Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

tội mua bán người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự một số nước kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.95 KB, 69 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm so sánh luật: ... 9

1.1.2 Các bước cơ bản để thực hiện so sánh luật: ... 11

1.2 Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người dưới 16 tuổi: ... 11

1.3 Các nội dung so sánh luật của tội mua bán người dưới 16 tuổi: ... 15

<b>CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC VỀ MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ... 18 </b>

2.1 Chủ thể của tội phạm cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi trong BLHS Việt Nam và BLHS của một số quốc gia: ... 18

2.1.1 BLHS Việt Nam: ... 18

2.1.2 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: ... 19

2.1.3 BLHS Cộng hòa Nhân dân Campuchia: ... 20

2.1.4 BLHS Vương quốc Thái Lan: ... 21

2.2 Mặt khách quan của tội phạm cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi trong BLHS Việt Nam và BLHS của một số quốc gia: ... 23

2.2.1 BLHS Việt Nam: ... 23

2.2.2 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: ... 25

2.2.3 BLHS Cộng hòa Nhân dân Campuchia: ... 26

2.2.4 BLHS Vương quốc Thái Lan: ... 28

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Việt Nam và BLHS của một số quốc gia: ... 31

2.3.1 BLHS Việt Nam: ... 31

2.3.2 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: ... 32

2.3.3 BLHS Cộng hòa Nhân dân Campuchia: ... 33

2.3.4 BLHS Vương quốc Thái Lan: ... 33

2.4 Khách thể của tội phạm cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi trong BLHS Việt Nam và BLHS của một số quốc gia: ... 33

2.4.1 BLHS Việt Nam: ... 33

2.4.2 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: ... 35

2.4.3 BLHS Cộng hòa Nhân dân Campuchia: ... 36

2.4.4 BLHS Vương quốc Thái Lan: ... 36

2.4.5 Nhận xét: ... 37

<b>CHƯƠNG III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TRÊN CƠ SỞ HỌC TẬP KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ... 38 </b>

3.1 Biện pháp xử lý tội phạm mua bán người ở một số quốc gia: ... 38

3.1.1 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: ... 38

3.1.2 Cộng hòa Nhân dân Campuchia: ... 41

3.1.3 Vương quốc Thái Lan: ... 43

3.2 Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu trong quy định về tội mua bán người dưới 16 tuổi ở một số quốc gia: ... 49

3.2.1 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: ... 49

3.2.2 Cộng hòa nhân dân Campuchia: ... 53

3.2.3 Vương quốc Thái Lan: ... 55

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

bán người ở Việt Nam: ... 59

3.3.1 Các giải pháp trong luật: ... 59

3.3.2 Giải pháp trong đảm bảo thi hành luật: ... 60

<b>KẾT LUẬN ... 62 </b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 63 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

BLHS Bộ luật Hình sự

chống và trừng trị việc bn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cơng ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên Hợp Quốc.

bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: </b>

Trong thời đại tồn cầu hóa, sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ cao đã đem đến những lợi ích to lớn cho con người, nhưng cũng đặt ra nguy cơ tiềm tàng. Một trong những nguy cơ lớn chính là khơng ít các cá nhân, tổ chức đã lợi dụng phương tiện, kỹ thuật tiên tiến để thực hiện những thủ đoạn mua bán người nói chung và mua bán trẻ em dưới 16 tuổi nói riêng, khiến cho tình hình phạm tội ngày càng trở nên phức tạp và căng thẳng, nhiều trường hợp phạm tội có tổ chức chặt chẽ và có tính xun quốc gia dưới nhiều hình thức khác nhau.

Mua bán người là một tội phạm xâm phạm đến quyền con người của nạn nhân. Những người bị mua bán thường những là người yếu thế, dễ lợi dụng, như trẻ em, phụ nữ và những người lao động thiểu số. Họ bị bóc lột sức lao động, bị cưỡng bức tình dục hoặc bị ép buộc làm những cơng việc nguy hiểm và phi pháp.

Theo báo cáo của các đơn vị, địa phương, từ năm 2010 đến tháng 6/2021, đã phát hiện xảy ra gần 3.500 vụ, với 5.000 đối tượng, lừa bán gần 7.500 nạn nhân. Riêng từ năm 2019 đến nay, đã phát hiện xảy ra hơn 370 vụ, với gần 500 đối tượng, lừa bán hơn 550 nạn nhân.<small>1</small> Tội phạm mua bán người đã xuất hiện trên phạm vi 63 tỉnh, thành phố. Trong đó, có nhiều vụ mua bán trẻ sơ sinh, bào thai sang Trung Quốc; mua bán nội tạng; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Điều này đã báo động cho chúng ta ta rằng, đạo đức xã hội ngày càng tha hóa, biến chất trầm trọng. Tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của trẻ em - đối tượng được Liên Hợp Quốc và các quốc gia trên thế giới dành sự quan tâm đặc biệt lại trở thành “món hàng” của các cá nhân, băng đảng phạm tội đem ra mua bán, bóc lột và thậm chí là lạm dụng tình dục. Đây là việc làm trái với đạo đức xã hội, đi ngược với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em trong giai

<i>đoạn năm 2021 - 2023: “Bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em, phát triển toàn diện trẻ em </i>

<i>nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”. </i>

<small> </small>

<small>1 tham khảo ngày 25/2/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Trong cơng cuộc phịng, chống tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người như: Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Trẻ em; Luật An ninh mạng;… Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tăng cường phối hợp với các nước, các tổ chức quốc tế, nhất là hợp tác các nước láng giềng như: Trung Quốc, Campuchia, Lào, Thái Lan và các tổ chức Cơ quan Phòng, chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC), Dự án Liên minh các tổ chức Liên Hợp Quốc về phòng chống mua bán người (UNIAP), Tổ chức di cư quốc tế (IOM),… nhằm triển khai, thực hiện nhiều hoạt động liên quan đến phòng, chống mua bán người.

Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật hình sự trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm mua bán người còn nhiều hạn chế. Thứ nhất, hành vi mua bán người chưa được mô tả cụ thể trong mặt khách quan, dẫn đến việc khó phân biệt giữa hành vi mua và mua bán, gây khó khăn trong q trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này. Thứ hai, việc điều tra cơ bản chưa nắm được tình hình mua bán người một cách thường xuyên, kịp thời, chưa đánh giá đúng tình hình và làm rõ nguyên nhân, điều kiện, quy định pháp luật và thủ đoạn hoạt động của các cá nhân, tổ chức thực hiện tội phạm mua bán người. Những hạn chế trên đã dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm mua bán người, nạn nhân của việc mua bán người không được bảo vệ kịp thời, hiệu quả. Đồng thời, những cá nhân, tổ chức của tội phạm này có điều kiện hoạt động lộng hành, tinh vi hơn.

Vì vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống tội phạm mua bán người, đặc biệt là người dưới 16 tuổi là một vấn đề cần thiết, quan trọng trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay. Đó cũng chính là lý do mà nhóm tác giả sinh viên chọn thực

<i><b>hiện nghiên cứu đề tài: “Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo pháp luật Việt Nam và một </b></i>

<i><b>số nước, kinh nghiệm cho Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học. </b></i>

<b>2. Tình hình nghiên cứu: </b>

Hiện nay các vấn đề về tội mua bán người dưới 16 tuổi được đề cập và phân tích rất nhiều trong các bài luận văn, giáo trình, tạp chí khoa học,...

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

“Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)” Đại học Luật Hà nội của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) và “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm – quyển 1) Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh do tác giả Trần Thị Quang Vinh (chủ biên) đều đề cập đến những vấn đề khái quát của tội mua bán người dưới 16 tuổi; Luận văn thạc sĩ Luật học “Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hương Giang (2017, Trường Đại học Luật Hà Nội) đề cập các vấn đề lý luận thực tiễn. Nguyễn Thị Hòa (2018) “Tội mua bán người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự 2015”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; tạp chí “Thực trạng các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em – Một số vướng mắc và kiến nghị” của tác giả Phạm Minh Tun (2018, tạp chí tịa án nhân dân 26/02/2018)

Các bài viết này phân tích khái quát tội mua bán người dưới 16 tuổi; nêu ra các dấu hiệu pháp lý của tội này; tập trung làm rõ khái niệm, dấu hiệu của tội mua bán người dưới 16 tuổi nhằm tìm ra biện pháp khắc phục thực trạng này một cách hiệu quả, đưa ra chế tài phù hợp với tội này.

Ngồi các cơng trình nghiên cứu trong nước ra, việc nghiên cứu về buôn bán người ở các tổ chức quốc tế, các nước khác vẫn đang thực hiện nhằm đưa ra giải pháp về việc phòng chống mua bán người như là:

Liên Hợp Quốc (UNODC), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM),... các tổ chức này nghiên cứu việc bn bán người trên tồn cầu, nghiên cứu nguyên nhân, hậu quả và biện pháp để giải quyết việc buôn bán người.

Các nghiên cứu của các tổ chức trên còn rất nhiều tác giả nghiên cứu về buôn bán người nổi bật như: "Human Trafficking of Children in Southeast Asia: A Multi-Disciplinary Analysis" của Siti Nur Aisyah (2020) nghiên cứu ngành nghề buôn bán trẻ em ở Đông Nam Á, phân tích tập trung và tính đa dạng của ngành nghề phạm pháp trên; hay bài nghiên cứu "Child Labor and Human Trafficking in Southeast Asia: A Comparative Study of Cambodia and Thailand" của Sophea Chen (2019) so sánh giữa lao động trẻ em và buôn bán trẻ em ở Đông Nam Á, bài viết tập trung vào thực trạng mua bán và bóc lột sức lao động trẻ vị thành niên ở Campuchia và Thái Lan; "The European Court of Human Rights and Human

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Trafficking: Effective Protection of Victims or Missed Opportunities?" của Vladislava Stoyanova (2018) về vai trò của Tòa án Nhân quyền châu Âu nghiên cứu bảo vệ nạn nhân của tội mua bán trẻ em và hiệu quả của việc thực hiện nghiên cứu trên. "Modern Slavery, Human Trafficking and Multinational Corporations: The Responsibility to Identify" của Benjamin James Brocklesby (2018) đề cập về trách nhiệm của các tập đoàn đa quốc gia trong việc nhận biết buôn bán người trong các chuỗi hoạt động của họ.

Có thể thấy, tội mua bán người dưới 16 tuổi là một tội không mới nên trên thế giới. Các nghiên cứu về tội danh cũng rất nhiều và chi tiết. Nhiều bài viết đã nghiên cứu về tội mua bán người dưới từ nhiều góc độ như xã hội, kinh tế, tâm lý, văn hố,... nhằm hiểu rõ hơn và tìm hiểu sâu về nguyên nhân, hậu quả để nâng cao hiệu quả phòng, chống tội danh này trong hệ thống pháp luật hơn. Hiện nay, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành BLHS vào năm 2015 và được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017. Do đó, phần lớn các nghiên cứu chỉ tiếp cận BLHS năm 1999 và cịn ít cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về tội mua bán người dưới 16 tuổi trong BLHS hiện hành.

<b>3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài nghiên cứu khoa học: </b>

<i><b>3.1 Mục đích nghiên cứu: </b></i>

Mục đích của đề tài nghiên cứu khoa học trên là phân tích và làm rõ những quy định của BLHS Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội mua bán người dưới 16 tuổi cũng như phân tích một số quy định của pháp luật của các nước láng giềng như: Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan và thực trạng đấu tranh phòng chống, nguyên nhân, điều kiện ở các nước trên về vấn nạn bn bán, mua bán người. Dựa trên các phân tích và so sánh, nghiên cứu đề xuất các biện pháp cải tiến về pháp luật, chính sách và thực tiễn để ngăn chặn và xử phạt tội mua bán người dưới 16 tuổi.

<i><b>3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: </b></i>

Để đạt được mục đích nêu trên, nhóm tác giả đề tài nghiên cứu khoa học đã đặt ra những nhiệm vụ sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

- Nghiên cứu một số lý luận chung về so sánh luật và các vấn đề liên quan đến tội mua bán người dưới 16 tuổi.

- Khái quát một số vấn đề lý luận chung về tội mua bán người dưới 16 tuổi trong luật hình sự Việt Nam.

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về tội buôn bán, mua bán người dưới 16 tuổi đối với các văn bản quy phạm pháp luật của các nước Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan.

- So sánh các vấn đề lý luận chung, thực trạng, nguyên nhân, điều kiện giữa Việt Nam và các nước Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan.

- Nêu được một số hạn chế, vướng mắc từ đó đề xuất, hồn thiện pháp luật cũng như một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam về tội mua bán người dưới 16 tuổi.

<i><b>3.3 Phạm vi nghiên cứu: </b></i>

Bài nghiên cứu khoa học này nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh tội mua bán người dưới 16 tuổi trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp việc nghiên cứu đánh giá những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả phòng chống tội mua bán người dưới 16 tuổi trong thực tiễn.

Bài nghiên cứu khoa học cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một số nước trong khi nghiên cứu tội mua bán người dưới 16 tuổi.

Về thời gian: Bài nghiên cứu khoa học nghiên cứu thực tiễn tình hình tội mua bán người từ năm 2016 – 2023 trong phạm vi cả nước.

<b>4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: </b>

<i><b>4.1 Cơ sở lý luận: </b></i>

Đề tài nghiên cứu khoa học được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, định hướng của các nhà lập pháp Việt Nam và

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

các nước láng giềng cũng như những luận điểm khoa học trong các cơng trình nghiên cứu, sách chun khảo, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành.

<i><b>4.2 Phương pháp nghiên cứu: </b></i>

Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích luật viết như: diễn dịch, quy nạp để phân tích các quy định của pháp luật. Đồng thời, bài viết cịn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để so sánh pháp luật, thực trạng, nguyên nhân của Việt Nam và các nước từ đó tổng hợp và đưa ra giải pháp cho tội mua bán người dưới 16 tuổi ở Việt Nam.

<b>5. Ý nghĩa của bài nghiên cứu khoa học: </b>

<i><b>5.1 Ý nghĩa lý luận: </b></i>

Cơng trình nghiên cứu khoa học về Tội mua bán người dưới 16 tuổi nghiên cứu về một chủ đề khơng mới nhưng mang tính thời sự và cấp bách trong tình hình thế giới và khu vực hiện nay. Đảng và nhà nước ta đã luôn ngày một hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo vệ quyền lợi của con người nói chung, của trẻ em dưới 16 tuổi nói riêng. Từ những văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ Luật hình sự,… tới các phương hướng, giải pháp phòng chống các tội mua bán người cũng như trẻ em dưới 16 tuổi được đưa ra, từ những văn bản liên quan tới các lĩnh vực nhằm lừa gạt trẻ em bán ra nước ngoài cho tới hợp tác quốc tế giữa các nước láng giềng như: Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan,… hay các tổ chức, liên minh quốc tế như UNICEF, UNIAP,… bởi sự tinh vi và phức tạp của hoạt động buôn bán người, đối tượng người dưới 16 tuổi là đối tượng dễ bị tác động, xâm phạm đến. Đồng thời, các quy định về tư pháp cũng như ngoại giao giữa các quốc gia đối với nạn nhân dưới 16 tuổi bị bn bán vẫn cịn lẻ tẻ và chưa tập trung, chưa thống nhất, các văn bản hướng dẫn chi tiết vẫn còn chưa được ban hành cụ thể và áp dụng đồng bộ. Do đó, việc hồn thiện pháp luật về Tội mua bán người dưới 16 tuổi là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, góp phần hồn thiện nên pháp luật quốc gia, có ý nghĩa rất quan trọng.

<i><b>5.2 Ý nghĩa thực tiễn: </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Tội phạm mua bán dưới 16 tuổi người xảy ra trên phạm vi 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Theo báo cáo của Bộ Cơng an, trong 5 năm (2012-2017), có khoảng hơn 3.000 nạn nhân bị mua bán và nghi vấn bị mua bán, trong đó, 90% nạn nhân bị bán sang Trung Quốc. Số nạn nhân bị mua bán và nghi vấn bị mua bán là 3.090 người, trong đó, chủ yếu là phụ nữ, trẻ em (chiếm trên 90%).<sup>2</sup> Thực tiễn xét xử và các số liệu của cơ quan điều tra, lực lượng biên phòng cho thấy, về số lượng các vụ mua bán người dưới 16 tuổi và mức độ nghiêm trọng của các vụ việc đến nay có dấu hiệu gia tăng và ngày càng tinh vi, phức tạp. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, hỗ trợ, phục hồi cũng như các biện pháp về kinh tế - xã hội,... nhằm phịng chống tội phạm bn bán người dưới 16 tuổi cũng được Nhà nước hết sức quan tâm chú trọng. Song, kết quả của các công tác trên chưa cao, do nhiều nhân trong đó đến từ lý do chủ quan như cơng tác cán bộ, nắm tình hình chưa sát sao, khó khăn trong quản lý dân cư ở vùng sâu vùng xa, khó nắm bắt thủ đoạn, hành vi của bọn tội phạm dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, cơng tác thực hiện các chính sách pháp luật và phịng ngừa tội phạm chưa thật sự triệt để. Do đó, việc nghiên cứu hồn thiện pháp luật cũng như các cơ chế, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Tội mua bán người dưới 16 tuổi là hết sức cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng thực thi pháp luật, bảo vệ sự bình yên của đời sống nhân dân, trừng trị những kẻ phạm tội làm gương để phòng ngừa tội phạm.

<b>6. Kết cấu của bài nghiên cứu khoa học: </b>

Bên cạnh phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, bài viết nghiên cứu khoa học gồm ba chương:

Chương I: Lý luận về so sánh luật và các vấn đề liên quan đến tội buôn bán người dưới 16 tuổi.

Chương II: Quy định của pháp luật Việt Nam và một số nước về mua bán người dưới 16 tuổi.

<small> </small>

<small>2 Lê Thị Thu Dung, “Tình hình tội phạm mua bán người trong giai đoạn hiện nay và một số giải pháp phịng ngừa”, </small>

<i><small>Tạp chí Kiểm sát, số 22/2018, tr.10-20. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Chương III: Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về tội mua bán người dưới 16 tuổi trên cơ sở học tập kinh nghiệm của một số nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i><b>1.1.1 Khái niệm, đặc điểm so sánh luật: </b></i>

Trong khoa học pháp lý trên thế giới “luật so sánh” có nhiều cách gọi khác nhau: Comparative law (tiếng Anh), Droit Comparé (tiếng Pháp),....Trong tiếng Việt ở một số cơng trình nghiên cứu học thuật sử dụng cả 3 thuật ngữ “luật so sánh”, “so sánh luật” hay “luật học so sánh”.

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về luật so sánh được các học giả sử dụng. Tuy nhiên thường không tập trung giải quyết vấn đề bản chất mà chỉ tập trung vào đối tượng hoặc chức năng của nó. Học giả Việt Nam định nghĩa luật so sánh là phương pháp xem xét, nghiên cứu, tiếp cận pháp luật trên thế giới. Với định nghĩa này tuy rằng hay và ngắn gọn nhưng việc đồng nhất luật so sánh thành một phương pháp nghiên cứu dù chỉ ra đối tượng nghiên cứu là pháp luật nhưng nó khơng mang lại lợi ích cho người nghiên cứu. Mặt khác, Michael Bogdan một học giả người Thụy Điển đã định nghĩa luật so sánh là so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt. Có thể thấy rằng, đây là một quan điểm khá toàn diện và đầy đủ khi mà ông sử dụng những điểm giống và khác đã được xác định để đánh giá, giải thích và phân nhóm các hệ thống pháp luật thành các dịng họ pháp luật hoặc nghiên cứu các vấn đề cốt lõi của các hệ thống pháp luật đó. So với các ngành khoa học pháp lý khác, luật so sánh cịn là một ngành tương đối mới mẻ, do đó, cách tiếp cận đối với nó cịn mở cho những người nghiên cứu. Ở các nước khác nhau, các nhà nghiên cứu luật học sử dụng các cách tiếp cận không giống nhau để làm sáng tỏ đối tượng của Luật so sánh và ngay trong cùng một nước cũng có nhiều trường phái và khuynh hướng khác nhau về Luật so sánh. Đây là vấn đề phổ biến trong khoa học (tập bài giảng luật so sánh).

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Bản chất của Luật so sánh, nó là một phương pháp so sánh pháp luật - là phương pháp nghiên cứu được áp dụng đối với lĩnh vực pháp luật hay chỉ là phương tiện có vai trị quan trọng trong việc giải thích các quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật khác nhau. Bên cạnh đó, Luật so sánh là ngành khoa học pháp lý bởi vì phương pháp này đã được rất nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn áp dụng ngoài ra kết quả của luật so sánh không chỉ dừng lại ở việc nêu ra những điểm tương đồng và khác biệt của đối tượng nghiên cứu mà quan trọng hơn nó nghiên cứu mối liên hệ giữa các hệ thống pháp luật này, giải thích nguồn gốc của sự tương đồng và khác biệt nhằm mục đích cải tổ hệ thống pháp luật quốc gia.

Về đặc điểm, luật so sánh trước hết có thể khẳng định nó khơng phải là ngành luật hay lĩnh vực pháp luật thực định. Thứ hai, đặc điểm quan trọng nhất của luật so sánh là so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau để tìm ra những điểm giống và khác giữa chúng. Tiếp theo là nghiên cứu luật so sánh khơng đồng nhất nghiên cứu pháp luật nước ngồi. Thứ tư, là một ngành luật khoa học độc lập trong khoa học pháp lý. Cuối cùng, phạm vi nghiên cứu của luật so sánh rất rộng.

Để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và đáp ứng yêu cầu của Nghị định thư về phịng ngừa, trấn áp và trừng trị tội bn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em thì BLHS Việt Nam hiện hành đổi một cách toàn diện hơn để tháo gỡ những khó khăn và vướng mắc, đồng thời cũng là để hội nhập quốc tế (ACTIP).

So với Điều 120 BLHS năm 1999 quy định về tội “mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em” thì ở BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) ta có thể dễ dàng thấy nó đã được tách thành 03 tội riêng biệt đó là mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151, tội đánh tráo người dưới 01 tuổi quy định tại Điều 152 và tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153. Ngồi ra, các tình tiết định khung tăng nặng khơng cịn phù hợp của BLHS năm 1999 đã được lượt bỏ thay vào đó là bổ sung thêm các tình tiết phù hợp, nghiêm khắc hơn. Điều này giúp cho chúng ta có thể dễ dàng xác định trách nhiệm hình sự cho từng tội danh tùy theo mức độ nguy hiểm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i><b>1.1.2 Các bước cơ bản để thực hiện so sánh luật: </b></i>

Thực tế có rất nhiều quan điểm về quy trình thực hiện so sánh luật. Có vài học giả phân chia thành ba giai đoạn là giai đoạn mô tả, giai đoạn giả định và giai đoạn giải thích. Mặt khác, cũng có học giả phân chia thành 6 bước như sau:

Bước 1: Xác định vấn đề pháp luật cần so sánh và xây dựng giả thuyết để nghiên cứu so sánh. Có nghĩa là cần phải xác định được đề tài cần nghiên cứu, định hướng được dàn ý cần triển khai.

Bước 2: Lựa chọn hệ thống pháp luật để so sánh. Có nghĩa là nếu những đề tài có so sánh với luật nước ngồi thì cần chọn lọc những quốc gia gần gũi và có những vấn đề nổi bật liên quan đến đề tài nghiên cứu để có thể có nhiều thơng tin thuận lợi hơn cho việc so sánh. Ngồi ra, cịn có mục đích nghiên cứu và khả năng tiếp cận nguồn thông tin.

Bước 3: Thu thập tài liệu tham khảo và xác định phạm vi so sánh. Sau khi hoàn thành được dàn ý và lựa chọn được các quốc gia để so sánh thì tiếp theo sẽ tiến hành thu thập những tài liệu tham khảo (những bộ luật) có liên quan.

Bước 4: Xây dựng hệ thống các tiêu chí so sánh. Khi xây dựng được những tiêu chí cần so sánh một cách chi tiết sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu được dễ dàng và nhanh chóng hơn vì đã định hướng kỹ càng.

Bước 5: Báo cáo về đối tượng cần so sánh.

Bước 6: Đánh giá có phê phán kết quả so sánh tìm được. Có nghĩa là đưa ra được những nhận xét sau khi so sánh từng tiêu chí với các quốc gia khác để thấy được ưu và nhược điểm, những mặt còn hạn chế trong luật pháp Việt Nam.

<b>1.2 Khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người dưới 16 tuổi: </b>

Ngày nay với sự phát triển của xã hội, nước ta đã hội nhập và phát triển không ngừng. Bên cạnh những thành tựu to lớn trên, vẫn còn những vấn đề nhức nhối cần sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước là việc mua bán người dưới 16 tuổi vẫn diễn ra một cách tinh vi và

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

phức tạp trong bối cảnh quyền của con người ngày càng được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là trẻ em - mầm non tương lai của đất nước. Với sự hội nhập mạnh mẽ, Việt Nam đã ký Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của liên hợp quốc (Nghị định thư Palermo). Trong Nghị định thư này, khái niệm mua bán người đã được định nghĩa tại Điều 3 như sau:

<i>a) "Buôn bán người" có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, hay lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người đang kiểm soát những người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ít nhất, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay phục vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nơ lệ, khổ sai hoặc lấy các bộ phận cơ thể; </i>

<i>b) Sự chấp thuận của một nạn nhân của việc buôn bán người đối với sự bóc lột có chủ ý được nêu ra trong khoản (a) của điều này là khơng thích đáng nếu bất kỳ cách thức nào nêu trong khoản (a) đã được sử dụng. </i>

<i>c) Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là "bn bán người" ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ cách thức nào được nói đến trong khoản (a) điều này; </i>

<i>d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi. </i>

Điều 3 Nghị định thư Palermo đã làm rõ buôn bán người bao gồm các hành vi buôn bán người; cách thức bn bán và mục đích của hành vi bn bán người. Theo như Nghị định thư Palermo thì tại Điều 3 Chương I có quy định định nghĩa thuật ngữ “buôn bán người” như sau: “Bn bán người” có nghĩa là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, hay lạm dụng quyền lực hoặc

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng

<i>ý của một người đang kiểm soát những người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ít nhất, </i>

việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay phục vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nơ lệ, khổ sai hoặc lấy các bộ phận cơ thể. Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000 định nghĩa “bn bán trẻ em” có nghĩa là là bất kỳ hành động hoặc giao dịch nào mà qua đó trẻ em bị chuyển giao từ bất kỳ một người hay một nhóm người nào cho một người hay một nhóm người khác để lấy tiền hay một giá trị trao đổi gì khác. Ngồi Nghị định thư cịn có những văn bản khác quy định về bn bán người nhưng vẫn chưa đầy đủ và hoàn chỉnh như Nghị định thư.

Mặt khác, theo Công ước ASEAN về phịng, chống bn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (ACTIP) thuật ngữ “buôn bán người” được giải thích cụ thể phù hợp với quy định về bn bán người của Nghị định thư về phịng ngừa trấn áp và trừng phạt nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (gọi tắt là Nghị định thư Palermo). Theo đó, tội phạm bn bán người được cấu thành bởi 3 yếu tố cơ bản sau:

(1) Hành vi (hoạt động): Thực hiện một trong các hành vi sau đây: Tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, tiếp nhận;

(2) Phương thức (phương tiện): Đe dọa, sử dụng bạo lực, ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương (lợi dụng điểm yếu của nạn nhân); cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm sốt đối với người khác;

(3) Mục đích: Bóc lột nạn nhân, bao gồm các hình thức bóc lột mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nơ lệ hay những hình thức tương tự như khổ sai hay lấy các bộ phận của cơ thể.

Với cách giải thích thuật ngữ “bn bán người” như trên đã tạo nên cách hiểu thống nhất giữa các quốc gia thành viên về các yếu tố cấu thành của tội bn bán người và từ đó góp phần nâng cao hiệu quả thực thi ACTIP trên thực tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã đưa ra định nghĩa buôn bán người như sau:

Bn bán người là một hình thức bóc lột lao động và bóc lột tình dục, trong đó người bị hại bị lôi kéo, vận chuyển, chuyển giao, tiếp nhận hoặc chứa chấp bằng cách sử dụng đe dọa, bạo lực, lừa dối hoặc lợi dụng sự yếu kém hoặc tình trạng dễ bị tổn thương của họ. ILO đã xác định bốn yếu tố cấu thành của buôn bán người: Bất kỳ hình thức nào của bóc lột lao động hoặc bóc lột tình dục; lợi dụng sự yếu kém hoặc tình trạng dễ bị tổn thương của nạn nhân; sử dụng đe dọa, bạo lực, lừa dối hoặc lợi dụng sự yếu kém hoặc tình trạng dễ bị tổn thương của nạn nhân; lợi ích tài chính hoặc vật chất khác cho kẻ buôn người.

Bên cạnh các khái niệm trên thì theo Điều 151 BLHS Việt Nam hiện hành quy định về tội mua bán người dưới 16 tuổi là trường hợp người phạm tội có hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; tuyển mộ, vận chuyển chứa chấp để thực hiện các hành vi nói trên. Dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người dưới 16 tuổi bao gồm: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể của tội phạm, khách thể của tội phạm.

Đặc trưng dấu hiệu pháp lý của Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 BLHS 2015) gồm:

Về khách thể: quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại là nhân phẩm, danh dự của người người. Đối tượng tác động của tội này là người dưới 16 tuổi khơng phụ thuộc vào giới tính.

Về mặt khách quan thì tội mua bán người dưới 16 tuổi là tội phạm cấu thành hình thức. Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi mua bán người thuộc một trong các hành vi như sau:

- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vơ nhân đạo khác ví dụ như đối với trường hợp để bóc lột tình dục như là tổ chức cho nạn nhân bán dâm, đưa nạn nhân đến cơ sở chứa mại dâm để bán dâm, làm nơ lệ tình dục,...). Để cưỡng bức lao động như là việc dùng vũ lực,

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc nạn nhân lao động trái ý muốn của họ. Hay trường hợp để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. Vì mục đích nhân đạo khác là sử dụng nạn nhân phải đi ăn xin hoặc sử dụng nạn nhân vào mục đích tàn ác khác.

- Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện các hành vi trên. Mặt chủ quan tội phạm trên được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Đó là khi người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

Về chủ thể của tội phạm là người đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Từ những quy định trên cho thấy pháp luật Việt Nam cũng quy định tội mua bán người tương tự như các quy định quốc tế về hành vi, thủ đoạn, mục đích của tội này. Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội, pháp luật Việt Nam đã quy định về các tội mua bán người ngày một tiếp cận hơn với quy định quốc tế. Tuy nhiên, các văn kiện quốc tế dùng cụm từ “buôn bán người” phổ biến hơn thay vì dùng cụm từ “mua bán người” mà theo nghĩa của tiếng Việt thì “bn bán” có nghĩa rộng hơn “mua bán”. Xét về bản chất, “buôn bán người” và “mua bán người” đều vì mục đích tư lợi và vi phạm đến quyền tự do của nạn nhân, tuy nhiên, nếu xét về hành vi khách quan thì hai khái niệm này khơng đồng nhất với nhau về quy mơ và mức độ vì “bn bán người” được thực hiện với quy mô lớn, phức tạp hơn, vượt ra ngồi biên giới một cách trái phép cịn đối với “mua bán người” thể hiện ở quy mô nhỏ và ít phức tạp hơn.

<b>1.3 Các nội dung so sánh luật của tội mua bán người dưới 16 tuổi: </b>

So sánh luật là một phương pháp nghiên cứu pháp luật của các quốc gia để tìm ra điểm giống và khác nhau giữa các hệ thống pháp luật. Cho nên, khi tìm hiểu nội dung so sánh luật của tội mua bán người dưới 16 tuổi trong pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một số quốc gia khác, ta cần tập trung vào những vấn đề sau:

<i>Đầu tiên, trong bài nghiên cứu khoa học này, nhóm tác giả sẽ nghiên cứu về định </i>

nghĩa của tội mua bán người dưới 16 tuổi trong pháp luật hình sự của Việt Nam với các quốc gia như: Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia. Định nghĩa của tội mua bán người dưới 16 tuổi có thể khác nhau tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của các quốc gia. Từ việc tìm

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

hiểu trên, nhóm tác giả đưa ra những điểm tương đồng cũng như điểm khác biệt trong cách định nghĩa về tội mua bán người dưới 16 tuổi trong pháp luật hình sự của bốn quốc gia và văn bản quy phạm pháp luật quốc tế có liên quan đến tội mua bán người dưới 16 tuổi (Nghị định thư Palermo, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia,…).

<i>Thứ hai, nhóm tác giả sẽ nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người dưới </i>

16 tuổi của bốn quốc gia trên. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm là những dấu hiệu đặc trưng của một tội danh để nhận biết, xác định hành vi phạm tội thuộc tội nào. Việc so sánh dấu hiệu pháp lý bao gồm khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của tội phạm. Trong khách thể của tội phạm có quan hệ xã hội bị tội mua bán người dưới 16 tuổi tác động, đối tượng tác động của tội phạm. Trong mặt khách quan bao gồm cấu thành tội phạm, hành vi khách quan của tội phạm, hậu quả của tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của tội phạm và hậu quả của tội phạm. Và cuối cùng, mặt chủ quan của tội phạm sẽ gồm lỗi, mục đích của tội phạm và chủ thể của tội phạm.

<i>Thứ ba, bên cạnh dấu hiệu pháp lý cũng như định nghĩa của tội mua bán người dưới </i>

16 tuổi, hình phạt cũng là một trong những nội dung cần được so sánh. Hình phạt của tội mua bán người dưới 16 tuổi của Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan và Campuchia đều là phạt tù, tuy nhiên, khung hình phạt của tội này trong mỗi hệ thống quốc gia sẽ có sự khác biệt nhất định.

Như vậy, trong nội dung so sánh luật của tội mua bán người dưới 16 tuổi có thể có nhiều khía cạnh, nhưng trong bài nghiên cứu khoa học này, nhóm tác giả sẽ tập trung vào ba khía cạnh cơ bản nhất là định nghĩa của tội phạm, các dấu hiệu pháp lý của tội phạm và hình phạt của tội phạm này. Sự khác biệt trong các khía cạnh trên có thể phản ánh ưu, nhược điểm của mỗi hệ thống pháp luật. Đồng thời, thông qua việc so sánh trên, người nghiên cứu có thể đánh giá, nhìn nhận hệ thống pháp luật nước mình một cách khách quan, tồn diện hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Ngoài ra, chủ thể của tội này cịn có thể là người nước ngồi hoặc cũng có thể là phần tử trong một tổ chức tội phạm với mạng lưới hoạt động rộng lớn. Họ lợi dụng sự tin tưởng, thật thà, điểm yếu của nạn nhân để dụ dỗ hoặc cưỡng bức và kiểm soát nạn nhân.

Trên thực tế, người phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi đa số là người từ 30 tuổi trở lên, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong khi đó đối với những người từ 16 tuổi trở lên thì thường sẽ ở vai trị đồng phạm khi phạm tội này.<small>4</small> Do đó, việc xác định tình trạng có hay khơng trách nhiệm hình sự đối với công tác xác định chủ thể phạm tội là một yêu cầu quan trọng, việc căn cứ vào giấy khai sinh hoặc giấy tờ tùy thân khác sẽ đóng vai trị cốt

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

lõi trong việc xác định tuổi của người phạm tội, trong trường hợp nghi ngờ về tình trạng trách nhiệm hình sự thì cần có giám định kết luận.

Như vậy, ta có thể thấy được pháp luật Việt Nam giới hạn phạm vi chủ thể khá rộng là từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh trên. Điều này cho thấy ở Việt Nam đã đề cao và siết chặt hơn phạm vi chủ thể để có thể tăng cường tính răn đe và một phần cũng thể hiện được pháp luật Việt Nam rất quan tâm đến những tội danh có liên quan đến trẻ em.

<i><b>2.1.2 BLHS Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa: </b></i>

Để tìm kiếm lợi nhuận từ việc cưỡng bức, bóc lột lao động hoặc các hoạt động tình dục khác đối với người dưới 16 tuổi, BLHS CHND Trung Hoa quy định chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chủ thể của tội mua bán người dưới 16 tuổi theo BLHS CHND Trung Hoa cịn có điểm khác so với BLHS Việt Nam là quy định cả trách nhiệm hình sự cho pháp nhân. Quy định này phù hợp với Điều 10 của Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (gọi tắt là Công ước TOC) về trách nhiệm pháp lý của pháp nhân, trong đó có Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là thành viên tham gia. Bởi lẽ, đặc điểm nổi bật của tội mua bán người dưới 16 tuổi là những tội phạm có tính chất xun quốc gia. Phần lớn những trường hợp mua bán người qua các nước đều do nhóm tội phạm có tổ chức thực hiện.

Cịn ở Việt Nam, pháp nhân thương mại chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với 33 tội danh<small>5</small>, được chia thành ba nhóm tội phạm. Đó là nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (22 tội danh), nhóm các tội phạm xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng (02 tội danh), nhóm các tội phạm về mơi trường (09 tội danh).<small>6</small> Trong đó, ta thấy BLHS Việt Nam không quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người. Mặc dù theo Điều 10 Công ước TOC, các nước thành viên không bị ràng buộc

<small> </small>

<small>5 Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). </small>

<small>6</small><i><small> Lê Thị Vân Anh, “Quy định về tội mua bán người trong Bộ luật Hình sự - hạn chế và hướng hoàn thiện,” Nxb. Dân </small></i>

<i><small>chủ và Pháp luật, số 348/2021, tr.16-21. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

về quy định này. Tuy nhiên, việc không quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người có thể gây khó khăn trong hợp tác để ngăn ngừa phịng chống tội phạm có tổ chức tội phạm xuyên quốc gia do xung đột giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.

<i><b>2.1.3 BLHS Cộng hòa Nhân dân Campuchia: </b></i>

Hiện nay, pháp luật Campuchia đã luật cụ thể để điều chỉnh về mua bán người dưới 16 tuổi được quy định trong Luật Chống Bn người và Bóc lột Tình dục.

Chủ thể của tội này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Với tội mua bán người dưới 16 tuổi, năng lực chủ thể chịu trách nhiệm hình sự quy định trong các Điều 12, Điều 21, Điều 151 BLHS Việt Nam là người từ đủ 14 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự và vi phạm tội phạm rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội danh này trong BLHS Việt Nam, các nhà làm luật cũng cho rằng đây là tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng, nên tuổi chịu trách nhiệm hình sự của tội mua bán người dưới 16 tuổi là người từ đủ 14 tuổi. Theo đó, Campuchia lại quy định cụ thể trách nhiệm hình sự trong Điều 4 Luật Chống Bn người và Bóc lột Tình dục như sau:

<i>“Bất kì người nào phạm tội nặng hoặc tội nhẹ như đã nêu trong luật này sẽ bị phạt và chịu trách trách nhiệm hình sự như trong trường hợp phạm tội đã được thực hiện. </i>

<i>Người đồng phạm, người xúi giục phạm tội hoặc tội nhẹ quy định trong bộ luật này đều bị trừng trị và phải chịu trách nhiệm như người phạm tội đã thực hiện tội phạm. </i>

<i>Những người chủ mưu và những người xúi giục bao gồm những người tổ chức hoặc chỉ ra, chẳng hạn như ủy thác cho người khác phạm tội hoặc tội nhẹ, được nêu trong luật này. </i>

<i>Khi một đại diện của một cơ quan hoặc nhân viên của một pháp nhân hoặc một người thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào được quy định trong luật Điều này trong khuôn khổ kinh doanh hoặc lợi ích của pháp nhân hoặc người được ủy thác, pháp nhân hoặc </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i>người được ủy thác sẽ bị trừng phạt với hình phạt tiền. Hình phạt bổ sung và hình phạt tương ứng với hình phạt nêu tại các điều có liên quan.” </i>

Tuy không quy định rõ độ tuổi, nhưng trong Điều 39 BLHS Campuchia có quy định: “người từ đủ 14 tuổi trở lên có thể chịu trách nhiệm hình sự nếu hoàn cảnh phạm tội hoặc nhân thân của người chưa thành niên đó cần thiết”. Do đó, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của Campuchia đối với tội này là người từ đủ 14 tuổi trở lên, tương tự với cách quy định của BLHS Việt Nam.

Mặc khác, pháp luật Campuchia còn quy định pháp nhân là chủ thể của tội buôn người, nhưng theo Điều 76 BLHS Việt Nam quy định thì pháp nhân thương mại chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với những tội danh đã được quy định cụ thể, trong đó khơng có tội mua bán người dưới 16 tuổi. Qua đó cho thấy, pháp luật hình sự Việt Nam cịn hạn chế khi quy định chủ thể của tội này chỉ là cá nhân mà bỏ quên một chủ thể khác có khả năng phạm tội này là pháp nhân. Bởi lẽ, một tổ chức buôn bán người với quy mô lớn sẽ tiến hành theo một hệ thống bài bản, chia từng khâu rõ ràng và pháp nhân là một chủ thể rất có thể tiến hành hoạt động này. Hạn chế trên đã gây khó khăn trong cơng tác xác định chủ thể của tội phạm này, từ đó dẫn đến khơng xác định được tội danh cụ thể đối với pháp nhân khi phạm tội. Vì vậy, nhóm tác giả nghiên cứu cho rằng, pháp luật hình sự Việt Nam cũng cần phải đưa pháp nhân là một trong những chủ thể của tội mua bán người dưới 16 tuổi.

<i><b>2.1.4 BLHS Vương quốc Thái Lan: </b></i>

<i>Thứ nhất, về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực chịu trách nhiệm hình sự, </i>

theo Điều 73 Bộ luật Hình sự Thái Lan 1957 (đã sửa đổi, bổ sung), người chưa quá 7 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đồng thời, tại Điều 74, người đủ 7 tuổi nhưng chưa đủ 14 tuổi phạm tội thì Tịa án khơng áp dụng hình phạt mà sẽ áp dụng chế độ giao người này cho người hoặc tổ chức có trách nhiệm thực hiện việc giáo dưỡng, chăm sóc đặc biệt. Bên cạnh đó, Điều 75 BLHS Thái Lan quy định rằng người từ đủ 14 tuổi sẽ chịu trách nhiệm hình sự nhưng sẽ tùy vào năng lực chịu trách nhiệm hình sự cũng như mức độ phạm tội và các yếu tố liên quan mà người từ đủ 14 tuổi có thể khơng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 73 hay được giảm hình phạt xuống một nửa. So với Việt Nam thì

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở Thái Lan khá thấp. Tuy nhiên, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của tội buôn bán người không được quy định riêng trong Đạo luật phịng chống và đàn áp nạn bn người ở Thái Lan 2008.Vì thế, dựa vào BLHS Thái Lan thì ta có thể thấy độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự các tội phạm khá thấp nên có thể dựa vào BLHS Thái Lan để xác định được độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội bn bán người trong Đạo luật nói trên.

Đối với Việt Nam, BLHS Việt Nam đã quy định về tội mua bán người dưới 16 tuổi tại Điều 151. Chủ thể của tội này được quy định tại Điều 12, Điều 21 và Điều 151 của BLHS Việt Nam 2015. Theo đó, người phạm tội đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của tội này là người từ đủ 14 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự và vi phạm tội phạm rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp của Điều 151 BLHS thì đây là tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng, nên tuổi chịu trách nhiệm hình sự của tội mua bán người dưới 16 tuổi là người từ đủ 14 tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Từ đó, thấy được Đạo luật phịng chống và đàn áp nạn buôn người ở Thái Lan 2008 vẫn chưa thực sự rõ ràng khi khơng có quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng như năng lực chịu trách nhiệm hình sự như ở Việt Nam và đó cũng chính là lỗ hổng để các tội phạm có thể thực hiện hành vi. Cịn ở pháp luật Việt Nam đã có sự quan tâm đối với tội phạm trên vì quy định rõ ràng và hợp lý (người từ đủ 14 tuổi trở lên).<small>7</small>

<i>Thứ hai, một điểm nổi bật tại quy định ở Thái Lan mà BLHS Việt Nam có thể tiếp </i>

thu đối với tội mua bán người dưới 16 tuổi chính là đặt ra hình phạt một cách chi tiết đối

<i>với pháp nhân tại Điều 53 của đạo luật trên:“Bất kỳ pháp nhân nào phạm tội mua bán người </i>

<i>sẽ bị phạt tiền từ hai trăm nghìn Baht đến một triệu Baht” còn trong BLHS Việt Nam, tội </i>

mua bán người dưới 16 tuổi không bao gồm pháp nhân. Pháp luật Việt Nam dành ít sự quan tâm cho chủ thể pháp nhân, cụ thể tại Điều 74 BLHS 2015 quy định pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm hình sự trong các lĩnh vực chủ yếu liên quan đến kinh tế, mơi trường,... Do đó, các thành phần tội phạm vẫn lợi dụng “điểm yếu” đó để che giấu và thực hiện hành vi trái pháp luật trên. Bởi lẽ, tội phạm mua bán người thường sẽ hoạt động theo tổ chức vì phải

<small> </small>

<small>7 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

trải qua nhiều bước mới có thể đưa nạn nhân qua biên giới cho nên ít có trường hợp cá nhân trực tiếp và tự mình thực hiện tất cả các hành vi vận chuyển, mua bán, lấy nội tạng mà sẽ có thêm đồng phạm. Các người phạm tội có thể “núp bóng” dưới pháp nhân như các cơng ty xuất khẩu lao động, hỗ trợ du học,... để thực hiện hành vi thuận tiện, dễ dàng hơn nên việc đặt ra hình phạt đối với pháp nhân là vơ cùng cần thiết. Đây cũng chính là điều hạn chế ở pháp luật Việt Nam khi không dự liệu đối với các trường hợp mà pháp nhân là người thực hiện. Qua đó, thấy được Thái Lan cũng có thái độ rất quyết liệt trong hoạt động phòng, chống mua bán người khi đã bao gồm tất cả các chủ thể có thể thực hiện việc bn bán người. Nhìn chung, cả hai nước đều có những ưu điểm và khuyết điểm trong các quy định để xử lý tội phạm mua bán và buôn bán người. Không thể phủ nhận rằng Việt Nam và Thái Lan đang có những nỗ lực để có thể giảm thiểu nạn mua bán người dưới 16 tuổi một cách triệt để nhất.

<b>2.2 Mặt khách quan của tội phạm cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi trong BLHS Việt Nam và BLHS của một số quốc gia: </b>

<i><b>2.2.1 BLHS Việt Nam: </b></i>

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, cơng cụ, phương tiện, hồn cảnh phạm tội,... Thông qua những dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm, người nghiên cứu có thể đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm gồm: hành vi- dấu hiệu bắt buộc, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm.

Trong pháp luật hình sự của Việt Nam, mặt khách quan của tội mua bán người dưới 16 tuổi gồm những dấu hiệu sau: Theo khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT - TANDTC – VKSNDTC-BCA-BQP-BTP định nghĩa mua bán trẻ em (người dưới 16 tuổi) là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi trẻ em tức người dưới 16 tuổi như một loại hàng hóa; cụ thể là một trong các hành vi sau đây: Bán trẻ em cho người khác, khơng phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai với mục đích gì; dùng trẻ em làm phương tiện để trao đổi,

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

thanh toán; mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì những mục đích trái pháp luật khác. Theo Điều 151 BLHS Việt Nam, tội mua bán người dưới 16 tuổi có cấu thành hình thức, tức là chỉ cần có hành vi được quy định tại BLHS là đủ để cấu thành tội phạm mà khơng cần thiết phải hồn thành việc trao đổi người và các lợi ích đi kèm. Đồng thời, theo khoản 1 Điều 151 của luật này, hành vi mua bán người dưới 16 tuổi bao gồm: Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vơ nhân đạo khác; tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc b khoản này.

Như vậy, những đối tượng phạm tội có thể dùng bất kì thủ đoạn, hành vi phạm tội nào để đạt được mục đích và một trong những thủ đoạn phổ biến nhất là lừa gạt, mua chuộc, lơi kéo dùng các lợi ích về vật chất hoặc tiền để thực hiện hành vi mua bán người dưới 16 tuổi.

Về hậu quả của của tội phạm, trước tiên, tội mua bán người dưới 16 tuổi làm cho trẻ em bị tách khỏi gia đình, bị mất đi quyền được chăm sóc, giáo dục và ni dưỡng. Ngồi ra, trẻ em cịn có thể bị đe dọa đến tính mạng, ảnh hưởng đến tinh thần, hành hạ về thể xác, bị mua bán, trao đổi như một món hàng và cịn nhiều các hậu quả nghiêm trọng khác. Bên cạnh việc gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho trẻ em thì gia đình, người thân cũng là đối tượng bị ảnh hưởng về sức khỏe, tinh thần cũng như có thể kể đến thiệt hại về tài sản,...

Tuy nhiên, trong tội mua bán người dưới 16 tuổi, trường hợp không truy cứu trách nhiệm hình sự là “vì mục đích nhân đạo” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 151 BLHS, được hướng dẫn bởi khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, người nào biết người khác thực sự có nhu cầu ni con ni (do hiếm muộn hoặc có lịng u trẻ) đã mơi giới cho người này xin con ni của người vì hồn cảnh gia đình khó khăn khơng có điều kiện ni con muốn cho con đẻ của mình làm con ni và có nhận một khoản tiền từ việc cho con và việc môi giới. Đây là trường hợp vì mục đích nhân đạo nên người môi giới, người

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

cho con mình đi làm con ni và người nhận con ni khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi.<small>8</small>

Như vậy, định nghĩa của tội mua bán người dưới 16 tuổi bao gồm hành vi mua và bán, nghĩa là chuyển giao người dưới 16 tuổi từ người này sang người khác với những mục đích tìm kiếm lợi nhuận trái pháp luật, nếu những trường hợp như là vận chuyển, chứa chấp hay nhận là người thân thiết,... đều là những hành vi có thể xảy ra trong q trình thực hiện hành vi mua và bán trẻ em thì ta có thể thấy luật hình sự Việt Nam khơng bao gồm những khái niệm này. Mặt khác, những hành vi và quá trình cụ thể đã được bao hàm trong Nghị định về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị buôn bán người đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em của Liên hợp quốc năm 2000.

So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có quy định cụ thể và rõ ràng hơn về hành vi mua bán người dưới 16 tuổi. Theo đó, khoản 1 Điều

<i>120 BLHS năm 1999 chỉ quy định: “1. Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ </i>

<i>em dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.”. Theo cách quy </i>

định này, hành vi mua bán trẻ em chỉ bao gồm “mua bán trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào” chứ khơng quy định cụ thể từng hành động khác nhau có thể xảy ra như ở BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy có thể nói, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã chú trọng hơn về mặt khách quan của tội này vì có quy định cụ thể hơn rất nhiều so với BLHS năm 1999.

<i><b>2.2.2 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: </b></i>

Tội mua bán người dưới 16 tuổi là tội phạm có cấu thành hình thức. Nghĩa là cấu thành tội phạm có duy nhất một yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Mặt khách quan của tội này trong BLHS của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được quy định như sau:

<small> </small>

<small>8</small><i><small> Đoàn Ngọc Huyền, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua bán người trong luật hình sự Việt Nam, Đại học </small></i>

<small>Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội, 2014. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi mua bán người, được thể hiện qua một trong những hành vi sau:

- Dùng tiền, tài sản hoặc các phương tiện thanh toán khác để đổi lấy người (nhằm đem bán) hoặc ngược lại để thu lợi dưới những hành vi sau: lừa gạt, bắt cóc, mua, bán, đưa đón, trung chuyển.<sup>9</sup>

- Bắt trộm trẻ em rồi đem đi bán.<small>10</small>

Nhìn chung, hành vi khách quan của tội này trong BLHS CHND Trung Hoa có nhiều điểm tương đồng với BLHS Việt Nam.

Về hậu quả, hậu quả trước tiên của tội mua bán người dưới 16 tuổi trong BLHS CHND Trung Hoa là trẻ em bị tách chuyển trái phép khỏi nơi cư trú, khỏi sự chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Kế đến là trẻ em có thể đối diện với nguy cơ bị đe dọa về tính mạng, sức khỏe, bị chà đạp lên danh dự, nhân phẩm, hoặc bị lao động khổ sai, lạm dụng tình dục,… Mở rộng hơn là hậu quả gây thiệt hại về tinh thần của gia đình những trẻ em là nạn nhân trong việc mua bán người, gây mất trật tự an tồn xã hội,… Chính vì vậy mà BLHS CHND Trung Hoa có thái độ trừng phạt rất nghiêm khắc đối với loại tội phạm này, mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình. Ngồi ra, người phạm tội cịn có thể bị tịch thu một phần hoặc tồn bộ tài sản. Trong khi đó, theo BLHS Việt Nam, mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân.<small>11</small> Đây cũng là một trong những sự khác biệt trong kỹ thuật lập pháp của hệ thống pháp luật hai nước. Trong khi pháp luật của CHND Trung Hoa hướng đến tính răn đe nghiêm khắc thì pháp luật Việt Nam có phần đề cao quyền con người, thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt hình phạt tử hình trong BLHS hiện hành.

<i><b>2.2.3 BLHS Cộng hịa Nhân dân Campuchia: </b></i>

Mặt khách quan của Tội mua bán người dưới 16 tuổi trong BLHS Campuchia cũng có nét tương đồng với BLHS Việt Nam. Tội này có cấu thành hình thức là cấu thành tội

<small> </small>

<small>9 Điều 240 Bộ luật Hình sự Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. </small>

<small>10 Khoản 6 Điều 240 Bộ luật Hình sự Cộng hồ Nhân dân Trung Hoa. </small>

<small>11 Khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

phạm mà mặc khách quan chỉ có hành vi là dấu hiệu bắt buộc. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức được coi là hồn thành khi hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện.<small>12</small>

Theo pháp luật Campuchia Điều 13 Luật Chống Buôn người và Bóc lột Tình dục thì mua bán người được định nghĩa như sau:

<i>“Chuyển giao quyền kiểm soát của người này cho người khác một cách bất hợp pháp hoặc chấp nhận chuyển giao một cách bất hợp pháp giành quyền kiểm soát của người nào đó từ người khác bằng cách trao đổi thứ gì đó có giá trị, bao gồm cả dịch vụ và con người.” </i>

Có thể thấy, theo như định nghĩa của Điều 13 Luật Chống Bn người và Bóc lột Tình dục thì tội bn người ở Campuchia cũng có cấu thành tội phạm hình thức như Việt Nam.

Hành vi khách quan trong tội buôn người của Campuchia bao gồm:

- Bán hoặc trao đổi với mục đích tìm kiếm quấy rối tình dục, sản xuất hình ảnh khiêu dâm, kết hôn nhân trái với ý muốn của nạn, nhận làm con ni hoặc bất kỳ các hình thức bóc lột nào khác.<small>13</small>

- Bán hoặc trao đổi người khác nhằm mục đích chuyển giao hoặc đưa ra khỏi lãnh thổ Vương quốc Campuchia.<small>14</small>

- Vận chuyển người khác đã bị đưa đi bất hợp pháp, chọn bán hoặc trao đổi khi biết rằng người đó bị xuất khẩu, tuyển dụng, mua bán hoặc vận chuyển bất hợp pháp nhằm mục đích quấy rối tình dục sản xuất nội dung khiêu dâm hôn nhân trái với ý muốn của nạn nhân, nhận con nuôi hoặc các hình thức bóc lột khác.<small>15</small>

<small> </small>

<small>12</small><i><small> Vũ Thị Thuý, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - phần chung, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, </small></i>

<small>2021, tr.121. </small>

<small>13 Điều 15 Luật Chống bn người và bóc lột tình dục. </small>

<small>14 Điều 16 Luật Chống bn người và bóc lột tình dục. </small>

<small>15 Điều 17 Luật Chống bn người và bóc lột tình dục. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

- Đưa người khác khi biết người đó bị đưa ra ngoài trái phép, chọn bán hoặc mua bán ra ngoài lãnh thổ Vương quốc Campuchia.<small>16</small>

- Cung cấp nơi trú ẩn hoặc che giấu bất kỳ người nào khỏi việc xuất khẩu trái phép hoặc chọn buôn bán hoặc vận chuyển nhằm mục đích bóc lột tình dục, sản xuất hình ảnh khiêu dâm về hơn nhân trái với ý muốn của nạn nhân được nhận làm con nuôi. hoặc bất kỳ hình thức bóc lột nào khác.<small>17</small>

- Che chở, che giấu nạn nhân hoạt động xuất khẩu, tuyển chọn, mua bán, vận chuyển trái phép nhằm mục đích giúp người thực hiện hành vi đưa nạn nhân ra nước ngoài, tuyển chọn, mua bán, vận chuyển trái phép.<small>18</small>

Ta có thể thấy Campuchia đã đề ra các hành vi buôn bán người ở mặt khách quan kể cả đồng phạm, trong khi luật của Việt Nam chỉ nói đến người thực hiện tội phạm, nạn nhân là người chưa thành niên trong Luật Chống Buôn người và Bóc lột Tình dục<small>19</small> thì đây đều là tình tiết tăng nặng chứ khơng phải một Điều luật riêng như Việt Nam<sup>20</sup> Bên cạnh đó Luật của Việt Nam cũng có phần tiến bộ hơn khi đề cập đến lấy bộ phận cơ thể, ngày nay mua bán người khơng chỉ nhằm vào mục đích liên quan đến tình dục hoặc kết hơn trái phép nữa mà cịn liên quan đến bán các bộ phận cơ thể người.

<i><b>2.2.4 BLHS Vương quốc Thái Lan: </b></i>

Theo Điều 6, Điều 7 Đạo luật phịng chống và đàn áp nạn bn bán người 2008 của Thái Lan thì tội bn bán người thuộc cấu thành tội phạm hình thức. Hành vi khách quan của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc.

<i>“Điều 6: Quy định chung: </i>

<small> </small>

<small>16 Điều 18 Luật Chống bn người và bóc lột tình dục. </small>

<small>17 Điều 19 Luật Chống bn người và bóc lột tình dục. </small>

<small>18 Điều 20 Luật Chống bn người và bóc lột tình dục. </small>

<small>19 Điều 11, Điều 12, Điều 15, Điều 16, Điều 17, Điều 19 Luật Chống bn người và bóc lột tình dục. </small>

<small>20 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i>Bất kỳ người nào tìm kiếm lợi ích bất hợp pháp hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào sau đây thì đều là tội phạm buôn bán người. </i>

<i>(1) Để mua, bán, buôn bán, mang đến hoặc gửi đến người nên giam giữ, biệt giam, bố trí nơi ở hoặc tiếp nhận bất kỳ người nào bằng cách đe dọa, sử dụng vũ lực, bắt cóc, lừa đảo, lạm quyền khống chế một người vì lý do họ đang ở trong tình trạng kém hơn về thể chất, tinh thần, giáo dục hoặc bất kỳ cách nào khác một cách sai trái hay lạm dụng hoặc bằng cách đưa tiền hoặc các lợi ích khác cho cha mẹ hoặc người chăm sóc của người đó để cha mẹ hoặc người chăm sóc đồng ý cho người phạm tội trong việc tìm kiếm lợi ích từ những người dưới sự chăm sóc của mình thì là hành vi phạm tội bn bán người. </i>

<i>(2) Mua, bán, mang từ hoặc gửi người đến bất kỳ nơi nào; cung cấp nhà ở hoặc chấp nhận đứa trẻ. Nếu hành động đó được thực hiện với ý định khai thác lợi ích bất hợp pháp thì người đó phạm tội mua bán người. Khai thác bất hợp pháp theo khoản một có nghĩa là tìm kiếm lợi ích của mại dâm. Sản xuất hoặc phân phối tài liệu hoặc nội dung khiêu dâm khai thác tình dục dưới các hình thức khác, coi mọi người như nô lệ hoặc trao cho họ một địa vị tương tự như nô lệ hay đưa người đi ăn xin. Lấy nội tạng vì mục đích thương mại, lao động cưỡng bức hoặc dịch vụ theo khoản (1) Điều 6 hoặc bất kỳ mục đích nào khác tương tự như việc bóc lột một người, bất kể người đó có đồng ý hay khơng. </i>

<i>Điều 7: Người nào thực hiện các hành vi sau đây thì phải chịu hình phạt như người phạm tội bn bán người: </i>

<i>(1) Hỗ trợ thực hiện hành vi buôn bán người; </i>

<i>(2) Hỗ trợ bằng cách cung cấp tài sản để cung cấp một nơi gặp gỡ hoặc một nơi để ở cho những người phạm tội buôn người; </i>

<i>(3) Hỗ trợ bằng mọi cách để giúp tội phạm buôn người tẩu thốt; </i>

<i>(4) Địi hỏi, chấp nhận hoặc đồng ý nhận tài sản hay bất kì lợi ích nào khác từ người phạm tội buôn bán người để những người bn bán người khơng phải chịu hình phạt; </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i>(5) Gạ gẫm, gợi ý hoặc liên hệ với tội phạm để trở thành thành viên của một tổ chức phạm tội buôn bán người.” </i>

Đạo luật trên của Thái Lan đã quy định chi tiết, cụ thể hành vi cấu thành tội buôn bán người như mua, bán, buôn bán, lấy nội tạng hay chứa chấp, dụ dỗ người khác cùng thực hiện tội phạm hoặc tạo điều kiện để thực hiện hành vi đó. Việc quy định rõ ràng, cụ thể từng trường hợp có nét tương đồng với những hành vi của tội phạm ở Việt Nam thì thấy rằng các hành vi phạm tội trên Thái Lan và Việt Nam rất đa dạng với nhiều chiêu thức tinh vi nên pháp luật Thái Lan đã dự liệu được những trường hợp phức tạp nhất để có thể phịng chống nạn bn bán người này một cách tối ưu.

Điểm nổi bật ở quy định của Thái Lan chính là đề cập một cách trực diện, rõ ràng, chi tiết về những hành vi của đồng phạm như trường hợp của người giúp sức tại Điều 7 như hỗ trợ thực hiện hành vi buôn người hay hành vi cung cấp tài sản để cung cấp một nơi gặp gỡ hay nơi ở cho tội phạm bn người,... cịn ở Việt Nam thì khơng có quy định rõ ràng về hành vi đồng phạm của tội mua bán người dưới 16 tuổi mà căn cứ thực tế, hoàn cảnh để quyết định.

Ngoài Đạo luật trên quy định về tội buôn bán người ở Thái Lan thì Bộ luật hình sự năm 1997 bổ sung các tội danh liên quan bn bán người đó là:

- Đẩy trẻ em vào các hành vi tình dục đồi bại, thậm chí đứa trẻ có thể đồng ý (hình phạt 07 năm tù).

- Đẩy một người vào các hành vi tình dục đồi bại bằng cách sử dụng các hình thức lừa dối, dọa nạt, tra tấn về thể xác, tác động trái đạo lý, hoặc ép buộc về tinh thần (hình phạt từ 01 đến 10 năm).

- Tiếp nhận, bán, dẫn dắt, dụ dỗ hoặc buôn bán người dưới 18 tuổi, ngay cả khi có sự đồng tình của nạn nhân (hình phạt 07 năm). Bên cạnh Đạo luật phịng chống và đàn áp nạn bn bán người, Thái Lan cịn có Luật nhận con ni năm 1979. Nhìn chung, pháp luật hình sự Thái Lan quy định về tội mua bán người, trẻ em, phụ nữ đa số nghiêng về bảo vệ nạn nhân trước nguy cơ bị xâm hại tình dục. Việc hệ thống pháp luật Thái Lan có nhiều văn

</div>

×