Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đoàn THANH NIÊN CỘNG sản hồ CHÍ MINH cấp cơ sở các HUYỆN NGOẠI THÀNH hà nội TRONG xây DỰNG NÔNG THÔN mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.71 KB, 108 trang )

ĐOàN THANH NIÊN CộNG SảN Hồ CHí MINH
CấP CƠ Sở ở CáC HUYệN NGOạI THàNH Hà NộI
TRONG XÂY DựNG NÔNG THÔN MớI HIệN NAY
CHUYấN NGNH: CH NGHA X HI KHOA HC
M S: 60 22 03 08

H NI - 2015


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Ban Chấp hành Trung ương

BCHTW

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH,HĐH

Đoàn viên thanh niên



ĐVTN

Hội đồng nhân dân

HĐND

Nông thôn mới

NTM

Thanh niên Cộng sản

TNCS

Ủy ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH CẤP CƠ SỞ
Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY

1.1.

Trang
3

10

Xây dựng nông thôn mới và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong

1.2.

xây dựng nông thôn mới hiện nay
Thực trạng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp

10

cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng nông
thôn mới hiện nay
Chương 2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ
BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH CẤP CƠ SỞ Ở CÁC
HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY
2.1.
Phương hướng phát huy vai trò Đoàn Thanh niên Cộng sản

29

57


Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội
2.2.

trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò của Đoàn Thanh

57

niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại
thành Hà Nội trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

63
84
86
90


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng trong
lịch sử dựng, giữ nước của dân tộc ta, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Xuất phát từ vị trí, vai
trò có ý nghĩa chiến lược của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Đảng ta khẳng
định: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [12, tr. 123]. Xác định đúng
vị trí, tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp phát

triển đất nước, Chính phủ ra Quyết định số: 800/QĐ-TTg (04/06/2010), “Quyết
định phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020” [4]. Thành ủy Hà Nội ra Chương trình số: 02-CTr/TU của Thành ủy
về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống
nông dân” giai đoạn 2011-2015. Đây là chủ trương đúng đắn, nhận được sự đồng
tình, ủng hộ của tất cả các tổ chức, lực lượng nhất là của nông dân.
Xây dựng nông thôn mới là trách nhiệm của mọi tổ chức, lực lượng, cả hệ
thống chính trị và toàn thể nhân dân, trong đó có Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Là
thành tố của hệ thống chính trị, lực lượng trẻ, khỏe, có trình độ, năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, với vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của mình, Đoàn luôn xung kích đi đầu trong mọi hoạt động xây dựng NTM. Từ
cơ sở vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Đoàn, tại Quyết định số: 324/QĐ-TTg
(18/02/2013), phê duyệt “Đề án Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham
gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2013 – 2020”, Chính phủ nhấn
mạnh:“Nâng cao nhận thức cho thanh thiếu nhi về chủ trương xây dựng nông
thôn mới; phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích, tình nguyện của thanh niên trong
tham gia thực hiện các tiêu chí tại cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương
xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước” [5, tr.1-2]. Đây cơ sở pháp lý để
Đoàn triển khai thực hiện cuộc vận động “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn
mới” và phát huy vai trò xung kích trong tuyên truyền vận động ĐVTN và nhân
dân thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng NTM hiện nay.

3


Các huyện ngoại thành, là những huyện không thuộc nội thành của Hà Nội,
kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và một số ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp. Thực hiện Nghị quyết của Thành ủy về xây dựng NTM, cấp ủy, chính
quyền cơ sở các huyện quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện trên tất cả
19 tiêu chí. Kết quả đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, phát huy được vai trò

của mọi tổ chức, lực lượng, nhất là của tổ chức cơ sở Đoàn. Dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy, chính quyền và sự phối hợp với các đoàn thể chính trị - xã hội, các
tổ chức cơ sở Đoàn đã quán triệt, tuyên truyền, giáo dục, tập hợp ĐVTN và nhân
dân tích cực thực hiện các nhiệm vụ xây dựng NTM.
Tuy nhiên, sau hơn 4 năm thực hiện, do nhiều nguyên nhân, việc phát huy
vai trò tổ chức cơ sở Đoàn ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng
NTM vẫn chưa toàn diện. Nhiều tổ chức cơ sở Đoàn chưa thể hiện rõ vai trò
giáo dục, tuyên truyền, vận động, tập hợp, tổ chức cho ĐVTN và nhân dân thực
hiện. Nhiều ĐVTN không thiết tha, thiếu trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm
vụ xây dựng NTM ở địa phương. Những hạn chế trên phần nào ảnh hưởng đến
kết quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM của địa phương.
Yêu cầu nhiệm vụ xây dựng NTM hiện nay ở các huyện ngoại thành
Hà Nội đặt ra là rất cao đòi hỏi cần phải huy động mọi nguồn lưc xã hội, sự
chung tay thực hiện của mọi lực lượng nhất là vai trò to lớn của tổ chức cơ sở
Đoàn. Vì vậy, việc làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng NTM
hiện nay có ý nghĩa quan trọng, cấp bách cả lý luận và thực tiễn.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng
nông thôn mới hiện nay” để nghiên cứu làm chủ đề luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng yếu luôn được Đảng, Nhà
nước, chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo đặc biệt,
Đảng ta xác định: “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” là vấn đề cơ bản, điểm
xuất phát của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Xuất phát từ vị trí, vai trò

4


trên nên vấn đề xây dựng NTM luôn nhận được sự quan tâm nghiên cứu của

nhiều nhà khoa học.
* Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn có các công trình:
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn thế giới: Vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, của Phùng Hữu
Phú, Nxb CTQG, H, 2009 [31]; Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn,
nông dân của Hunggari trong quá trình chuyển đổi kinh tế và vận dụng cho Việt
Nam, của Lê Du Phong, Nxb CTQG, H, 2010 [30]. Từ nghiên cứu những vấn đề
lý luận, thực tiễn về xây dựng “tam nông” của Trung Quốc, chính sách phát triển
nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Hunggari, các tác giả nêu lên mối quan hệ
giữa nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội
và đề xuất các giải pháp xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn Việt Nam - Hôm nay và mai sau, của Đặng Kim Sơn, Nxb CTQG, H, 2008
[34]. Tác giả làm rõ thực trạng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong
20 năm đổi mới (1986 - 2007), từ đó đề xuất phương hướng, kiến nghị các chính
sách nhằm thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam; Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta, của Hoàng Ngọc Hòa, Nxb CTQG, H, 2008 [19]. Tác giả làm rõ lý
luận và thực tiễn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn, từ đó đưa ra những giải pháp tiếp tục thực hiện ở nước ta
hiện nay; Giải quyết việc làm cho nông dân vùng đồng bằng Sông Hồng của nước ta
hiện nay, của PGS. TS Bùi Thị Ngọc Lan, Nxb CTQG, H, 2008 [23]; Giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình trì đô thị hoá, của Nguyễn Thị
Thơm, Nxb CTQG, H, 2009 [42]. Các công trình đã nghiên cứu làm rõ thực trạng
việc làm, thu nhập của nông dân dưới tác động của kinh tế thị trường, quá trình đô thị
hóa... Từ đó đề xuất những giải pháp căn bản nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho
nông dân.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hà Nội: Ảnh hưởng của đô thị
hoá đến nông thôn ngoại thành Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, của


5


Nguyễn Văn Áng, Nxb CTQG, H, 2002 [1]. Công trình nghiên cứu tác
động của quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa đến nông thôn Hà Nội, qua đó
đề xuất một số giải pháp khắc phục và xây dựng NTM.
* Về xây dựng nông thôn mới:
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng dài lâu của Đảng và
nhân dân ta, của Hồ Xuân Hùng, Tạp chí Cộng sản, số: 818 (2011) [22]. Tác giả
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nông thôn, đề xuất các giải pháp phát huy vai
trò các chủ thể trong xây dựng NTM ở nước ta; Xây dựng nông thôn mới những
vấn đề lý luận và thực tiễn, của Vũ Văn Phúc, Nxb CTQG, H, 2012 [32]. Từ
nghiên cứu những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng NTM, tác giả đề xuất những
giải pháp tổ chức thực hiện ở Việt Nam hiện nay; Xây dựng nông thôn mới ở Việt
Nam, tầm nhìn mới, tổ chức quản lý mới, bước đi mới, của Tô Xuân Dân, Nxb
NN, H, 2013 [10]. Công trình đề cập tới nội dung, yêu cầu xây dựng NTM gắn
liền với quá trình CNH, HĐH đất nước, chỉ ra những nhiệm vụ và cách thức tổ
chức xây dựng NTM hiện nay; Các Tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn
hiện nay, của Nguyễn Thị Tố Uyên, Nxb CTQG, H, 2013 [48]. Tác giả phân tích
những thay đổi về nông nghiệp, nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng từ năm
2001 đến nay, chỉ rõ trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các tỉnh
trong tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Về luận văn, luận án: Vai trò nông dân Nam Định trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết
học, HN, 2010, của Nguyễn Xuân Đại [16]; Nông dân Hà Nội trong phát triển
nông nghiệp bền vững, Luận văn thạc sĩ triết học, H, 2010, của Nguyễn Kim Tôn
[45]; Vai trò của nông dân tỉnh Bình Dương trong xây dựng nông thôn mới hiện
nay, Luận văn thạc sĩ triết học, H, 2011, của Cao Thanh Quỳnh [33]; Vai trò của
Hệ thống chính trị cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Bình Dương hiện nay,


6


Luận văn thạc sĩ triết học, H, 2012, của Nguyễn Văn Thuận [43]; Nông dân tỉnh
Thanh Hóa trong xây dựng nông thôn mới hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học,
HN, 2013, của Đinh Thị Bình. Những tác giả trên bước đầu nghiên cứu thực trạng
phát huy vai trò của các chủ thể trong thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn, trong phát triển nền nông nghiệp bền vững và xây dựng NTM, từ đó đề xuất
phương hướng và một số giải pháp cơ bản phát triển CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn và xây dựng NTM ở các địa phương trên.
* Vai trò của Đoàn Thanh niên trong xây dựng nông thôn mới:
Vai trò của Đoàn Thanh niên: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh
niên trong cách mạng Việt Nam, của Trần Quy Nhơn, Nxb Thanh niên, H,
2004 [29]. Tác giả đã làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên
Việt Nam trong các nhiệm vụ cách mạng, khái quát hệ thống quan điểm của
Người về giáo dục, đào tạo, đoàn kết tập hợp thanh niên, xây dựng tổ chức
đoàn, Đoàn tham gia xây dựng Đảng; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh trong bồi dưỡng lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho học viên Trường Sĩ quan
Lục quân 1 hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, H, 2014, của Nguyễn Thành
Chung [3]. Luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng vai trò tổ
chức đoàn trong bồi dưỡng lý tưởng XHCN cho học viên, qua đó đề xuất
những yêu cầu, giải pháp phát huy vai trò tổ chức đoàn trong bồi dưỡng lý
tưởng XHCN cho học viên ở Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện nay.
Vai trò Đoàn Thanh niên trong xây dựng nông thôn mới: Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia góp phần tri thức hóa thanh niên công nhân và
nông dân, Báo cáo khoa học của Trần Văn Miều (2007); Một số giải pháp phát
huy vai trò của Đoàn Thanh niên tham gia xây dựng nông thôn mới, Báo cáo
khoa học mã số: KTN 2010 - 04, của Phạm Huy Giang (2010) [18]. Các công
trình đã luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về thực hiện trí thức hóa thanh niên công


7


nhân, nông dân, xây dựng NTM, đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của
Đoàn trong thực hiện trí thức hóa công nhân, nông dân, xây dựng NTM.
Như vậy, đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng NTM, vai trò của Đoàn trong xây
dựng NTM được công bố. Các công trình đã nghiên cứu những vấn đề lý
luận, thực tiễn, quá trình phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, vai trò
các chủ thể trong thực hiện, đề ra phương hướng, giải pháp phát triển một nền
nông nghiệp hiện đại ở nước ta. Song chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện, hệ thống, chuyên sâu đến vấn đề: “Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng
nông thôn mới hiện nay”. Vì vậy, đề tài là công trình nghiên cứu độc lập của
tác giả, không trùng với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ một số đề lý luận, thực tiễn về Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ
sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng NTM, đề xuất phương
hướng và một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng NTM hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
1. Làm rõ cơ sở lý luận về Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các
huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng NTM hiện nay.
2. Đánh giá thực trạng, nguyên nhân việc phát huy vai trò của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây
dựng NTM hiện nay.
3. Xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy
vai trò Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội

trong xây dựng NTM hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
8


Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại
thành Hà Nội trong xây dựng NTM hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu việc phát huy vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở
ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng NTM qua số liệu thống kê, báo
cáo của các cơ quan chức năng thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến nay và qua
điều tra, khảo sát ở các huyện (Phú Xuyên, Hoài Đức, Đan Phượng).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận của đề tài
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, xây dựng NTM và vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong xây dựng
NTM.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài
Thực tiễn việc phát huy vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở
ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng NTM qua số liệu thống kê,
báo cáo của các cơ quan chức năng thành phố Hà Nội, kết quả điều tra, khảo
sát ở các huyện Phú Xuyên, Hoài Đức, Đan Phượng từ 2011 đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài xây dựng trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, hệ
thống hóa, khái quát hóa các tài liệu liên quan; các phương pháp nghiên cứu
thực tiễn như: điều tra xã hội học, xin ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài

Đề tài cung cấp tư liệu giúp cấp uỷ, chính quyền cơ sở các huyện ngoại
thành Hà Nội và các địa phương khác vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở phát huy tốt vai trò trong xây dựng NTM hiện nay.
Đề tài là tài liệu tham khảo để các Học viện, nhà trường trong và ngoài
quân đội nghiên cứu, giảng dạy nội dung nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học.
9


7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH CẤP CƠ SỞ Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH
HÀ NỘI TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI HIỆN NAY

1.1. Xây dựng nông thôn mới và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng
nông thôn mới hiện nay
1.1.1. Xây dựng nông thôn mới ở các huyện ngoại thành Hà Nội hiện nay
* Khái niệm nông thôn và xây dựng nông thôn mới ở nước ta
“Nông thôn” là một khái niệm phổ biến trên thế giới, nó có nội hàm rộng,
với Việt Nam, “nông thôn” thường đồng nghĩa với làng, xã. Nông thôn Việt
Nam là môi trường sống, sinh hoạt, phát triển kinh tế gắn với sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp và một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, quan hệ xã hội cơ

bản dựa trên cơ sở dòng họ tạo lên bản sắc văn hóa mang đậm nét truyền thống,
xây đắp nên nền tảng tinh thần, lối sống, cốt cách và bản lĩnh của người Việt
Nam. Nông thôn Việt Nam rất phong phú về giá trị văn hóa, “trong tất cả các
thôn, làng Việt Nam đều ẩn chứa một kho tàng quý báu các câu chuyện cổ tích,
chuyện ngụ ngôn, cao dao, tục ngữ, trường ca, dân ca…” [34, tr.165].
Theo quy định về hành chính của Việt Nam và các tài liệu nghiên cứu về
nông thôn thì: Nông thôn là địa bàn xã (phường, thị trấn là đô thị); “Nông thôn là
phần lãnh thổ của một nước hay của một đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ
đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, điều kiện sống khác
biệt với thành thị và cư dân chủ yếu làm nông nghiệp” [47, tr.306]; “Nông thôn
là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn
được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã” [2, tr.1].
Như vậy, nông thôn là vùng lãnh thổ bao quanh thành thị, có mật độ
dân cư thưa, môi trường tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội khác với thành
thị. Nông thôn Việt Nam, là những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó dân
11


cư sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và nột số ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp. Nông thôn, là một cơ cấu cộng đồng có đầy đủ các
yếu tố, các vấn đề và thiết chế xã hội nằm trong mối quan hệ chăt chẽ với
nhau tạo nên đặc thù riêng khác với thành thị.
Nông thôn Việt Nam có những đặc trưng: Thứ nhất, là vùng đất đai rộng
lớn bao quanh các đô thị, có điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng hơn đô thị,
nhưng kết cấu hạ tầng phục vụ dân sinh thấp kém hơn đô thị. Thứ hai, quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, về cơ bản vẫn mang tính thuần nông. Ở
nông thôn, sản xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính và chiếm tỷ trọng lớn,
các ngành nghề sản xuất - kinh doanh, dịch vụ phi nông nghiệp phát triển chậm
hơn đô thị. Thứ ba, mật độ dân cư thưa hơn đô thị, trình độ học vấn, khoa học - kỹ
thuật, điều kiện giáo dục, y tế, đời sống vật chất, tinh thần, cơ sở hạ tầng thấp kém

hơn đô thị. Thứ tư, làng, xã là đơn vị hành chính chủ yếu ở nông thôn với cộng
đồng của những người nông dân và các mối quan hệ cơ bản dựa trên cơ sở dòng
tộc nên là nơi lưu giữ nhiều phong tục, tập quán và quan hệ xã hội tốt đẹp.
Nông thôn Việt Nam có vai trò hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước. Thấy rõ vai trò quan trọng của nông thôn, sinh thời Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Người nói: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế
của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ
trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta
giàu thì nước ta giàu. Nông dân ta thịnh thì nước ta thịnh” [24, tr.246]. Người
khẳng định: “Nông thôn giàu có sẽ mua nhiều hàng hóa của công nghiệp sản
xuất ra. Đồng thời, sẽ cung cấp đầy đủ lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp
và thành thị. Như thế là, nông thôn giàu có giúp cho công nghiệp phát triển.
Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông nghiệp mạnh hơn nữa” [28, tr.212].
Theo Người, xây dựng NTM trước hết phải xây dựng người nông dân
mới XHCN là người làm chủ ruộng đồng, hăng say lao động, biết áp dụng khoa
12


học - kỹ thuật vào sản xuất để có hiệu quả cao. Muốn xây dựng được NTM, thì
từ cán bộ đến xã viên phải đoàn kết, vui vẻ sản xuất: “Cán bộ ban quản trị phải
công bằng, dân chủ. Mọi việc phải bàn bạc với xã viên, sổ sách, tiền của phải rõ
ràng, minh bạch. Xã viên phải đoàn kết chặt chẽ, vui vẻ sản xuất, coi công việc
hợp tác xã như công việc nhà mình” [28, tr.45]. Xây dựng NTM gắn với xây
dựng đời sống mới, Người chỉ rõ: “Về văn hóa, phải cho cả làng đều biết chữ,
biết đạo đức và trách nhiệm của công dân. Về phong tục, phải ... Làm cho làng
mình thành một làng “phong thuần tục mỹ”. Về vệ sinh, đường xá phải sạch sẽ,
ao tắm, giếng nước uống phải phân biệt và săn sóc cẩn thận…” [25, tr.119].
Đảng phải lãnh đạo xây dựng nông thôn mới, Đảng đề ra chủ trương,
đường lối, quán triệt, phổ biến, và tổ chức toàn dân thực hiện: “lãnh đạo dân chủ,

đi sâu đi sát, mọi việc đều bàn bạc với xã viên, vì vậy xã viên càng có tinh thần
tập thể, tinh thần làm chủ nông thôn và càng hăng hái lao động sản xuất” [28,
tr.37]. Đảng phải đoàn kết, động viên kích lệ được mọi người dân tham gia lao
động sản xuất: “Cái gốc trong việc lãnh đạo hợp tác xã vẫn là chi bộ đảng ở cơ
sở. Chi bộ phải tăng cường hơn nữa việc đoàn kết nông thôn và làm cho toàn
thể xã viên, toàn thể nông dân phấn khởi, hăng hái tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm, phát triển và củng cố hợp tác xã” [28, tr.222]. Trong xây dựng NTM,
thi đua được Người coi là động lực, biện pháp thực hiện “người người thi đua,
nhà nhà thi đua…”. Mọi người đều hăng hái thi đua lao động, sản xuất thì nước
nhà sẽ ngày càng giàu mạnh, nông thôn sẽ ngày càng giàu về vật chất, mạnh về
tinh thần, sẽ có những xóm làng văn minh, tiến bộ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng NTM thời kỳ đó là hết sức sâu
sắc, toàn diện, Người đã chỉ ra sự cần thiết và những nội dung, biện pháp để
xây dựng nông thôn Việt Nam thời kỳ mới. Tư tưởng đó không chỉ có giá trị
chỉ đạo việc xây dựng NTM lúc bấy giờ mà hiện nay vẫn là phương châm để
Đảng ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân thực hiện.
13


Kế thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng NTM, ngay từ những
năm đầu đổi mới, Đảng ta đã xác định: “Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát
triển, có đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh,... Tăng cường đoàn kết và ổn
định chính trị trong nông thôn, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc
phòng, an ninh” [11, tr.60], là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển đất
nước. Tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc
tế, Đảng xác định mục tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại,…; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được
tăng cường” [12, tr.126]. Đồng thời, “Triển khai chương trình xây dựng nông thôn
mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể,… Đẩy mạnh xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả
năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn…” [14, tr.197 - 198]

Quán triệt, thực hiện đường lối của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, Chính phủ đã ban hành “Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới”
kèm theo Quyết định số: 491/QĐ-TTg (16/4/2009), bao gồm 19 tiêu chí với 5
nhóm nội dung; Quyết định số: 800/QĐ-TTg (04/6/2010), “Phê duyệt Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020”, với
các mục tiêu cụ thể: “đến năm 2015 có 20% số xã, đến năm 2020 có 50% số xã
đạt tiêu chuẩn nông thôn mới; huyện nông thôn mới có 75% số xã trong huyện đạt
nông thôn mới; tỉnh nông thôn mới có 80% số huyện trong tỉnh đạt nông thôn mới
theo Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới” [44].
Từ những vấn đề trên có thể quan niệm: Xây dựng nông thôn mới là tổng
hòa các hoạt động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể nhằm huy động mọi
nguồn lực xã hội để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội trong chủ trương, đường lối xây dựng nông thôn mới của Đảng, Nhà
nước, làm cho nông thôn Việt Nam ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Mục tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
14


nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp và dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã
hội nông thôn ổn định, bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo
của Đảng được tăng cường…” [13, tr. 3].
Chủ thể tiến hành xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, là mọi tổ chức, mọi
lực lượng xã hội, bao gồm: tổ chức đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể
chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân ở địa bàn nông thôn. Trong các chủ thể này
mỗi chủ thể có vị trí vai trò riêng nhưng đều hướng đến mục đích chung là thực hiện
thắng lợi các mục tiêu xây dựng NTM của Đảng, Nhà nước đã đề ra.
Phạm vi xây dựng nông thôn mới ,được triển khai rộng khắp ở cả 63 tỉnh
thành trong cả nước với trên 9000 xã. Trước hết, Chính phủ triển khai thực hiện

xây dựng 11 xã điểm ở các vùng miền khác nhau, để rút kinh nghiệm, nhân rộng
mô hình trong cả nước, đồng thời phát động phong trào thi đua “Cả nước chung
sức xây dựng nông thôn mới”.
Nội dung xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, thực hiện theo “Bộ tiêu chí
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” của Chính phủ bao gồm 19 tiêu chí, chia
thành 5 nhóm nội dung cụ thể:
Nhóm 1, quy hoạch (1 tiêu chí): Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng cho
phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ;
quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường; quy hoạch phát
triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có.
Nhóm 2, hạ tầng kinh tế - xã hội (8 tiêu chí): Giao thông; thủy lợi; điện;
trường học; cơ sở vật chất văn hóa; chợ nông thôn; bưu điện; nhà ở dân cư.
Nhóm 3, kinh tế và tổ chức sản xuất (4 tiêu chí): Thu nhập; hộ nghèo;
cơ cấu lao động; hình thức tổ chức sản xuất.
Nhóm 4, văn hóa - xã hội - môi trường (4 tiêu chí): Giáo dục; y tế; văn
hóa; môi trường.
15


Nhóm 5, Hệ thống chính trị (2 tiêu chí): Hệ thống tổ chức chính trị - xã
hôi; an ninh trật tự xã hội [6].
Biện pháp tiến hành xây dựng nông thôn mới, là thực hiện tổng thể các
hoạt động của các chủ thể nhằm phát huy mọi nguồn lực trong xã hội để thực
hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Cụ thể là: phát huy vai trò của
tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội và toàn dân trong việc
tuyên truyền, giáo dục; huy động mọi nguồn lực; tổ chức thực hiện có hiệu
quả các tiêu chí xây dựng NTM ở từng địa phương cơ sở.
* Xây dựng nông thôn mới ở các huyện ngoại thành Hà Nội hiện nay
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, kỳ họp thứ 3
(29/8/2008), Quốc Hội khóa XII đã ra Nghị quyết “về điều chỉnh địa giới hành

chính Thủ đô Hà Nội và các tỉnh”. Từ 01/8/2008, Hà Nội chính thức được mở
rộng. Về tổ chức hành chính, Hà Nội có 12 quận nội thành, 17 huyện ngoại
thành, 1 thị xã, dân số khoảng trên 7 triệu người [49]. Vị trí địa lý của Hà Nội
là 200 53' đến 210 23' vĩ độ Bắc, 1050 44' đến 1060 02' kinh độ Đông. Địa hình Hà
Nội thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông với cao độ trung bình từ 5 20 m so với mực nước biển. Hà Nội có hai con sông lớn chảy qua: sông Đà,
sông Hồng và nhiều sông nhỏ khác, ngoài ra còn có số lượng hồ, đầm lớn. Diện
tích tự nhiên Hà Nội là 334.470,02 ha (3.344,7002 km2), ¾ diện tích là đồng
bằng, 1/4 là đồi núi, [7, tr.9]. Nơi đây tiêu biểu cho vùng khí hậu cận nhiệt đới
gió mùa, mùa hè nóng, mùa đông lạnh, xen giữa hai mùa là khoảng thời gian
giao thời nên Hà Nội có đủ 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Nằm về phía bắc của
vành đai nhiệt đới nên Hà Nội có nhiệt độ và độ ẩm khá cao.
Các huyện ngoại thành Hà Nội: Bao quanh trung tâm Thành phố, các
huyện ngoại thành bao gồm: Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm, Thanh Trì, Ba Vì,
Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc
Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa, Mê Linh và thị xã Sơn Tây,
trong đó có 386 xã, 21 thị trấn. Địa hình các huyện ngoại thành có cả đồng bằng,
16


đồi núi, trung du. Diện tích các huyện ngoại thành chiếm 90,33% diện tích tự
nhiên toàn Thành phố (3.021,18 km2), đất sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp là
189.314,2 ha [8, tr.991]. So với địa phương khác trong cả nước, tỷ lệ đất sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp của các huyện ngoại thành vào loại lớn, được thừa
hưởng điều kiện tự nhiên nên rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước và Thành phố, kinh tế
các huyện ngoại thành đã đạt được nhiều thành tựu tương đối toàn diện. Tổng
sản phẩm (GDP) năm 2014 tính theo giá thực tế là 44.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá nhanh so với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước. Cơ
cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực, tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, xây
dựng 41,1%, nông nghiệp 35,7% các ngành tiểu thủ công nghiệp 23,4%. Nơi

đây có rất nhiều làng nghề truyền thống, hiện nay có trên 1.350 làng nghề, thu
hút trên 626000 lao động [20]. Dân số các huyện ngoại thành chiếm 60,34%
dân số Thành phố (4.284100 người), trong đó dân số nông thôn 93,92%
(4.023664 người) [9, tr.6], mật độ dân cư trung bình 1.419 người/km2.
Các huyện ngoại thành Hà Nội có mật độ các di tích lịch sử và danh
thắng rất lớn, trong đó có hơn 700 di tích, danh thắng xếp hạng cấp quốc gia
và hàng nghìn đền, chùa, công trình kiến trúc nổi tiếng. Nơi đây còn chứa
đựng nhiều di sản văn hóa phi vật thể tạo lên một không gian văn hóa rất
phong phú, đóng góp vào không gian văn hóa chung của Thành phố. Đây là
điều kiện để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm quan du lịch,
nghiên cứu tìm hiểu văn hóa. Nơi đây, cũng là đất địa linh nhân kiệt, từ xưa
đến nay đã sinh ra nhiều vị anh tài cho công cuộc dựng và giữ nước.
Mạng lưới giáo dục, y tế của các huyện ngoại thành cũng khá phát triển,
các cơ sở giáo dục đều được đầu tư xây dựng khang trang và phân bố hợp lý,
đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển giáo dục, đào tạo. Tỷ lệ học sinh đỗ tốt
nghiệp phổ thông, cao đẳng, đại học các huyện ngoại thành Hà Nội, vào loại
cao so với các cả nước. Mạng lưới y tế khá hoàn thiện, tất cả các huyện đều có
bệnh viện đa khoa, các xã, thị trấn đều có trạm y tế, các thôn, bản đều có nhân
17


viên y tế. Toàn thành phố hiện nay có 577 trạm y tế xã, phường, trị trấn, trong
đó có 423 trạm y tế xã, thị trấn [9, tr.377]. Hiện nay có 84,4% xã ở các huyện
ngoại thành đạt chuẩn quốc gia về y tế, 100% các trạm y tế có bác sỹ [21]. Đây
là điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe, duy trì, cải thiện chất lượng
sống của nhân dân, tạo động lực tốt cho nhiệm vụ xây dựng NTM.
Những điều kiện trên đã tác động rất lớn đến đời sống, trình độ, cơ cấu
nghề nghiệp, kết quả xây dựng NTM của nông dân, nhất là thanh niên nông
thôn. So với các vùng nông thôn khác trong cả nước, nội dung xây dựng
NTM của các huyện ngoại thành Hà Nội có nhiều thuận lợi hơn.

Nội dung xây dựng NTM ở các huyện ngoại thành Hà Nội hiện nay, là
thực hiện thắng lợi 19 tiêu chí trong Bộ tiêu chí Quốc gia về xây dựng NTM
gắn với đặc điểm của địa phương tập trung vào các nội dung:
Về quy hoạch và thực hiện quy hoạch: Trên cơ sở các nghị quyết và
Chương trình số: 02 của Thành ủy, HĐND thành phố Hà Nội về quy hoạch
và xây dựng NTM, căn cứ vào quy hoạch đã được UBND thành phố phê
duyệt cả tổng thể và chi tiết đến năm 2020, định hướng đến 2030, các huyện
ngoại thành đã triển khai thực hiện: Quy hoạch phát triển các khu, cụm sản
xuất công, nông, lâm, ngư nghiệp; cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, dân sinh.
Chỉ đạo các xã tiến hành quy hoạch chi tiết sử dụng đất và xây dựng, phát
triển cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở quy hoạch chung
của huyện đã được phê duyệt.
Về hạ tầng kinh tế - xã hội: Thực hiện tốt các nội dung của đề án phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2015, chuẩn bị cho 2016 2020, định hướng đến 2030 phù hợp với Chương trình mục tiêu Quốc gia về
xây dựng NTM. Trong đó tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu là: Giao thông;
thủy lợi; điện; trường học; trạm xá; các công trình phục vụ đời sống dân sinh.
Đối với từng ngành: Giao thông, hoàn chỉnh quy hoạch, khảo sát, thiết kế và
xây dựng, cứng hóa hệ thống giao thông; Thủy lợi, xây dựng, nâng cấp và
kiên cố hóa hệ thống thủy lợi; Điện lực, triển khai nâng cấp và kiên cố, ngầm
18


hóa hệ thống truyền tải, cung cấp điện; Văn hóa, tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền xây dựng các công trình phục vụ cho sinh hoạt văn hóa, bảo tồn, tôn
tạo các công trình văn hóa, di tích lịch sử; Giáo dục, xây dựng, kiên cố, hiện
đại hóa hệ thống cơ sở giáo dục các bậc học; Y tế, xây dựng và hiện đại hóa
các cơ sở khám chữa bệnh đạt chuẩn quốc gia; Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, nghiên cứu chuyển giao khoa học - kỹ thuật, đưa cây trồng, vật
nuôi có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, phối hợp với cơ quan bảo
hiểm thực hiện việc thí điểm bảo hiểm sản xuất nông nghiệp cho nông dân;

các ban, ngành khác, trên cơ sở nhiệm vụ của mình thường xuyên tham mưu
giúp địa phương thực hiện tốt các nhiệm vụ xây dựng NTM.
Về kinh tế và tổ chức sản xuất: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, dịch vụ
thông qua hướng nghiệp, đào tạo nghề. Xúc tiến giải quyết tạo việc làm bằng cách
phát triển, nhân rộng các ngành nghề truyền thống, các hình thức liên kết hợp tác
xã, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; thông thoáng trong thủ tục hành chính
tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư sản
xuất, kinh doanh, ưu tiên cho các lĩnh vực sản xuất và chế biến hàng nông, lâm,
thủy sản. Hướng dẫn, đầu tư, khuyến khích nông dân phát triển kinh tế trang trại
theo hướng sản xuất hàng hóa. Cung cấp, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành, tăng
sức cạnh tranh. Gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến để nâng cao thu
nhập trên 1 ha diện tích đất canh tác. Phát triển, nâng cao tỷ trọng ngành chăn nuôi
theo hướng công nghiệp. Xây dựng và ổn định quy hoạch các vùng chuyên canh
đất sản xuất nông nghiệp để nông dân an tâm sản xuất.
Về văn hóa - xã hội, môi trường: Xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh, đoàn kết trong khu dân cư; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; hoàn
thiện các thiết chế văn hóa, giữ gìn, phát triển các giá trị văn hóa truyền thống.
Đẩy mạnh phong trào “toàn dân doàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư”, nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, thực hiện tốt nếp sống văn minh
19


trong việc cưới, tang, lễ hội. Hoàn thành việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở,
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo bảo đảm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung
học cơ sở, trung học phổ thông đạt 90%, thi đỗ cao đẳng, đại học từ 65% trở lên,
tỷ lệ lao động trong các lĩnh vực được đào tạo có tay nghề trên 50%, người dân
được tiếp cận với các tiến bộ khoa học, công nghệ mới. Triển khai mở rộng mô
hình bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân đạt 70 - 80%, nâng cao chất lượng

khám chữa bệnh cho nhân dân. Các tuyến y tế đều có các phương tiện phục vụ
khám chữa bệnh đạt chất lượng, cán bộ y tế tay nghề vững, y tế tuyến xã đảm
bảo được việc sơ cứu ban đầu và điều trị được các loại bệnh thông thường. Xây
dựng môi trường nông thôn xanh, sạch, đẹp bảo đảm đúng tiêu chuẩn vệ sinh.
Đầu tư xây dựng các công trình nước sạch, bảo đảm tỷ lệ người dân được sử
dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn của quốc gia (đạt trên 70%), các
cơ sở sản xuất, kinh doanh phải tuân thủ quy định về môi trường, nghĩa trang
nhân dân quy hoạch, xây dựng đạt tiêu chuẩn.
Về xây dựng hệ thống tổ chức chính trị, quốc phòng, an ninh: Xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp đạt chuẩn, có trình độ, năng lực, phẩm chất phục vụ nhân
dân; tiến hành cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho giải quyết các công
việc, giảm phiền hà cho dân; hệ thống chính trị có đủ các tổ chức theo quy định; tổ
chức đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động
có hiệu quả, đạt danh hiệu tiên tiến trở lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm, quốc phòng được củng cố vững chắc.
1.1.2. Quan niệm và vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng nông thôn
mới hiện nay
* Quan niệm Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các
huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
“Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội
của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên
20


tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
[17, Tr. 9]. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở
gồm 4 cấp: Cấp Trung ương; tỉnh và tương đương; huyện và tương đương; cấp

cơ sở (xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị). Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có vai
trò rất quan trọng trong thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng. Đảng xác
định: “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng,
thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong
trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện cho quyền lợi thanh
niên; phụ trách đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh” [15, tr.59].
Tổ chức cơ sở Đoàn là: “Đoàn cơ sở và chi đoàn cơ sở, là nền tảng của
Đoàn, được thành lập theo địa bàn dân cư, theo ngành nghề, đơn vị học tập,
công tác, lao động, nơi cư trú và đơn vị cơ sở trong lực lượng vũ trang nhân
dân” [17, tr.8]. Tổ chức cơ sở Đoàn hoạt động theo Điều lệ Đoàn, Nghị quyết
của Đại hội Đoàn toàn quốc, nghị quyết, chương trình hành động của tổ chức
đoàn cấp trên và cấp mình, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động
của cấp ủy, chính quyền địa phương, phối hợp với các đoàn thể chính trị - xã
hội khác thực hiện các nhiệm vụ theo chức trách được giao.
Đặc điểm: Tổ chức cơ sở Đoàn ở các huyện ngoại thành Hà Nội: Tổ
chức cơ sở Đoàn ở các huyện ngoại thành Hà Nội là tổ chức cơ sở Đoàn
xã, thị trấn, trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đối tượng ĐVTN vừa
mang những yếu tố nông thôn, vừa mang những yếu tố thành thị nó tạo ra
những thuận lợi nhưng cũng tạo ra những khó khăn cho việc tổ chức hoạt
động phong trào đoàn nói chung và tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng
NTM nói riêng. Tổ chức cơ sở Đoàn ở các huyện ngoại thành Hà Nội hoạt
động theo nghị quyết tổ chức đoàn cấp trên và chức năng, nhiệm vụ được
quy định ở Điều lệ Đoàn. Căn cứ vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy,
chính quyền và đặc điểm nhiệm vụ xây dựng NTM của địa phương, các tổ
21


chức cơ sở Đoàn cụ thể hóa vào nội dung hoạt động của mình, phối hợp
với các đoàn thể chính trị - xã hội khác để thực hiện.

Về số lượng ĐVTN ở các tổ chức cơ sở đoàn các huyện ngoại thành là
1,3 triệu, chiếm 37.5% trên tổng số cư dân nông thôn [37, tr.1]; đoàn viên
tham gia sinh hoạt Đoàn trên 200.000 người, chiếm 15,4% trên tổng số
ĐVTN nông thôn [36, tr.2]; ĐVTN làm nông nghiệp khoảng 900.000, chiếm
69,2%; ĐVTN là học sinh, sinh viên: 87.000, chiếm 6.6%; ĐVTN là công
nhân: 250.000, chiếm 19,2%; ĐVTN làm các công việc tự do khác là 5%;
ĐVTN nữ là 47,8%; đảng viên tham gia sinh hoạt đoàn, chiếm 0,8% [36,
tr.4]. Tuổi đời của ĐVTN từ 18 đến 30, đây là lực lượng trẻ khỏe, nhiệt tình
cách mạng, dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vươn
lên thoát nghèo. Là lực lượng có trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và
nhận thức xã hội khá tốt, tính tích cực chính trị cao nên luôn đi đầu thực
hiện các nhiệm vụ xây dựng NTM ở địa phương. Là người mạnh dạn đầu tư
vốn, sức lực, trí tuệ ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh
phát triển kinh tế ở địa phương. Đa số họ tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo
của Đảng, mong muốn được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tích cực trong
xây dựng NTM, trách nhiệm cao trong tham gia các hoạt động, tích cực giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế - xã
hội và yêu cầu cao của sự nghiệp CNH, HĐH Thủ đô và đất nước, ĐVTN
nông thôn các huyện ngoại thành Hà Nội vẫn còn một số hạn chế như: thiếu
những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho yêu cầu phát triển, hội nhập; một bộ
phận thanh niên thiếu lý tưởng, trách nhiệm, thực dụng, coi nhẹ thuần phong,
mỹ tục, suy thoái về đạo đức, lối sống, ý thức chấp hành pháp luật kém, dễ bị
lôi kéo vào các tệ nạn xã hội. Trước tác động của kinh tế thị trường và quá
22


trình đô thị hóa nhiều thanh niên nông thôn di cư tự do đi nơi khác tìm việc
làm gây khó khăn cho việc tập hợp lực lượng để thực hiện xây dựng NTM.
Từ cách tiếp cận như trình bày ở trên, có thể quan niệm: Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong xây
dựng nông thôn mới hiện nay là tổng hòa các cách thức,biện pháp hoạt động có
tổ chức, có mục đích nhằm phát huy vai trò xung kích sáng tạo của tổ chức đoàn,
đoàn viên, thanh niên trong việc tham mưu với cấp ủy, chính quyền và trực tiếp
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
Xây dựng NTM là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là nhiệm vụ
của mọi tổ chức, lực lượng, của cả hệ thống chính trị. Mỗi tổ chức, lực lượng
có vị trí, vai trò và nhiệm vụ khác nhau, việc xác định đúng vị trí, nhiệm vụ
của từng chủ thể có ý nghĩa rất quan trọng, như thế mới phát huy tốt vai trò
của họ trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng NTM ở địa phương.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các huyện ngoại
thành Hà Nội là một thành tố quan trọng của hệ thống chính trị cơ sở, thực hiện
nhiệm vụ xây dựng NTM là chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Điều lệ
Đoàn, trong Đề án “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2013- 2020” đã được Chính phủ phê duyệt.
Đây là quá trình Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở
các huyện ngoại thành Hà Nội triển khai các nội dung, biện pháp để phát huy
vai trò xung kích, tinh thần trách nhiệm của cả tổ chức đoàn, ĐVTN trong
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng NTM được giao.
Việc phát huy tốt vai trò đó của tổ chức cơ sở Đoàn, ĐVTN là
trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội ở
từng địa phương.
* Vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở ở các
huyện ngoại thành Hà Nội trong xây dựng nông thôn mới hiện nay

23


“Vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì hoặc của ai, trong sự vận
động của nhóm, của tập thể nói chung” [46, tr.653]. Mỗi sự vật, hiện tượng

đều có một vai trò nhất định trong mối quan hệ với khách thể. Theo đó tổ
chức cơ sở Đoàn ở các huyện ngoại thành Hà Nội cũng như các tổ chức chính
trị - xã hội khác đều có vai trò nhất định trong thực hiện các nhiệm vụ chính
trị ở địa phương, do đó có vai trò rất quan trọng trong xây dựng NTM.
Những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới, sự tác động tích cực của
mở cửa, hội nhập, kết quả thực hiện Nghị quyết 07/NQ/TU của Thành ủy Hà
Nội khóa XIV, về “Đẩy mạnh công tác thanh niên trong tình hình mới” đã
khẳng định vị trí, vai trò của tổ chức đoàn, ĐVTN nông thôn trong thực hiện các
nhiệm vụ cách mạng. Thành đoàn Hà Nội khẳng định: “Đoàn Thanh niên là tổ
chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng và xung kích trong thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương; Đoàn viên, thanh
niên là lực lượng quan trọng giúp nhân dân trong các hoạt động cộng đồng ở địa
phương...” [36, tr.1 - 2]. Vị trí, vai trò trên của Đoàn đã được thể hiện khá rõ
trong xây dựng NTM ở địa bàn các huyện ngoại thành Hà Nội thời gian qua.
Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, lâu dài của
các huyện ngoại thành Hà Nội, vì vậy phải có nhận thức đúng, bước đi thích
hợp, quyết tâm cao của các tổ chức, lực lượng. Chủ thể lãnh đạo thực hiện là
cấp ủy đảng các cấp. Chủ thể chỉ đạo, điều hành thực hiện là chính quyền, các
ban, ngành liên quan. Chủ thể thực hiện là mọi tổ chức, lực lượng ở địa
phương. Các tổ chức, lực lượng trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng NTM
gắn với chức trách, nhiệm vụ của mình xác định nội dung, biện pháp đúng
đắn, phù hợp để thực hiên.
Là tổ chức chính trị - xã hội, trường học XHCN của ĐVTN địa
phương, tổ chức cơ sở Đoàn ở các huyện ngoại thành Hà Nội có nhiệm vụ
quản lý, giáo dục, rèn luyện, tập hợp, tổ chức ĐVTN phát huy vai trò xung
kích, sáng tạo trực tiếp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng NTM ở địa
phương; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối
24



×