn nhân và gia đình.
Trong lời nói đầu của Bộ luật dân sự được Quốc hội khoá IX kỳ hop thứ 8
thông qua ngày 28/11/1995 đã nêu rõ: “Pháp luật dân sự Việt Nam là công cụ
kinh tế -xã hội cua đất nước". "Bộ luật dân sự có vị trí quan trọng trong hệthống pháp luật nước nhà, tạo cơ sở pháp lý nhằm tiếp tục giải phóng mọi năngluc sản xuất, phát huy dân chủ, bao đảm công bằng xã hội, quyền con người về
theo quy định của pháp luật có quyền tham gia vào các quan hệ pháp luật dânsự, hôn nhân và gia đình, những quan hệ pháp luật đó được ghi nhận và bảođảm thực hiện.
Luật nội dung (Luật dân sự, Luật hơn nhân và gia đình) có nhiệm vụ bảo
luật dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần
sản, quan hệ nhân thân, trong các giao lưu dân sự... Luật cũng quy định các
sự. Các quan hệ dân sự, hơn nhân và gia đình là những quan hệ rất đa dạng, rấtphong phú nó tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, vì vậy việc ứng xử của
tham gia quan hệ pháp luật được hưởng những quyền mà luật quy định, Điều 9Bộ luật dân sự quy định: “Trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trungthực, khơng chi quan tâm, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào duoc lừa dối bên nào; nếu một bêncho rằng bên kia không trung thực, thì phải có căn cứ”. Như vậy, trong quan hệdân sự đòi hỏi của pháp luật là các bên khi tham gia quan hệ phải dam bảo sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">thiện chí, trung thực chăm lo đến lợi ích của minh nhưng đồng thời phải chămlo đến quyền và lợi ích của người khác. Đó là một trong những nguyên tắc mà
Luật dân sự quy định, đó là sự đòi hỏi của pháp luật đối với các chủ thể khi
<small>tham gia quan hệ pháp luật dân sự.</small>
Các quy phạm pháp luật dân sự còn tạo ra cho các chủ thể một khả năng tựđịnh đoạt. Khi các chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự thì bản thân chủ thểbằng hành vi của mình tự quyết định đối với những quan hệ pháp luật mà mìnhđã tham gia. Các quy phạm pháp luật tuỳ nghi thoả thuận tạo ra cho các chủ thểmột khả năng tự lựa chọn, thoả thuận và chỉ trong trường hợp khơng có thoả
thuận thì nghĩa vụ dân sự được xác định bởi quy định của pháp luật. Ví dụ Điều
liên quan chặt chẽ với các quy phạm pháp luật bảo đảm quyền tự do lựa chọnmà các chủ thể tham gia quan hệ được sử dụng trong cách ứng xử của mình. Thídụ, khoản 1 Điều 312 quy định: “Trong trường hợp người có nghĩa vụ khơngthực hiện một cơng việc phải làm, thì người có quyền có thể tự mình làm hoặcgiao người khác làm cơng việc đó và u cầu người có nghĩa vụ thanh tốn mọi
quan hệ pháp luật dân sự trong trường hợp này được tuỳ ý lựa chọn cách ứng xửcủa mình, họ có thể “ mình lam" hay cũng có thể "giao người khác làm cơngviệc đó” và có quyền u cầu người có nghĩa vụ thanh tốn moi chi phí và bồi
thường thiệt hại.
bị chi phối bởi những quy phạm pháp luật mang tính mệnh lệnh. Quy phạmpháp luật mệnh lệnh là những quy định buộc các chủ thể trong quan hệ phải
thực hiện một cách ứng xử nhất định hoặc cấm không được thực hiện những
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">cách ứng xử nhất định, những quy định này chi phối quyền tự định đoạt của các
xã hội mới là đối tượng của nghĩa vụ dan sự” hoặc Điều 522 Bộ luật dân sự quy
không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong các quan hệ dân sự gắn bó chặt chẽvới những quy định của các quy phạm pháp luật bảo đảm quyền tự do lựa chọn
quyền và phải gánh chịu những nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật,
của họ.
Điều 264 Bộ luật dân sự quy định quyền địi lại tài sản trong đó quy địnhchủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu,người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật đốivới tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền chiếm hữu hợp pháp của mìnhphải trả lại tài sản đó. Điều 265 Bộ luật dân sự cũng quy định về quyền yêu cầungăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiệnquyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp. Luật dân sự cũng quy định về quyềnyêu cầu bồi thường thiệt hại, theo đó thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
của mình bồi thường thiệt hại.
Đối với các quan hệ về hôn nhân và gia đình thì các quy phạm pháp luậtcủa ngành luật này chủ yếu là những quy phạm pháp luật mang tính chất hướng
dẫn, khuyến khích. Quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình mà yếu tố đặc thù
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">của nó là yếu tố tình cảm, đây cũng chính là cơ sở làm phát sinh những mốiquan hệ tiếp theo và như vậy, trong những trường nhất định các quy phạm phápluật hôn nhân và gia đình cũng bao gồm cả các quy phạm pháp luật mang tính
mệnh lệnh, các quy phạm cấm hoặc buộc các chủ thể trong quan hệ phải tuân
Các quy phạm pháp luật hơn nhân và gia đình cũng tạo ra những khả năng
để các chủ thể trong quan hệ thực hiện qun tự định đoạt của mình. Như trên
đã phân tích, quy phạm pháp luật hơn nhân và gia đình chủ yếu là những quy
phạm mang tính hướng dẫn. Trong quan hệ hơn nhân và gia đình mà cơ sở đểthiết lập nên quan hệ đó là yếu tố tình cảm, gắn liền với tình cảm là những quanhệ về tài sản, về nuôi dưỡng... quyền tự định đoạt của chủ thể về tài sản trongtrường hợp hôn nhân đang tồn tại vẫn có thể được thực hiện. Điều 18 Luật hơn
nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Khi hơn nhân dang ton tại, nếu một bên
yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theoquy định ở Điều 42 của luật này". Quyền tự định đoạt của các chủ thể trong
trong chế định ly hơn, theo đó thì người vợ hoặc người chồng hoặc cả hai vợchồng đều có quyền yêu cầu xin ly hôn.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự luôn gắn liền vớiquyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung. Cơ sởpháp lý để pháp luật quy định đương sự trong tố tụng dân sự được thực hiệnquyền tự định đoạt của mình là trên cơ sở các quy định của pháp luật nội dung.Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự còn phụ thuộc bởi những
và về thầm quyền xét xử của Tồ án...
đương sự trong tố tụng đân sự” trước hết ta nghiên cứu cơ sở xã hội và cơ sở
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">pháp lý của các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dânsự mà nội dung chủ yếu của nó là:
Xã hội có giai cấp thì có nhà nước;
hệ đồng thời cũng quy định các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết;
các chủ thể có quyền và nghĩa vụ khi tham gia quan hệ, đồng thời cũng cóquyền bảo vệ quyền và những lợi ích hợp pháp của mình trước pháp luật;
Toà án nhân dân, theo quy định của pháp luật, là cơ quan xét xử, có nhiệmvụ bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quyđịnh của pháp luật. Trong đó việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự là một nhiệm vụ quan trọng.
Nội dung “ Qyển tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dan su" đượcquy định trong những điều luật khác nhau của pháp luật tố tụng dân sự. Trong
luận án này, nội dung đó được trình bày theo một trình tự sau đây:
nhân dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình”. Như vậy, theo quy định của
án bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tồ án, hành vi khởi
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố vàxã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">Hiến pháp và luật”. Điều | Bộ luật dân sự cũng quy định về nhiệm vụ và phạm
vị điều chỉnh của Bộ luật dân sự. Trong đó Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo về
quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của nhà nước, lợi ích cơng
tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân, thúcđẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bộ luật đân sự cũng quy định địa vị pháp lý
trong quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự, xây dựng chuẩn
Điều 6 Bộ luật dân sự quy định nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu, các
trọng và được pháp luật bảo vệ. Điều 12 Bộ luật dân sự cũng quy định việc bảovệ quyền dân sự, theo đó thì tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân vàcác chủ thể khác được tôn trọng và được bảo vệ, khi quyền dân sự của một chủthể bị xâm phạm thì chủ thể có quyền u cầu Tồ án hoặc cơ quan nhà nước có
phạm, buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộcbồi thường thiệt hại, phat vi phạm. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 cũngcó các quy định về ly hôn, chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản khi hôn nhân
Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật
định là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Pháp
xét xử các vụ án dân sự được quy định tại các Điều 10,11,12,13... Như vậy, theoquy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác khi cơng dân, pháp nhâncó quyền lợi bị vi phạm, tranh chấp, hoặc u cầu Tồ án cơng nhận một quyềndân sự thì cơng dân, pháp nhân có quyền khởi kiện vụ án để yêu cầu Toà án bảo
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Để thực hiện quyền khởi kiện củamình (cơng dân, pháp nhân) phải đáp ứng được các điều kiện:
Công dân muốn khởi kiện phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
tố tụng dân sự.
Luật tố tụng dân sự là hình thức của luật nội dung (dân sự, hơn nhân và gia
đình). Khả năng tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự, gắn bó mật
dung. Do vậy, khi nghiên cứu năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng
dân sự, trước hết ta nghiên cứu năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các
Năng lực pháp luật dân sự là khả năng của công dân, pháp nhân đượchưởng quyền và gánh vác các nghĩa vụ dân sự. Đối với công dân, Điều 16 BộLuật dân sự quy định: Năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng của cá nhâncó quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luậtdân sự như nhau. Năng lực pháp luật của cá nhân có từ khi người đó sinh ra vàchấm dứt khi người đó chết. Năng lực pháp luật là thuộc tính nhân thân của chủ
bản pháp luật, nhưng quan trọng nhất đó là những quyền và nghĩa vụ được ghinhận trong Hiến pháp năm 1992.
Năng lực hành vi dân sự của công dân: Khác với năng lực pháp luật dân sự
hành vi của mình tạo ra và thực hiện những quyền và gánh chịu nghĩa vụ dân
thực hiện các quyền đó, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm do hành vi của mình
</div>