Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 81 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Trong suốt q trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội
<i><b>với đề tài “Công tác xã hội cá nhân với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ từ 2-3 tuổi (Nghiên cứu tại viện nghiên cứu và ứng dụng cơng nghệ giáo dục ATEC)”, ngồi sự nỗ lực của </b></i>
bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên từ phía thầy cơ, gia đình và bạn bè.
Lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới nhà trường cùng các thầy cô của Bộ môn Công tác xã hội - Trường Đại học Thăng Long. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới GS.TS Lê Thị Quý đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo cho tơi trong suốt q trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Viện nghiên cứu và ứng dụng công nghệ giáo dục ATEC, cô Nguyễn Thị Như Quỳnh- Giám đốc trung tâm, cô Lương Ngọc Bích Loan - Giáo viên chủ nhiệm lớp, đã tận tình giúp đỡ, cung cấp thơng tin và tạo điều kiện tốt nhất cho tơi trong q trình thực hành tại trường.
Lời cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã hỗ trợ, động viên tơi trong suốt q trình học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Do kiến thức và kỹ năng còn hạn chế nên vẫn có những sai sót. Tơi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cơ, bạn bè và những người quan tâm đến đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
<i><b>Hà Nội, tháng 4 năm 2023 Sinh viên </b></i>
<i><b>Trịnh Kiều Trang </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">1.Lý do chọn đề tài ... 10
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ... 11
2.1 Mục đích nghiên cứu ... 11
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu ... 11
3. Tổng quan nghiên cứu ... 12
3.1. Các nghiên cứu nước ngoài ... 12
3.2. Các nghiên cứu trong nước ... 18
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ... 20
4.1. Đối tượng nghiên cứu ... 20
7. Câu hỏi nghiên cứu ... 22
8. Giả thuyết nghiên cứu... 22
9. Phương pháp nghiên cứu ... 22
9.1 Phương pháp phân tích tài liệu ... 22
8.2. Phương pháp quan sát ... 22
8.3. Phương pháp phỏng vấn ... 23
8.4. Phương pháp công tác xã hội cá nhân ... 23
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
VỚI TRẺ CHẬM PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TỪ 2 - 3 TUỔI ... 24
1.1. Các khái niệm công cụ ... 24
1.1.1. Công tác xã hội ... 24
1.1.2. Công tác xã hội cá nhân ... 24
1.1.3. Trẻ em ... 25
1.1.4. Ngôn ngữ ... 26
1.1.5.Khái niệm chậm phát triển ngôn ngữ ... 26
1.1.6. Đặc điểm tâm lý của trẻ từ 2-3 tuổi ... 29
1.1.7. Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ từ 2-3 tuổi ... 30
1.1.8.Chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ từ 2 tuổi đến 3 tuổi ... 31
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ... 31
1.2.1 Lý thuyết nhận thức-hành vi ... 31
1.2.2 Thuyết thân chủ trọng tâm ... 33
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ chậm phát triển ngôn ngữ từ 2 tuổi đến 3 tuổi ... 35
1.3.1. Các yếu tố khách quan ... 35
1.3.2. Các yếu tố chủ quan ... 36
1.4 Các hoạt động Công tác xã hội của nhân viên đối với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ
2-3 tuổi 371.4.1 Hoạt động kết nối nguồn lực: ... 38
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">2.1.1 Sơ lược hình thành và phát triển ... 41
2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ. ... 41
2.2. Thực trạng khó khăn của trẻ chậm phát triển ngơn ngữ ... 42
2.2.1 Khó khăn về kinh tế trong gia đình ... 42
2.2.2 Khó khăn trong diễn đạt ngơn ngữ ... 43
3.2. Tiến trình công tác xã hội cá nhân... 54
3.2.1. Giai đoạn 1: tiếp nhận thân chủ ... 54
3.2.2. Giai đoạn 2: Thu thập thông tin ... 55
3.2.3. Giai đoạn 3: Đánh giá và xác định vấn đề ... 56
3.2.4. Lập kế hoạch can thiệp ... 60
3.2.5. Triển khai các hoạt động trợ giúp thân chủ giải quyết vấn đề ... 61
2.1. Đối với Viện nghiên cứu và ứng dụng công nghệ giáo dục Atec ... 69
2.2. Đối với Đảng và Nhà nước ... 69
2.3. Đối với các bậc phụ huynh ... 69
2.4. Đối với NV CTXH ... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 71
PHỤ LỤC ... 73
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Biểu đồ 2. 1. Cha mẹ tìm đến ai khi con CPTNN ... 45
Biểu đồ 2. 2. Mức độ hài lòng của cha mẹ với hoạt động tham vấn tại trung tâm ... 47
Bảng 3. 1. Thành phần gia đình của bé Mint ... 55
Bảng 3. 2. Phân tích điểm mạnh và điểm yếu của thân chủ và hệ thống xung quanh ... 58
Bảng 3. 3. Kế hoạch can thiệp cho TC Y ... 60
Bảng 3. 4. Triển khai hoạt động trợ giúp thân chủ ... 61
Bảng 3. 5. lượng giá kết quả can thiệp ... 63
Sơ đồ 3. 1. Sơ đồ phả hệ của gia đình TC Y ... 56
Sơ đồ 3. 2. Sơ đồ sinh thái của gia đình TC Y ... 57
Sơ đồ 3. 3. Cây vấn đề về TC Y ... 59
CPTNN Chậm phát triển ngôn ngữ CTXH Công tác xã hội
NV CTXH Nhân viên công tác xã hội
TTK Trẻ tự kỷ
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>1. Lý do chọn đề tài </b>
Trong những năm gần đây, số lượng trẻ CPTNN ngày một tăng nhanh. Tại các Trung tâm, các trường chuyên biệt dạy trẻ tự kỷ (TTK) có một số lượng khơng ít những trẻ CPTNN đang được trị liệu ngơn ngữ với chương trình can thiệp chun biệt. Cứ 5 trẻ thì sẽ có một trẻ học nói và sử dụng ngôn ngữ chậm hơn các trẻ khác cùng độ tuổi. Ở lứa tuổi 2-3 tuổi, trẻ bình thường đã phát triển ngơn ngữ, có khả năng thấu hiểu ngôn ngữ. Trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp hàng ngày, để bộc lộ những điều bản thân mong muốn, để thể hiện các nhu cầu cá nhân. Bởi vậy, nếu trong độ tuổi này, trẻ chưa có ngơn ngữ, chậm hình thành ngơn ngữ thì đó là một vấn đề rất quan ngại. Một số trẻ còn gặp phải các vấn đề về hành vi vì cảm thấy thất vọng khi không thể diễn tả bằng lời những gì chúng cần hoặc muốn. Nếu trẻ bị chậm phát triển ngôn ngữ, chúng sẽ không đạt được các mốc phát triển về ngôn ngữ ở độ tuổi thông thường, phụ thuộc vào độ tuổi và bản chất của rối loạn.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra sự chậm nói và chậm phát triển ngơn ngữ. Trẻ chậm nói đơi khi là do những khiếm khuyết ở miệng như các vấn đề về lưỡi hay hở hàm ếch. Nguyên nhân cũng có thể do trẻ gặp các vấn đề về răng miệng, có nghĩa là thơng tin liên lạc tại các khu vực não chỉ huy vấn đề này kém hiệu quả. Đứa trẻ gặp khó khăn trong sử dụng và phối hợp giữa môi, lưỡi và hàm để tạo ra âm thanh lời nói. Lúc này, bé khơng chỉ gặp khó khăn trong vấn đề nói mà cịn gặp khó khăn trong một số hoạt động khác như ăn, uống.
Thời gian qua, dịch COVID-19 khiến một số địa phương phải đóng cửa các trường mầm non nhiều tháng qua. Trẻ phải giãn cách ở nhà không được đến trường, tiếp xúc với thiết bị điện tử như Ipad, điện thoại, tivi nhiều hơn. Chuyên gia tâm lý Vũ Thị Kim Thêu đang trực tiếp làm việc tại một Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em ở Hà Nội cho biết, tại trung tâm, mỗi ngày tiếp nhận khoảng 70 trường hợp tới khám và tư vấn qua điện thoại về rối loạn sức khỏe tâm thần thì có 90% có biểu hiện chậm nói. Số phụ huynh gọi điện tới Trung tâm tư vấn có con chậm phát triển ngơn ngữ rơi vào độ tuổi trung bình từ 15 tháng – 32 tháng. Trẻ chậm phát triển ngơn ngữ có nhiều ngun nhân nhưng các thiết bị điện tử có thể liên quan đến nguy cơ chậm nói và ít giao tiếp ở trẻ. Các thiết bị này như một "vú
em" thời hiện đại nhưng chúng là mơ hình tương tác một chiều, khơng phản ứng một cách phù hợp với hành vi của trẻ khiến trẻ khơng có tương tác lại.
Tại các trung tâm chuyên biệt hay các trưởng khuyết tật vị trí, vai trò của những NV CTXH chưa thực sự được chú ý và phát huy hết hiệu quả. Và trong CTXH mọi người cũng chưa chú trọng đến vấn đề trẻ chậm phát triển ngôn ngữ, mọi người thường tập trung vào hỗ trợ trẻ tự kỷ, trẻ tăng động giảm chú ý và trẻ khuyết tật. Tuy nhiên, đối với trẻ CPTNN thì NV CTXH có thể góp phần vào việc gắn kết các mỗi quan hệ với nhau (Các thàng viên trong gia đình trẻ, trẻ với cơ sở trị liệu) . Ngoài ra, ở mỗi một vị trí khác nhau thì NV CTXH sẽ đóng những vai trị khác nhau và giúp đem lại lợi ích cao nhất cho thân chủ của mình. Trong điều kiện thực tế ở nước ta việc trị liệu, hỗ trợ trẻ tự kỷ nói chung và trẻ CPTNN hịa nhập nói riêng, NV CTXH thưởng giữ vai trò vừa là một giáo viên chuyên biệt vừa là người hỗ trợ trẻ và gia đình trẻ.
Hiện nay, các nghiên cứu về chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ thường được nghiên cứu dưới góc độ tâm lý, y học hoặc ở góc độ giáo dục đặc biệt do quan niệm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ là trẻ khuyết tật mà có rất ít đề tài nghiên cứu trẻ chậm phát triển ngôn ngữ ở lĩnh vực Công tác xã hội. Trên phương diện giáo dục đặc biệt, tâm lý, y học đang chú trọng đến việc can thiệp, đánh giá, chuẩn đoán trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về việc hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ trong việc hỗ trợ giáo tiếp và ngơn ngữ dưới góc độ Cơng tác xã hội.
<i>Xuất phát từ những lý do lý luận và thực tiễn nêu trên, việc lựa chọn đề tài: “Công tác xã hội cá nhân với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ từ 2 tuổi đến 3 tuổi” để thấy được vai </i>
trò của NV CTXH khi làm việc với trẻ CPTNN.
<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>
<i><b>2.1 Mục đích nghiên cứu </b></i>
Tìm hiểu lý luận, đưa ra thực trạng hỗ trợ cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ, ứng dụng công tác xã hội cá nhân trong việc hỗ trợ về can thiệp, hòa nhập cho trẻ châm phát triển ngôn ngữ.
<i><b> 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn có liên quan đến trẻ chậm phát triển ngơn ngữ từ 2 đến 3 tuổi.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">- Phân tích thực trạng trẻ chậm phát triển ngơn ngữ từ 2-3 tuổi
- Ứng dụng CTXH cá nhân hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ từ 2 đến 3 tuổi.
<b>3. Tổng quan nghiên cứu </b>
<i><b>3.1. Các nghiên cứu nước ngoài </b></i>
Sự CPTNN trong 3 năm đầu đời có thể dẫn đến những khó khăn trong giao tiếp và xã hội hóa các hình tượng quan trọng của trẻ ở thời thơ ấu. Việc CPTNN là nguyên nhân chung khiến các bậc cha mẹ đi tìm lời khuyên từ các bác sĩ của gia đình hoặc từ các bác sĩ nhi khoa. Do sự giao tiếp ở con người là phức tạp, nên việc đánh giá và chẩn đốn những khó khăn của trẻ về ngơn ngữ và lời nói thường là vấn để có nhiều thách thức, đòi hỏi ý kiến của chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: ngôn ngữ học, thỉnh học, phát triển trẻ em, tâm lý học thần kinh, thần kinh học nhỏ và tâm thần học.
Ở những trẻ bình thường, khả năng nắm vững ngơn ngữ diễn ra theo 3 giai đoạn căn bản sau [22, tr.138]:
Giai đoạn tiền ngôn ngữ (từ 0 cho đến 12, 13 tháng, đôi khi là 18 tháng): bắt đầu từ những tiếng kêu khơng có ý nghĩa nào khác ngồi biểu đạt sự khó chịu về mặt sinh lý, dần dần những tiền đề của giao tiếp giữa trẻ và mơi trường xung quanh được hình thành. Trên thực tế, những tiếng kêu này biểu đạt một sắc thái cảm giác của trẻ đòi mẹ phải đáp ứng (giận dữ, đau đớn, bứt rứt, thỏa mãn, khoái cảm).
Giai đoạn ngôn ngữ của trẻ bé (từ 10 tháng đến 2 tuổi rưỡi 3 tuổi): những từ đầu tiên thường xuất hiện trong tình huống “lặp lời nói”, nghèo nàn về ý, nghĩa nhưng dễ phát âm. Vào khoảng 12 tháng tuổi, một đứa trẻ có thể học được 5 đến 10 từ; đến 2 tuổi, vốn từ vựng của trẻ có thể đạt đến 200 từ. Số lượng từ được tích lũy gia tăng theo độ tuổi. Việc hiểu bị động luôn xảy ra trước sự biểu đạt chủ động; có nghĩa là, trẻ có thể hiểu được một số lượng từ lớn hơn rất nhiều so với việc trẻ nói các từ. Ở giai đoạn “từ-câu”, trẻ dùng một từ mà ý nghĩa của nó phụ thuộc vào điệu bộ, cử chỉ hay hồn cảnh cụ thể. Ngơn ngữ luôn đi kèm với hành động, củng cố hành động, nhưng vẫn chưa thay thế được hành động. Khoảng 18 tháng tuổi, các câu đầu tiên xuất hiện; trẻ bắt đầu học nói phủ định. Ở giai đoạn này, vai trị của gia đình là rất quan trọng bởi nó là nơi trẻ được tắm mình trong “biển ngơn ngữ” và học nói ngơn ngữ. Nếu thiếu vắng sự tác động ngôn ngữ, vốn từ của trẻ trở nên nghèo nàn hoặc trẻ trở nên chậm trễ trong việc học nói.
Giai đoạn ngôn ngữ (bắt đầu từ 3 tuổi): là giai đoạn dài nhất và phức tạp việc nắm vững ngôn ngữ, được đánh dấu bởi sự phong phú cả về chất lượng và số lượng (khoảng từ 3 tuổi rưỡi đến 5 tuổi, trẻ có thể sở hữu 1.500 từ mà khơng phải lúc nào cũng biết chính xác ý nghĩa của từ). Đồng thời, ngôn ngữ dần trở thành phương tiện để hiểu biết, một sự thay thế kinh nghiệm trực tiếp. Sự rườm rà cùng với hành động và/hoặc cử chỉ, điệu bộ dần dần biến mất.
Nói cách khác, các rối loạn ngơn ngữ ở trẻ em thường đóng vai trị quan trọng cả về ý nghĩa lẫn lý do đến thăm khám của gia đình, đặc biệt là những gia đình có trẻ từ 4 đến 8 tuổi. Đây là giai đoạn trẻ học ngơn ngữ nói và chuẩn bị cho việc học đọc và học viết. Sự ảnh hưởng tới những tương tác giữa trẻ và mơi trường (gia đình, trường học, bạn bè) bỗng nhiên có thể xảy đến nếu các rối loạn trở nên nghiêm trọng và dẫn tới các khó khăn tâm lý khác nhau. Do đó rất khó kể đến các rối loạn phản ứng thứ phát và những khó khăn ban đầu.
Nghiên cứu về CPTNN ở trẻ em địi hỏi phải có một nền tảng kiến thức về sự phát triển ngơn ngữ bình thường, ở cả khía cạnh sinh lý thần kinh (cơ quan cấu âm, cấu trúc não, cơ quan thính giác bình thường) và khía cạnh tâm lý. Trong CPTNN, một mặt, các lỗi gặp phải là không cố định; mặt khác, mỗi âm vị có thể được phát âm chính xác nếu đứng một mình. Khi đối diện với những rối loạn về biểu đạt này, sự phản ứng của gia đình là rất quan trọng, hoặc yêu cầu trẻ nhắc lại một cách kiên trì, ngăn cản lời nói tự phát của trẻ, hoặc ngược lại không biết đến rối loạn này và để cho trẻ tiếp tục chậm phát triển ngôn ngữ. Trong các trường hợp trẻ CPTNN, người ta tìm thấy một sự kém tích hợp các âm vị khác nhau cấu thành nên một từ: số lượng, thuộc tính và sự nối tiếp của chúng có thể bị thay đổi. Khơng có ý nghĩa cho tới tận 5 tuổi, sự dai dẳng của việc kém tích hợp khi trẻ trên 5 tuổi báo hiệu một rối loạn về tích hợp và học lời nói, và cần thiết phải có một tiếp xúc trị liệu đối với trẻ. Về mặt lý thuyết, CPTNN không đi kèm những bất thường về cú pháp, mà thực tế, nó thường kết hợp với sự chậm ngôn ngữ.
Chậm ngôn ngữ đơn thuần được đặc trưng bởi sự tồn tại những rối loạn ngơn ngữ ở một đứa trẻ khơng có dấu hiệu chậm phát triển trí tuệ, cũng khơng có tật điếc nặng hoặc bị loạn thần. Cấu trúc câu, tổ chức củ pháp thường bị nhiễu loạn. Về mặt lâm sảng, yếu tố căn bản chính là việc chậm xuất hiện câu nói đầu tiên ở khoảng sau 3 tuổi, tiếp theo một giai
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">đoạn “nói theo kiểu trẻ sơ sinh” kéo dài. Theo nghiên cứu của Rescorla, Mirak & Singh (2000), số lượng từ trung bình được hình thành ở những trẻ chậm ngơn ngữ là 18 từ khi 2 tuổi, 89 từ khi 30 tháng tuổi và 195 từ khi 3 tuổi, ít hơn so với số lượng 150 đến 180 từ khi 2 tuổi ở những trẻ phát triển bình thường. Trong số những trẻ chậm ngơn ngữ/chậm nói ở 2 tuổi, nhiều trẻ có thể theo kịp các bạn cùng trang lứa (khoảng 70 – 80% trẻ theo Whitchouse, Robinson & Zubrick, 2011), trong khi những đứa trẻ khác, với số lượng ít hơn, tiếp tục gặp phải những khó khăn trong việc đạt được ngơn ngữ. Những bất thường được tìm thấy thường đa dạng: rối loạn trong trật tự các từ của một câu, các lỗi cấu trúc ngữ pháp, động từ dùng ở nguyên thể, khó khăn trong dùng đại từ nhân xưng. Người ta cũng tìm thấy sự bỏ sót từ, các lỗi liên kết, các từ ngữ phản quy tắc, ... Về mặt nguyên tắc, việc hiểu điều trẻ muốn diễn đạt khơng khó, nhưng việc đánh giá mức độ phát triển ngôn ngữ ở trẻ bé đơi khi khó khăn. [24]
Phần lớn các thuật ngữ được dùng để mơ tả những trẻ có rối loạn lời nói là: loạn khớp nổi chức năng và loạn phát triển âm vị, rối loạn đa âm vị, CPTNN... Theo một số tác giả, có hai dạng căn bản trong rối loạn lời nói ở trẻ mà cho đến giờ vẫn chưa tìm được nguyên nhân: đó là CPTNN và những lỗi dơi dư khơng chắc chắn, trong đó CPTNN có tính di truyền, cịn lỗi dôi dư không chắc chắn gia tăng do tác động của các biến môi trưởng, [21]. Trên thực tế, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về CPTNN ở trẻ trên khắp thế giới như Beitchman, Nair, Clegg, Patel (1986); St. Louis, Ruscello và Lundeen (1992); Silva, Justin, McGee và Williams (1984), [17:26]... Những phê phán về phương pháp luận bao gồm các vấn đề liên quan tới mẫu khách thể nghiên cứu, phương pháp đánh giá hoạt động lời nói, cũng như hệ thống và các tiêu chí phân loại trẻ có rối loạn lời nói có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Theo Beitchman và cs. (1986), “sự thiếu một hệ thống phân loại phổ quát về các rối loạn lời nổi và ngôn ngữ ... là một rào cản lớn đối với việc phát triển các đánh giá thường gặp hữu ích và chính xác" [17, tr.98]. Theo nghiên cữu của Shari Brand Robertson & Susan Ellis Weismer đối với nhiều trẻ, những chậm trễ trong phát triển ngôn ngữ thường đi kèm với sự thiếu hụt ở các lĩnh vực khác, như hệ thống cảm giác hoặc các năng lực nhận thức. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã nhận diện một nhóm trẻ trước tuổi tới trường, thường được mô tả trong các tổng quan nghiên cứu là “những trẻ nói chậm” (Rescorla, 1989), có những thiếu hụt xuất hiện ban đầu liên quan tới lĩnh vực ngôn ngữ. Tỷ lệ những trẻ
này được ước lượng chiếm khoảng 10-15% dân số[16]. Các nghiên cứu ở Mỹ, Canada, New Zealand và Anh được thực hiện trên trẻ từ 5 đến 8 tuổi. Kết quả của các nghiên cứu này cho thấy rằng CPTNN thường đi kèm với các thiếu hụt đặc hiệu về ngôn ngữ. Tỷ lệ trẻ CPTNN giảm dần theo độ tuổi: 11% ở trẻ 5 tuổi, 9,7% ở trẻ 6 tuổi, 6,5% ở trẻ 7 tuổi và chỉ còn 2-3% ở trẻ 8 tuổi, trong đó, tỷ lệ những trẻ sống ở thành thị bị CPTNN cao hơn những trẻ sống ở nông thôn. [17]
Một nghiên cứu của Ishikawa, Kajii, Sakuma & Saitoh (1982) trên 155 trẻ CPTNN ở Nhật cho thấy, về mặt bản chất, việc đánh giá tổng thể hiện tượng CPTNN ở trẻ liên quan đến các vấn đề về thần kinh, thính giác, xúc cảm và xã hội. Các trẻ này đều ở độ tuổi từ 3 đến 8 tuổi, tuy nhiên, phần lớn các trẻ khi được bố mẹ đưa đến thăm khám tại bệnh viện do nhiều nguyên nhân khác nhau thường là dưới 3 tuổi. Nguyên nhân chính khiến bố mẹ đưa con đến khám thường là chậm phát triển tâm thần hoặc không rõ bệnh căn, còn lại là các nguyên nhân khác như tự kỷ, nghe kém, hội chứng giảm chức năng não, ...), trong số này có những trẻ phát triển bình thường. Đối với những trẻ phát triển bình thường, khi xem xét tiểu sử sinh, các tác giả này phát hiện có 33% trường hợp CPTNN cho thấy những rắc rối ở thời kỳ thứ hai của thai kỳ (bị ngạt, hút chân không, cần nhẹ, ...).[20, tr. 57- 61].
Theo bảng phân loại bệnh DSM – IV của Hội tâm thần học Hoa Kỳ, một tương phản rõ ràng được rút ra giữa các rối loạn phát triển đặc hiệu và các rối loạn phát triển lan tỏa khi nói tới sự CPTNN và lời nói. Có hai đặc trưng quan trọng dẫn đến sự phân biệt này. Đặc trưng thứ nhất chính là đặc trưng về sự suy yếu: trong các rối loạn phát triển đặc hiệu, người ta tìm thấy sự suy yếu của một lĩnh vực cụ thể, trong khi các rối loạn phát triển lan tỏa cho thấy sự suy yếu ở nhiều vùng chức năng. Đặc trưng thứ hai đó là bản chất của sự suy yếu: rối loạn phát triển đặc hiệu có ngun nhân từ sự chậm phát triển chứ khơng phải từ sự bất thường, trong khi các rối loạn phát triển lan tỏa xuất phát từ những lệch chuẩn hành vi vốn khơng bình thường ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào. Theo cách phân biệt này, sự chẩn đốn về rối loạn phát triển ngơn ngữ đặc hiệu là thích hợp khi ngơn ngữ của trẻ chậm hơn so với độ tuổi, sự phát triển của trẻ vẫn diễn ra bình thường ở những lĩnh vực khác và khơng có yếu tố được quan sát thấy cho sự chậm ngơn ngữ (chẳng hạn mơi trường gia đình hồn tồn bất thường, chậm phát triển nói chung, mất thính giác hoặc tổn thương thần kinh). Các yếu tố nguy cơ gây ra CPTNN ở trẻ được một số tác giả liệt kê như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Chậm phát triển ngôn ngữ thường xuất hiện ở trẻ trai nhiều hơn ở trẻ gái: cứ 3, 4 trẻ trai CPTNN thì có một trẻ gái chậm phát triển ngơn ngữ. Tiểu sử gia đình của những trẻ CPTNN: 30% trẻ CPTNN có bố/mẹ CPTNN. Có khoảng 3% đến 10% trẻ CPTNN trong tổng dân số nói chung.[27, tr.297 – 324]. Trẻ chậm phát triển ngôn ngữ thường là những trẻ được sinh ra muộn hơn trong một gia đình lớn. Một số tác động về yếu tố y học cũng có thể ảnh hưởng đến sự CPTNN như bệnh viêm tai giữa, cân nặng tăng chậm, nhưng vẫn khơng có đủ bằng chứng chứng minh chúng là những yếu tố chính gây ra rối loạn phát quan triển ngơn ngữ đặc hiệu. Ngồi ra, cũng có những yếu tố liên đến gen di truyền trong gia đình và gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển ngơn ngữ của trẻ. Theo Vallée & Dellatolas trình độ văn hóa xã hội của gia đình cũng có ít nhiều ảnh hưởng tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ: mơi trường văn hóa xã hội thấp sẽ ít thuận lợi cho trẻ trong việc đạt được ngôn ngữ, và vì thể, có thể được xem như một yếu tố nguy cơ cao [15]. Thêm nữa, trong nghiên cứu của mình, Maillart và các đồng nghiệp đã khẳng định rằng cha mẹ có vai trị quan trọng đối với sự nắm vững ngôn ngữ ở trẻ. Chắc chắn hành vi ngôn ngữ của những trẻ này kéo theo sự mất cân bằng trong các trao đổi giữa người lớn và trẻ; do đó, sẽ làm giảm thiểu năng lực học tập của trẻ [20].
Bên cạnh đó là cả yếu tố mơi trường cũng có tác động tới việc CPTNN ở trẻ. Những khó khăn về lời nói thường tương đối dễ nhận biết, nhưng lại đòi hỏi phải có các chuyên gia đánh giá. Ở trẻ trước tuổi đến trường, các bệnh lý về ngơn ngữ nói tạo nên một nhóm tương đối lớn trong số các rối loạn phát triển nhận thức; nó chiếm tỷ lệ từ 2% đến 12%. Ở đây cần phân biệt nhóm rối loạn này với các rối loạn phát triển phân ly (hoặc rối loạn đặc hiệu, hoặc chứng khó đọc, viết) và các rối loạn thứ phát (như trong một hồn cảnh nhất định, đó là rối loạn cảm xúc thần kinh có nguồn gốc trước, trong và sau sinh, hoặc từ các dạng châm phát triển hoặc thiếu hụt cảm giác). [21, tr.1461-1481]
Ở những trẻ nhỏ, sự chẩn đốn sai biệt này có thể khó hình thành. Trên thực tế, đối với phần lớn trẻ, và theo một cách hồn tồn bình thường, việc nắm vững ngơn ngữ khơng phải là một q trình phát triển liên tục; nó bao gồm những bước tiến triển, bước thụt lùi, những giai đoạn tăng trưởng lúc nhanh, lúc chậm và thường bao gồm cả những thoái lui, là kết quả của “việc làm ổn định có lựa chọn các khớp nối” [19, tr. 268 – 293].
Theo một nghiên cứu mới đây về trẻ CPTNN, cha mẹ cần chú ý rằng trẻ không theo kịp bạn bè cùng tuổi là do bởi hiện tượng thiểu năng ngôn ngữ kéo dài liên quan tới các vấn đề sức khỏe tâm thần. Andrew Whitehouse và đồng nghiệp tại Đại học Tây Úc (2011) đã theo dõi những trẻ CPTNN cho đến tuổi thiếu niên và nhận thấy rằng những đứa trẻ này không còn cảm thấy e thẹn, trầm cảm hay hung hăng so với bạn bè cùng trang lứa khi chúng lớn lên. Theo nhóm nghiên cứu này, “Hiện tượng chậm diễn đạt bằng từ vựng khi trẻ lên hai tuổi không phải là một yếu to nguy cơ gây ra những vấn đề rắc rối về hành vi và cảm xúc sau này”. Điều này đồng nghĩa với phương pháp tiếp cận “chờ xem” có thể mang lại những kết quả tốt đẹp với những bé CPTNN nếu chúng phát triển bình thường trong các lĩnh vực khác. Trong một số kiểu tự kỷ, các rối loạn hành vi như rối loạn ngơn ngữ có thể xuất hiện muộn chỉ vào khoảng 2 đến 3 tuổi, dưới dạng một thoái lui những thành tích đạt được. Một yếu tố sai biệt quan trọng nằm trong khái niệm khoảng trống; cho phép tách biệt một mặt là những trẻ mà ngôn ngữ và thậm chí là cả tiền ngơn ngữ đã sai lệch ngay từ đầu, [21]; mặt khác là những trẻ mà ngơn ngữ cho thấy tình trạng hư hại, thậm chí là đứt gãy q trình nắm vững ngơn ngữ, diễn ra đột ngột và thường có nguồn gốc thương tổn. Phần lớn các rối loạn ngôn ngữ xuất hiện sau khoảng trống được hình thành bởi một nhóm các chứng mất ngôn ngữ ở trẻ [19], [24].
Khoảng 7 – 18% trẻ em bị CPTNN lúc hai tuổi, mặc dù đến tuổi bắt đầu đi học, hầu hết trẻ trong diện này sẽ theo kịp bạn bè. Một số nghiên cứu cho rằng những bé CPTNN có thể gặp các vấn đề tâm lý. Tuy nhiên, việc các vấn đề này có ảnh hưởng tới tương lai trẻ hay khơng vẫn cịn chưa được xác định rõ. Nhóm nghiên cứu của Whitehouse đã tiến hành theo dõi hơn 1400 trẻ hai tuổi. Bố mẹ chúng đã điền một phiếu khảo sát về những từ ngữ trẻ tự nói ra. Theo Whitehouse và cộng sự, những dấu hiệu cho thấy nguyên nhân những trẻ CPTNN hơn có các vấn đề về hành vi ở giai đoạn đầu đời có lẽ là do chúng cảm thấy thất vọng vì khơng thể giao tiếp hiệu quả, chứ khơng phải do chúng có vấn đề về sức khỏe. Trong mọi trường hợp, giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi đánh dấu nguy cơ cắm chốt các rối loạn ngôn ngữ. Để đánh giá và can thiệp trị liệu các trường hợp CPTNN ở trẻ, phần lớn các tác giả đều đề cập đến các thang đo, trắc nghiệm đánh giá mức độ phát triển ngôn ngữ ở trẻ như: thang phát triển ngôn ngữ Bristol, trắc nghiệm Vineland, bảng tổng kê sự phát triển giao tiếp của McArthur...
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Đã có những nghiên cứu về trẻ chậm phát triển ngơn ngữ như: những yếu tố ảnh hưởng, nguyên nhân dẫn đến trẻ chậm phát triển ngôn ngữ, các dấu hiệu, đặc điểm của trẻ CPTNN;… Tuy nhiên, vẫn chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về công tác xã hội đối với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ mà mới chỉ có vai trị của NV CTXH trong mơi trường giáo dục đặc biệt hoặc trong mơi trường hồ nhập đặc biệt.
<i><b>3.2. Các nghiên cứu trong nước </b></i>
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, theo các thống kê chưa đầy đủ, xu hướng trẻ CPTNN có chiều hướng gia tăng mạnh, đặc biệt ở các thành phố lớn. Tại các bệnh viện Nhi, số trẻ CPTNN, mắc bệnh tự kỷ hoặc tăng động giảm chú ý phải điều trị bán trú thường xuyên rơi vào tình trạng quá tải, cao gấp đôi so với quy định. Ở các bệnh viện tai mũi họng, lượng bệnh nhi CPTNN cũng khá cao, khoảng 100 trẻ/tháng, trong đó, 30% trường hợp bị CPTNN do yếu tố tâm lý.
Khi trẻ CPTNN, các bậc cha mẹ thường chủ quan, không đưa con đến các cơ sở y học - tâm lý để thăm khám và điều trị, mà tự ứng phó bằng những phương thức cá nhân. Các phương thức ứng phó tâm lý được các bậc cha mẹ sử dụng nhiều nhất khi con CPTNN là: Cho rằng con chỉ nói chậm hơn các bạn chút thơi, trước sau con cũng sẽ nói được nên để con tự phát triển. Mời chuyên gia về dạy nói cho con và trơng cậy tồn bộ vào các chun gia. Khi con bị CPTNN, nhiều bố mẹ thường tin vào những ý nghĩ nguyện ước. Cầu nguyện hoặc tín ngưỡng cũng được xem như những chiến lược ứng phó. Niềm tin tơn giáo cũng có liên quan rõ rệt đến việc sử dụng phương thức ứng phó tích cực. Cần phải tăng cường nhận thức, tìm kiếm thơng tin: phương thức này làm tăng thêm thông tin, giúp bố mẹ nâng cao kiến thức về y học, thường rất hiển nhiên tập trung xoay quanh chẩn đoán về bệnh của đứa trẻ. Hoặc bố mẹ thường tự quy gán bệnh cho con như: bị tự kỷ, tăng động,…
Đối với các nhà chuyên môn Việt Nam, Chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ em được chia thành hai loại, CPTNN đơn thuần và CTNN tự kỷ. Chậm phát triển ngôn ngữ đơn thuần là chứng suy giảm ngôn ngữ và khả năng phát triển ngôn ngữ khá phổ biến ở trẻ em. Cịn trẻ tự kỷ thường bị chậm ngơn ngữ, không hiểu ngôn ngữ, sống với một thế giới riêng, tách biệt với thế giới xung quanh. Chậm phát triển ngôn ngữ là một trạng thái rối nhiễu tâm lý thường để lại nhiều hậu quả; đồng thời, ở một góc độ nào đó, chứng CPTNN ở trẻ gửi tới người lớn một thơng điệp ngầm ẩn về những khó chịu, về sự đau khổ tâm trí mà trẻ đang
phải chịu đựng. Mặc dù trẻ CPTNN có trí tuệ phát triển bình thường, nhưng do khơng thể biểu hiện hay bộc lộ ra bằng ngôn ngữ thông thường nên dễ cáu giận và căng thẳng. Sự thiếu hụt chăm sóc và những giao tiếp hàng ngày của bố mẹ với trẻ được xem là nguyên nhân hàng đầu về mặt tâm lý dẫn tới việc CPTNN ở trẻ em [8].
Giống như mọi dạng khuyết tật khác, nguyên nhân của CPTNN tương đối khó nhận dạng. Tuy nhiên, khi đánh giá y khoa những trẻ này, các bác sĩ tìm hiểu quá trình người mẹ mang thai cũng như sự phát triển của trẻ và tìm ra những yếu tố bất thường. Có trẻ CPTNN vốn là một đứa trẻ được sinh non, có trẻ do bị sốt cao co giật, bị ngã chấn thương hoặc bị bất cứ một vấn đề gì gây rối loạn, tổn thương thực thể (vỏ não, hoặc cơ quan phát âm “tai, mũi, họng”), thiếu vắng giao tiếp hai chiều trong giai đoạn từ 0 -2 tuổi [9] ...
Bên cạnh đó, có nhiều yếu tố tác động khác khiến cho quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ chậm lại: Trẻ xem ti vi q nhiều, bố mẹ ít nói chuyện với con, khiến cho trẻ chỉ nhận thơng tin một chiều, khơng có sự phản hồi lại những thông tin nhận được từ ti vi, như vậy trong một thời gian dài sẽ làm trẻ CPTNN; Trẻ suy dinh dưỡng, thiếu tình thương của bố mẹ, trẻ bị ngược đãi; Bố mẹ phó mặc con cho người giúp việc, vì lo làm cơng việc trong nhà nên khơng có thời gian trị chuyện với trẻ, trẻ khơng có cơ hội được nói; Trẻ bị tách ra khỏi mơi trường xung quanh, khơng có cơ hội giao lưu, bắt chước; Trẻ xuất thân từ gia đình có “truyền thống” chậm phát triển ngơn ngữ.
Thực trạng chẩn đoán bệnh cho trẻ em khuyết tật tinh thần nói chung và trẻ em CPTNN nói riêng ở Việt Nam cịn mang tính hình thức, mang tính kinh nghiệm và chưa chính xác. Các cơng cụ chẩn đốn mới chỉ dựa vào một số trắc nghiệm có sẵn, chủ yếu là trắc nghiệm Denver – trắc nghiệm đo sự phát triển tâm vận động ở trẻ. Test Denver là công cụ nhằm đánh giá sự phát triển toàn diện của trẻ so với thang tuổi của trẻ dựa trên 4 lĩnh vực: (1) Cá nhân → xã hội → (2) Vận động tinh tế →(3) Ngôn ngữ →(4) Vận động thô sơ. Với trẻ CPTNN mà khả năng nhận thức của trẻ như những trẻ bình thường ta chỉ cần đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở lĩnh vực thứ 3: ngôn ngữ để xác định lại mức độ và vấn đề của trẻ.[10]
Theo chuyên viên tâm lý Lê Khanh - Biên soạn theo tài liệu của Gs. Nguyễn Văn Thành – Thụy Sĩ có 12 nguyên tắc cơ bản mà các bậc phụ huynh tùy theo tình trạng chậm nói của trẻ có thể áp dụng:
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><i>1. Giúp trẻ xây dựng mối quan hệ gắn bó 2. Giúp trẻ bày tỏ nhu cầu </i>
<i>3. Giúp trẻ tham gia các hoạt động Tâm vận động </i>
<i>4. Trò chơi “Bập bẹ - líu lo” vận dụng các cơ quan phát âm của trẻ 5. Lặp lại một số âm thanh và từ ngữ có trong ngơn ngữ bình thường </i>
<i>6. Giúp trẻ biết cách lắp ráp, kết hợp và sắp xếp các dụng cụ, hình ảnh và ngôn từ lại với nhau </i>
<i>7. Giúp trẻ nghe và hiểu một số từ thông thường, qua việc thi hành những mệnh lệnh đơn sơ </i>
<i>8. Giúp trẻ gọi tên từ 25 – 100 đồ dùng và các hoạt động thường ngày 9. Giúp trẻ hiểu biết và nói về các hoạt động trong gia đình </i>
<i>10. Biết trả lời các câu hỏi </i>
<i>11. Giúp trẻ nhận biết và sử dụng chữ và số </i>
<i>12. Xây dựng mối quan hệ tốt và giúp trẻ biết chơi đùa với bạn bè. </i>
Việc chẩn đoán phân biệt chưa được xem trọng nên đôi khi những trẻ chỉ CPTNN do thiếu hụt môi trường giao tiếp hai chiều ở giai đoạn từ 0 đến 2 tuổi đã có thể bị liệt kê vào tình trạng của trẻ tự kỷ. Việc CPTNN ở trẻ gây những lo lắng khơng nhỏ cho gia đình và ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển tâm lý của trẻ. Thêm nữa, các nghiên cứu ở góc độ khoa học tâm lý về trẻ chậm phát triển ngôn ngữ hiện nay chưa nhiều và thường dùng ở góc độ các nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt do quan niệm trẻ CPTNN là trẻ khuyết tật.
Việc CPTNN ở trẻ gây những lo lắng khơng nhỏ cho gia đình và ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển tâm lý của trẻ. Thêm nữa, các nghiên cứu ở góc độ khoa học tâm lý về trẻ chậm phát triển ngôn ngữ hiện nay chưa nhiều và thường dùng ở góc độ các nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt.
<b>4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu </b>
<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>
- Công tác xã hội cá nhân với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ từ 2 - 3 tuổi
<i><b>4.2. Khách thể nghiên cứu </b></i>
- 25 trẻ chậm phát triển ngôn ngữ ở Viện nghiên cứu và Ứng dụng cộng nghệ giáo dục ATEC
- 6 người nhà của trẻ - 3 Giáo viên can thiệp - 2 NV CTXH
<b>6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn </b>
<i><b>6.1. Đóng góp về mặt lý luận </b></i>
Nghiên cứu đưa ra cách tiếp cận mới trong việc đánh giá tầm quan trọng của Công tác xã hội cả nhân trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ giao tiếp cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ. Cung cấp bằng chứng khoa học thực nghiệm, là bước đệm cho các nghiên cứu về trẻ chậm phát triển và những nghiên cứu liên quan đến chậm phát triển ngôn ngữ của trẻ ở Việt Nam. Đề tài góp vào những tài liệu và xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về Công tác xã hội cá nhân đối với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ (về các khái niệm, định nghĩa có liên quan đến đề tài như khái niệm về Cơng tác xã hội nói chung và Cơng tác xã hội cá nhân nói riêng, khái niệm chậm phát triển ngơn ngữ,...) sinh viên có thể tham khảo đồng thời một lần nữa khẳng định lại vai trị của ngành Cơng tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ em chậm phát triển ngôn ngữ từ 2-3 tuổi tại Viện nghiên cứu và ứng dụng công nghệ giáo dục ATEC.
<i><b>6.2 Đóng góp về mặt thực tiễn </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Kết quả nghiên cứu phản ánh cụ thể mức độ, thực trạng trẻ em chậm phát triển ngôn ngữ và các hoạt động của Viên nghiên cứu và ứng dụng công nghiên giáo dục ATEC. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, dự báo những xu hưởng về việc đảm bảo chăm sóc trẻ em chậm phát triển ngơn ngữ dưới góc độ Cơng tác xã hội. Nhân viên Công tác xã hội không chỉ hỗ trợ về mặt tâm lý mà cịn có vai trị quan trọng hơn hết là hướng dẫn cho gia đình của trẻ cách chơi và dạy học cho trẻ để trẻ sớm trở lại bình thường như những trẻ khác.
<b>7. Câu hỏi nghiên cứu </b>
<i><b>7.1. Thực trạng trẻ chậm phát triển ngôn ngữ trong độ tuổi từ 2 đến 3 tại các trung tâm </b></i>
can thiệp và viện nghiên cứu gặp những khó khăn nào ?
<i><b>7.2. Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến quá trình can thiệp cho trẻ chậm phát triển </b></i>
ngôn ngữ từ 2-3 tuổi của NV CTXH tại các trung tâm?
<i><b>7.3. Ứng dụng công tác xã hội trong việc hỗ trợ cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ </b></i>
trong độ tuổi từ 2 đến 3 có hiệu quả khơng?
<b>8. Giả thuyết nghiên cứu </b>
<i><b>8.1. Trong quá trình can thiệp trẻ sẽ gặp khó khăn trong việc diễn đạt ngơn ngữ, về </b></i>
tâm lý và kinh tế gia đình.
<i><b>8.2. Yếu tố ảnh hưởng đến trẻ chậm phát triển ngôn ngữ từ 2-3 tuổi có hai yếu tố </b></i>
chính: yếu tố chủ quan (Các bệnh thực thể, thính giác) và yếu tố khách quan (yếu tố môi trường sống).
<i><b>8.3. Ứng dụng công tác xã hội trong việc hỗ trợ cho trẻ chậm phát triển ngôn ngữ </b></i>
trong độ tuổi từ 2 đến 3 cóhiệu quả trước và sau khi hỗ trợ can thiệp.
<b>9. Phương pháp nghiên cứu </b>
<i><b>9.1 Phương pháp phân tích tài liệu </b></i>
Thu thập và phân tích các thơng tin, tài liệu liên quan như sách, báo, tạp chí, các nghiên cứu liên quan đến CPTNN ở trẻ. Những chính sách, đề án, văn bản pháp luật, tài liệu về nội dung hỗ trợ trẻ CPTNN. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp các khái niệm công cụ CPTNN ở trẻ. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến CPTNN ở trẻ và đề xuất các biện pháp can thiệp Công tác xã hội cá nhân.
<i><b>8.2. Phương pháp quan sát </b></i>
Quan sát hành vi, kỹ năng, tương tác của trẻ với mọi người xung quanh (cụ thể là bạn học và cô giáo) khi tham gia các hoạt động học tập, vui chơi trong môi trường mẫu giáo, trung tâm can thiệp để phát hiện khả năng giao tiếp, tương tác của trẻ.
<i><b>8.3. Phương pháp phỏng vấn </b></i>
Phỏng vấn trực tiếp nhằm tìm kiếm những thơng tin chi tiết và sâu, được thực hiện cùng một lúc với nhiều người theo một bảng hỏi bán cấu trúc. Người được hỏi trả lời trực tiếp và trao đổi với người phỏng vấn về những vấn đề liên quan đến cuộc sống và khó khăn của trẻ CTPNN.
<i><b>8.4. Phương pháp công tác xã hội cá nhân </b></i>
Sử dụng phương pháp CTXH cá nhân với 7 bước nhằm đẩy nhanh quá trình can thiêp điều trị cho trẻ từ đó rút ngắn con đường hịa nhập cộng động cho trẻ.
Giai đoạn 1: Tiếp nhận thân chủ Giai đoạn 2: Thu thập thông tin
Giai đoạn 3:Đánh giá và xác định vấn đề Giai đoạn 4: Lập kế hoạch can thiệp/hỗ trợ
Giai đoạn 5: Triển khai các hoạt động trợ giúp thân chủ giải quyết vấn đề Giai đoạn 6: Lượng giá
Giai đoạn 7: Kết thúc ca
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Hiệp hội công tác xã hội quốc tế và các trường đào tạo công tác xã hội quốc tế (2011)
<i>thống nhất một định nghĩa về công tác xã hội như sau: “Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. Công tác xã hội sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với với môi trường sống.” </i>
<i>Cố Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh: “CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng tự giúp. Nó khơng phải là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự giải quyết vấn đề của mình.” </i>
Đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: “CTXH góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến”.
Qua các khái niệm trên chúng ta có thể hiểu rằng cơng tác xã hội chính là một nghề và đối tượng của nó chính là các hoạt động xã hội đặc thù nhằm giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng ngăn chặn, khơi phục các chức năng bị suy thối, đồng thời chính họ tự vươn lên để giải quyết các vấn đề đã và đang đặt ra của mình, từ đó hồ nhập với cộng đồng xã hội.
<i><b>1.1.2. Công tác xã hội cá nhân </b></i>
CTXH cá nhân là một trong những phương pháp cơ bản của CTXH. Công tác xã hội cá nhân xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển cơng tác xã hội cả trên phương diện lý thuyết và thực tế. CTXH với cá nhân bắt đầu được thực hiện từ nửa sau của thế kỷ XIX và không ngừng được bổ sung hoàn thiện cho đến ngày nay.
Đối tượng tác động của công tác xã hội với cá nhân là những cá nhân hoặc gia đình có vấn đề xã hội. Đây là những người có hồn cảnh khó khăn, gặp rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống, bị yếu thế trước xã hội; những người nghèo đói, thất nghiệp; người bị khuyết tật; người già, người cô đơn; trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, sống lang thang, bị ngược đãi, bị lạm dụng tình dục, lạm dụng sức khoẻ, bóc lột sức lao động; phụ nữ bị bạo hành, bất bình đẳng trong gia đình và xã hội; người bị nhiễm các dịch bệnh hiểm nghèo; người nghiện ma tuý, hành nghề mại dâm, tội phạm xã hội,...
<i><b>1.1.3. Trẻ em </b></i>
Dưới góc độ tâm lý học, trẻ em là khái niệm được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người. Sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ em giai đoạn từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì là một trong những nội dung quan trọng trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Theo đó, tâm lý học phân chia lứa tuổi trẻ em thành các giai đoạn khác nhau, ứng với sự phát triển và tiếp thu nhận thức khác nhau: Tuổi sơ sinh, tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thành niên mới lớn.
Về mặt sinh học, trẻ em là con người ở giữa giai đoạn từ khi sinh ra và tuổi dậy thì. Trẻ em cũng có thể được hiểu trong mối quan hệ gia đình với bố mẹ (như con trai và con gái ở bất kỳ độ tuổi nào) hoặc, với nghĩa ẩn dụ, hoặc thành viên nhóm trong một gia tộc, bộ lạc, hay tơn giáo, nó cũng có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi một thời gian, địa điểm cụ thể, hoặc hoàn cảnh, như trong "một đứa trẻ vô tư" hay "một đứa trẻ của những năm sáu mươi ".
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ tuổi. Ở Việt Nam, khái niệm trẻ em chính thức được đề cập trong Pháp lệnh Bảo vệ chăm sóc sức khỏe
<i>gia đình trẻ em năm 1979: “Trẻ em nói trong Pháp lệnh này gồm các em từ mới sinh đến </i>
15 tuổi” (Điều 1). Sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC), Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em năm 1991, trong đó quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
Trẻ em là người chưa đạt được đến sự phát triển đầy đủ về mặt thể chất, tinh thần; nhận thức và nhân cách để được coi là người lớn. Trẻ em sẽ được xã hội quan tâm, tạo điều kiện bảo vệ, ni dưỡng, chăm sóc để phát triển một cách toàn diện. Người dưới 16 tuổi được coi là trẻ em.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><i><b>1.1.4. Ngôn ngữ </b></i>
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chính của con người, có thể tồn tại ở dạng lời nói, ký hiệu hoặc chữ viết. Nhiều ngơn ngữ sở hữu hệ chữ viết có chức năng ký âm hoặc ký hiệu lời nói để sau này có thể kích hoạt lại. Có thể biết rằng ngôn ngữ là một hệ thống các dấu hiệu mà chúng ta sử dụng để giao tiếp với nhau. Các dấu hiệu là lời nói, âm thanh, ngơn ngữ cũng có các ký hiệu viết là bảng chữ cái mà chúng ta sử dụng khi viết. Do đó, giao tiếp, trong bất kỳ ngơn ngữ nào, chỉ có thể thực hiện được nhờ các ký hiệu ngôn ngữ hoạt động theo một số quy tắc và quy ước.
<i><b>1.1.5. Khái niệm chậm phát triển ngôn ngữ </b></i>
Phát triển ngơn ngữ của trẻ chính là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng giao tiếp sau này của trẻ nhỏ. Tiến trình phát triển ngơn ngữ của trẻ có những giai đoạn được coi là “thời điểm vàng” nổi trội đó là giai đoạn từ 2-3 tuổi. Ở thời điểm này, việc tiếp nhận, hình thành năng lực ngơn ngữ ở trẻ diễn ra mạnh mẽ với các mốc “tiền ngôn ngữ”, “từ vựng thành câu”,… Trẻ có thể phát triển ngơn ngữ sớm hơn hoặc chậm hơn chút so với độ tuổi. Tuy nhiên, vẫn có những cột mốc chung để đánh giá sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ.
<i><b>Bảng 1. 1. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 8-42 tháng tuổi </b></i>
<b>Giai đoạn tuổi Đặc điểm </b>
<b>8-12 tháng </b> Dùng cử chỉ, điệu bộ và phát ra âm thanh để biểu hiện ý muốn: đòi các đồ vật hoặc hành động, từ chối, trò chơi, giao tiếp Thường bộc lộ các hành động hành vi giao tiếp với tần suất đến 2,5 lần/phút khi chơi tự do
<b>12-18 tháng </b> Bắt đầu dùng từ thay cho hành vi cử chỉ để biểu hiện ý muốn tháng
Tần suất khi chơi tự do lên đến 5 lần/phút
<b>18-24 tháng </b> Từ ngữ sử dụng trong giao tiếp tăng lên trong việc dùng cử chỉ, điệu bộ
Diễn tả được nhiều mục đích mới dạng đề nghị/cầu khiển và trả lời câu giảm xuống
Tần suất hành vi giao tiếp khi chơi tự do lên đến khoảng 7,5 lần/phút
<b>24-30 tháng </b> Bước đầu biết cách đề nghị khéo léo (Ví dụ: nài nỉ... đi bố) Hướng đến thêm những mục đích mới như chơi với biểu tượng, nói với đồ vật vắng mặt tháng
Kể về sự vật, sự việc gọi tên — mô tả
<b>30-36 tháng </b> Biết nêu yêu cầu để người khác giải thích lại Việc sử dụng ngơn trong vui chơi tăng lên tháng
Kể chuyện theo chủ đề nhưng không giữ được cốt chuyện
<b>36-42 tháng </b> Linh hoạt hơn trong thể hiện đề nghị, biết xin phép và đề nghị một cách gián tiếp; kiểu yêu cầu trực tiếp giảm xuống
Kể chuyện theo chủ đề và ít nhiều biết sắp xếp các chi tiết theo trật tự thời gian
<i><b>( Nguồn: Luận văn thạc sĩ- Tạ Thị Ngọc Bích) </b></i>
<i><b>Bảng 1. 2. Sự phát triển nội dung ngôn ngữ của trẻ từ 8-42 tháng tuổi </b></i>
<b>Giai đoạn tuổi Đặc điểm 8-12 tháng </b> Hiểu từ 30 – 50 từ;
Những từ đầu tiên dùng để chỉ người và đồ vật thân quen; trị chơi giao - tiếp và rập khn; nói về sự xuất hiện, biến mất và trở lại.
<b>12-18 tháng </b> Có vốn từ diễn đạt từ 50 – 100 ở 18 tháng tuổi
Hiểu và diễn đạt câu tiếng một về chủ thể, hành động, đối tượng, vị trí, sở hữu, sự loại bỏ, sự biến mất, sự không tồn tại, sự từ chối
<b>18-24 tháng </b> Có vốn diễn đạt 20 – 300 ở 24 tháng tuổi
Diễn đạt các mối quan hệ phổ biến: chủ thể – hành động, chủ thể – đối tượng, hành động – đối tượng, hành động – vị trí, thực
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">thể – vị trí, chủ sở - hữu — sở hữu, chỉ định – thực thể, thuộc tính – thực thể
<b>24-30 tháng </b> Hiểu và sử dụng câu hỏi về đối tượng (cái gì?), con người (ai?) và các sự kiện chính (X đang làm gì?X đang đi đâu?)
<b>30-36 tháng </b> Hiểu và sử dụng câu hỏi tại sao 30-36 Hiểu và sử dụng các từ chỉ vị trí trong khơng gian (trong, ngoài, trên, dưới...)
<b>36-42 tháng </b> Hiểu và sử dụng các câu kế tiếp nhau có mối quan hệ thời gian, nhân quả, tháng đối lập
Hiểu các từ chỉ màu sắc cơ bản
Hiểu và sử dụng các từ thuộc cùng một lớp
<i><b>( Nguồn: Luận văn thạc sĩ- Tạ Thị Ngọc Bích) </b></i>
CPTNN ở trẻ em được chia thành hai loại, chậm phát triển ngôn ngữ đơn thuần và chậm phát triển ngôn ngữ tự kỷ.Hiện tượng chậm phát triển ngôn ngữ đơn thuần là do bị rối loạn trong phát triển ngôn ngữ. Chậm phát triển ngôn ngữ đơn thuần là khi trẻ gặp khó khăn trong việc hiểu hoặc sử dụng ngơn ngữ nói. Những khó khăn này là bất thưởng với lứa tuổi của trẻ. Những khó khăn có thể là với phản ứng với ngơn ngữ, hiểu từ hoặc câu, nói những từ đầu tiên hoặc học từ; ghép các từ lại với nhau để tạo thành câu, xây dựng vốn từ vựng. Trẻ có thể CPTNN nếu khơng đạt được các mốc phát triển ngôn ngữ theo các mốc phát triển truyền thống. Khả năng ngơn ngữ của trẻ có thể phát triển với tốc độ chậm hơn so với hầu hết trẻ cùng trang lứa. Trẻ có thể gặp khó khăn khi thể hiện bản thân hoặc hiểu người khác. Sự chậm trễ này có thể liên quan đến sự kết hợp của suy giảm khả năng nghe, nói và nhận thức.
Còn trẻ tự kỷ thường bị chậm phát triển ngôn ngữ, không hiểu ngôn ngữ, sống với một thế giới riêng, tách biệt với thế giới xung quanh. Trẻ ít cử chỉ, ít giao tiếp bằng mắt, không làm theo hướng dẫn, chỉ thích làm theo ý mình. Trẻ khơng để ý đến người xung quanh mà chỉ gắn bó với đồ vật hơn và có thể trẻ sẽ sợ người lạ, nơi lạ. Ở trẻ lớn hơn biểu hiện ít hịa nhập, khó khăn khi giao tiếp, học tập các mơn xã hội. Trường hợp này có rất nhiều vấn đề phúc tạp phải can thiệp trên nhiều lĩnh vực và đòi hỏi phải kết hợp nhiều
chuyên gia trong quá trình can thiệp và trị liệu thương kéo dài, phúc tạp. Vì vậy trong trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi xin lựa chọn làm với trẻ CPTNN đơn thuần.
<i><b>1.1.6. Đặc điểm tâm lý của trẻ từ 2-3 tuổi </b></i>
Trong giai đoạn phát triển tâm lý trẻ 2 – 3 tuổi , trẻ rất tò mò về các sự vật xung quanh. Trẻ sẽ bắt đầu hành trình khám phá của mình thơng qua các trị chơi. Bằng những trị chơi đa dạng và ngày càng mang tính phức tạp, trẻ bắt đầu hiểu được thế nào là kích thước, hình dạng, âm thanh và sự vận động của các sự vật. Thơng qua đó, các vận động tinh và vận động thô cùng với các khả năng quan sát, tưởng tượng của trẻ được kích thích phát triển vượt bậc.
Khả năng nhận thức và học hỏi trẻ từ 2 tuổi trở đi rất cao và mang tính tổng quát. Trẻ đặc biệt nhanh nhạy trong việc quan sát và bắt chước lời nói, hành vi, thái độ của mọi người xung quanh. Những điều trẻ học hỏi từ người lớn chính là những hiểu biết ban đầu của trẻ về thế giới. Do đó, ba mẹ và thầy cô nên cân nhắc các hành vi, lời nói và tình cảm của mình để làm gương cho trẻ.
Thêm vào đó, tâm lý trẻ 2 – 3 tuổi cịn có những đặc điểm nổi bật khác. Trẻ nghĩ rằng ba mẹ "đọc được suy nghĩ" của mình. Trẻ gặp khó khăn trong việc phân biệt giữa thực tế và tưởng tượng, những giấc mơ, phim ảnh. Trẻ thường viết nguệch ngoạc với nhiều nét vẽ khác nhau nhưng còn non yếu và phần lớn chưa thành hình ảnh cụ thể.
Những mốc phát triển quan trọng mà trẻ cần đạt ở độ tuổi này như sau:
<i><b>Về nhận thức: trẻ bắt đầu có nhận thức, lựa chọn và phân loại được đồ vật theo hình </b></i>
dáng và màu sắc; có thể gọi tên được sự vật xuất hiện trong sách; thực hiện được các yêu cầu đơn giản gồm 2 - 3 bước; thao tác được với các bộ phận trên đồ chơi cũng như sử dụng tay thường xuyên.
<i><b>Về xã hội: trẻ bắt chước theo người lớn; bắt đầu cảm thấy vui vẻ khi ở cùng với các </b></i>
bạn đồng trang lứa; tính tự lập được thể hiện rõ; đơi khi có hành vi thách thức khi khơng được làm điều trẻ muốn; bộc lộ một loạt các cảm xúc rõ ràng hơn.
<i><b>Về ngơn ngữ: trẻ biết nói các câu đơn giản từ 2 - 4 từ; lặp lại được các từ ngữ quen </b></i>
thuộc mà trẻ nghe thấy trong cuộc trò chuyện; biết tên và chỉ vào đúng đồ vật khi nó được gọi tên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><i><b>Về thể chất: bé biết nhón chân, chạy một cách thuần thục, có thể đá bóng; biết leo lên </b></i>
và leo xuống đồ nội thất mà không cần giúp đỡ; có thể vẽ hoặc bắt chước vẽ những đường thẳng hay vịng trịn đơn giản.
<i><b>1.1.7. Đặc điểm ngơn ngữ của trẻ từ 2-3 tuổi </b></i>
Trẻ từ 2 đến 3 tuổi có số lượng từ tăng rất nhanh, đặc biệt là ở trẻ 22 tháng và 30 tháng. Trẻ có khả năng sử dụng trung bình khoảng 1000 từ. Các từ mà trẻ sử dụng có thể phân chia một cách ước lệ như sau: 60% là danh từ, 20% là động từ, 10% là danh từ riêng và 10% là các loại từ khác như tính từ (to, nhỏ, lớn, bé, xanh, đỏ); đại từ (nó, con, em, bạn..);... Đặc biệt, đại từ “con" ở lứa tuổi này xuất hiện chứng tỏ nhân cách của trẻ bắt đầu phát triển, trẻ ý thức được về bản thân mình.
Ở giai đoạn này, số từ mà trẻ hiểu được sẽ nhiều hơn số từ mà trẻ sử dụng được. Trong q trình phát triển ngơn ngữ, trẻ sẽ hiểu ngày càng nhiều những gì mọi người nói chuyện với trẻ cũng như cách nói chuyện. Trong độ 2 tuổi trẻ có thể sử dụng các cụm từ hai từ đơn giản, đặt câu hỏi một hoặc hai từ, chẳng hạn như "Ai đây?". Thực hiện theo các lệnh đơn giản, ví dụ: “Con nhặt đồ chơi”. Hiểu và trả lời được các câu hỏi đơn giản như ai, cái gì, con gì, ở đâu.
Một đặc điểm nổi bật về hiểu từ và sử dụng từ của trẻ từ 2 đến 3 tuổi là với một số vật gần giống nhau, trẻ đều gọi chung một từ. Một đặc điểm khác trong cách dùng từ của trẻ là trẻ có thể tạo ra một từ mới để thay thế các từ mà trẻ không biết. Thường trẻ hay dùng công dụng của đối tượng để gọi tên như: “thìa” trẻ gọi là “xúc ăn”, “kéo” gọi là “cắt”, … Điều này cho thấy biểu hiện đầu tiên khả năng sáng tạo ngôn ngữ của trẻ. Tuy nhiên, mức độ hiểu nghĩa các từ này ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi cịn rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng. Trẻ ở độ tuổi này sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác. Trẻ có thể biết dùng một từ để chỉ sự việc diễn ra trong quá khử, nhưng chưa biết phân biệt quá khứ gần, quá khứ xa.
Trẻ từ 2 đến 3 tuổi đã sử dụng được nhiều loại câu có cấu trúc khác nhau trong giao tiếp, các câu nói của trẻ có cấu trúc từ đơn giản đến phức tạp. Đến cuối 3 tuổi, trẻ có khả năng sử dụng được nhiều loại câu đơn mở rộng thành phần và nhiều thành phần mở rộng trong cùng một câu. Độ dài câu nói được nối dài.
Khả năng sử dụng ngơn ngữ của trẻ 3 tuổi tuy có những bước tiến mới, nhưng cũng chỉ là bước đầu. Trẻ còn phải vượt qua những bước tiến dài hơn nữa mới có thể nắm bắt và
sự dụng thành thao các câu đơn mở rộng thành phần và các câu phức hợp vốn có trong ngơn ngữ dân tộc. Từ đó, trẻ mới có thể biểu hiện ngày càng phong phú hơn những hiểu biết và nhu cầu giao tiếp của mình. Ở giai đoạn này, chúng ta cần giúp trẻ phát triển, mở rộng các từ loại trong vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên trò chuyện Với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hằng ngày. Nói cho trẻ biết các từ biểu hiện về các đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản qua tranh. Đặt một số loại câu hỏi giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh bằng ngôn ngữ của trẻ.
<i><b>1.1.8. Chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ từ 2 tuổi đến 3 tuổi </b></i>
Mỗi đứa trẻ lớn lên và phát triển theo tốc độ của riêng chúng. Tuy nhiên, q trình phát triển ngơn ngữ của trẻ thường đi theo các cột mốc phát triển truyền thống. Trẻ từ 2 đến 3 tuổi có số lượng từ tăng rất nhanh, đặc biệt là ở trẻ 22 tháng và 30 tháng. Ở giai đoạn này, số từ mà trẻ hiểu được sẽ nhiều hơn số từ mà trẻ sử dụng được. Trong q trình phát triển ngơn ngữ, trẻ sẽ hiểu ngày càng nhiều những gì mọi người nói chuyện với trẻ cũng như cách nói chuyện. Ở giai đoạn 2 đến 3 tuổi chưa đạt được những cột mốc phát triển như sau cùng các bạn trang lứa thì được tính là chậm phát triển ngơn ngữ.
Trẻ trên 2 tuổi có những biểu hiện sau cũng có khả năng là trẻ chậm phát triển ngôn ngữ: Trẻ chỉ có thể bắt chước các hoạt động hoặc lời nói mà khơng thể tự nói các từ hoặc cụm từ một mình được. Trẻ chỉ có thể nói lặp đi lặp lại một vài từ hoặc một vài âm thanh nào đó và khơng giao tiếp được bằng lời để truyền đạt những nhu cầu cơ bản của mình. Trẻ không hiểu được những lời chỉ dẫn đơn giản. Trẻ khơng nói được bằng giọng bình thường (ví dụ: nói bằng âm mũi hoặc âm thanh the thé). Trẻ khó hiểu, khó tiếp nhận nhiều hơn so với lứa tuổi của trẻ. Bố mẹ và những người xung quanh trẻ chỉ hiểu được 50% điều trẻ muốn nói và hiểu được và hiểu được khoảng ¾ ngôn từ của trẻ khi trẻ 3 tuổi.
<b>1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu </b>
<i><b>1.2.1 Lý thuyết nhận thức-hành vi </b></i>
Thuyết này cho rằng: chính tư duy quyết định phản ứng chứ không phải do tác nhân kích thích quyết định. Sở dĩ chúng ta có những hành vi hay tình cảm lệch chuẩn vì chúng ta có những suy nghĩ khơng phù hợp. Do đó để làm thay đổi những hành vi lệch chuẩn chúng ta cần phải thay đổi chính những suy nghĩ khơng thích nghi. Q trình trị liệu cố
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">gắng sửa chữa việc hiểu sai, hành vi của chúng ta cũng được tác động trở lại một cách phù hợp với môi trường. Thuyết nhận thức hành vi cũng cho ta thấy rằng cảm xúc, hành vi của con người không phải được tạo ra bởi mơi trường, hồn cảnh mà bởi cách nhìn nhận vấn đề. Con người học tập bằng cách quan sát, ghi nhớ và được thực hiện bằng suy nghĩ và quan niệm của mỗi người về những gì họ đã trải nghiệm.
<i><b>Hình 1. 1. Thuyết nhận thức hành vi </b></i>
Lý thuyết này là nền tảng cơ bản cho phương pháp ABA trong trị liệu cho trẻ tự kỷ và cũng được ứng dụng để trị liệu ngôn ngữ cho trẻ CPTNN. Việc ứng dụng lý thuyết này nhằm mục đích thay đổi nhận thức, hành vi sai của trẻ trong quá trình học tập, tạo ra hành vi mới tích cực cho trẻ, điều này giúp trẻ tăng khả năng nhận thức và dễ dàng hịa nhập với mơi trường giáo dục hòa nhập hơn.
Việc sử dụng lý thuyết hành vi nhằm giải thích lý do tổ chức các hoạt động hỗ trợ can thiệp trẻ và tác dụng của các hoạt động can thiệp trong việc kích thích trẻ phát triển ngơn ngữ, coi việc đáp ứng nhu cầu, sở thích của trẻ là kích thích và việc trẻ sử dụng ngơn ngữ nói và hành vi đúng là phản xạ. Trẻ được thay đổi nhận thức rằng việc bắt chước phát âm và sử dụng ngôn ngữ cá nhân là một phản xạ có điều kiện, để được thực hiện các nhu cầu
trẻ buộc phải sử dụng hành vi và ngơn ngữ nói. Ngồi ra, việc sử dụng hình thức thưởng phạt là một cơng cụ để tăng cường những hành vi tích cực và giảm thiểu những hành vi tiêu cực của trẻ.
<i><b>1.2.2 Thuyết thân chủ trọng tâm </b></i>
Phương pháp tham vấn thân chủ trọng tâm lúc đầu được gọi là liệu pháp thân chủ trọng tâm (Carl Rogers, 1951) và sau đó được gọi là phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân (Person – Centered counseling), hướng tiếp cận của Carl Rogers khơng chỉ được coi là có ý nghĩa lớn lao trong cơng việc trợ giúp TC mà cịn được xem là cách sống của con người. Rogers tin rằng bản chất con người là thiện với những khuynh hướng tiến đến phát triển tiềm năng và xã hội hoá mà nếu đặt trong môi trường thuận lợi sẽ phát triển nhận thức và hiện thực hoá tiềm năng đầy đủ.
Rogers giả thiết rằng mỗi người đều sở hữu những tiềm năng cho sự lớn lên, tiềm năng cho những hành vi có hiệu quả và có khuynh hướng tự hiện thực hố những tiềm năng của mình. Sở dĩ một cá nhân nào đó (TC) phát triển những hành vi kém thích nghi là do sự tập nhiễm những mẫu ứng xử sai lệch. Bởi vì mỗi cá nhân đều có nhu cầu mạnh mẽ được người khác chấp nhận, coi trọng nên anh ta hoặc cô ta có thể hành động một cách khơng tự nhiên, khơng thực tế và phát triển những cảm giác sai lệch về bản thân, về những điều mình mong muốn.
Theo Rogers, cá nhân có khuynh hướng một mặt làm cho phần lớn trường hợp những trải nghiệm mà mình sẽ sống trong thế giới bên ngoài phù hợp với khái niệm về cái mình, cái mình thực tế. Mặt khác nó nhằm làm cho khái niệm về cái mình sát với những tình cảm sâu xa tạo nên cho cái mình lý tưởng, tương ứng với những gì tiềm tàng. Như vậy cái mình hiện thực có nguy cơ khơng ăn khớp hoặc khi con người dưới áp lực của hoàn cảnh bắt buộc phải từ chối một số trải nghiệm hoặc con người tự thấy mình phải áp đặt những tình cảm và những giá trị hoặc những thái độ khiến cho cái mình hiệnF thực xa với cái mình lý tưởng.
Sự lo âu và những khơng thích nghi về tâm lý ít nhiều để lại hậu quả của sự mất ăn khớp giữa cái mình hiện thực và những trải nghiệm cuộc sống một bên và bên kia giữ cái mình hiện thực và hình ảnh lý tưởng mà bản thân con người đó có. Mục đích của phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân khơng phải là chữa trị cho TC hoặc tìm kiếm những
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">nguyên nhân từ quá khứ mà cái chính là khuyến khích TC sự tự hiện thực hoá những tiềm năng của bản thân, tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển tâm lý lành mạnh ở thân chủ. TC được xem như là một chủ thể có hiểu biết, họ phải được hiểu, được chấp nhận để NTV có thể cung cấp những loại hình giúp được tốt hơn.
Vì Rogers tin rằng TC có thể tìm ra giải pháp của riêng mình trong một mơi trường ở đó có mối quan hệ tham vấn nồng ấm và thấu cảm nên ông xem chính mối quan hệ tham vấn như là một vật xúc tác cho sự thay đổi và tin rằng việc NTV tìm cách đưa ra lời giải thích thay cho TC là khơng thích hợp. Do đó ơng hồn tồn không chi phối quyết định của thân chủ mà sử dụng kỹ thuật lắng nghe tích cực và tiến hành phản hồi lại cho thân chủ điều gì mà thân chủ đã nói.
Lắng nghe tích cực là một kỹ năng nền tảng trong tham vấn theo phương pháp thân chủ trọng tâm nói riêng và tham vấn nói chung. Nó địi hỏi NV CTXHphải lắng nghe bằng tất cả các giác quan, nghe bằng sự cảm nhận của xúc cảm, nghe bằng “trái tim”, lắng nghe là dừng nói và dừng suy nghĩ. Lắng nghe tích cực thể hiện ở việc nghe và nhận hết được cảm xúc của đối tác, không suy luận, đánh giá, không liên hệ với cái này cái kia. Lắng nghe tích cực như một sự ngầm ẩn trả lời: tôi tin tưởng và tôn trọng vào sự nồng nhiệt, sự giá trị của bản thân bạn, tin tưởng vào con người bạn vào những điều bạn đang có. Cùng lúc đó TC cảm thấy như mình đã được nghe, được hiểu, được thơng cảm. Lắng nghe tích cực làm cho TC tự đi sâu vào mình, tự trải nghiệm cảm xúc của mình, lắng nghe trong sự khổ đau để từ đó hiểu mình hơn, hiểu vấn đề vướng mắc và có thể đi đến chấp nhận nó. Lắng nghe tích cực giúp TC giải phóng được mình khỏi sự kiềm chế của người khác, giải toả được xung đột, uẩn ức trong nội tâm, động viên TC tiếp tục nói nhiều hơn nữa đặc biệt chia sẻ hơn về cảm xúc đối với NV CTXH.
Phản hồi là việc NV CTXH nói lại bằng ngơn ngữ của mình hay nhắc lại lời của thân chủ một cách cô đọng để làm rõ hơn cảm xúc, ý nghĩa cảm nhận của TC và phải đạt được sự tán thành của TC. Có hai cách phản hồi:
Phản hồi lặp lại nội dung là NV CTXH diễn đạt lại những điều đã nghe thấy, quan sát thấy từ TC. Điều này giúp cho NV CTXH không bị sao nhãng TC – trọng tâm và tiếp cận được với vấn đề của TC, đồng thời giúp TC dừng lại cô đọng, sắp xếp ý tưởng theo logic của họ.
Phản hồi tâm tình nhấn mạnh cảm xúc, tình cảm mà TC bày tỏ trong đó hay ẩn dấu sau câu nói bằng cách nhắc lại cho TC nội dung tình cảm trong ngơn từ của họ. Cách phản hồi này dễ đạt được sự thông cảm, khuyến khích TC sẵn sàng chia sẻ và giúp TC xác định được cảm xúc đang hiện hữu trong họ.
Kỹ năng phản hồi phải dựa trên sự thông đạt vấn đề của TC. Nếu chưa thơng đạt thì khó có được phản hồi tốt. Thơng đạt là kỹ năng địi hỏi NTV phải khai thơng được sự hiểu biết của mình về điều TC đang nói và cố gắng bộc lộ điều đó một cách trung thực, nồng hậu, chân thành không đánh giá, phán xét khiến TC tự vệ.
Từ đó có thể thấy, việc áp dụng lý thuyết thân chủ trọng tâm đối với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ từ 2 đến 3 tuổi là khuyến khích trẻ tự thực hiện hố tiềm năng ngơn ngữ của bản thân, tạo điều kiện lành mạnh cho trẻ dễ phát triển tâm lý của bản thân (nhất là trong quá trình khủng hoảng tuổi lên 3).
<b>1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ chậm phát triển ngơn ngữ từ 2 tuổi đến 3 tuổi </b>
Có rất nhiều các yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc một đứa trẻ bị chậm phát triển về ngôn ngữ. Dựa vào các kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học thì các yếu tố sau đây sẽ góp phần lớn trong việc ngăn cản, hạn chế sự phát triển kỹ năng hiểu ngôn ngữ và thể hiện chúng bằng lời nói của trẻ nhỏ.
<i><b>1.3.1. Các yếu tố khách quan </b></i>
<i>Yếu tố từ môi trường sống của trẻ </i>
Môi trường được xem là yếu tố quan trọng và góp phần rất lớn trong q trình phát triển của mỗi con người, trong đó có cả ngơn ngữ. Khả năng nói của trẻ là tổng hợp của khả năng bẩm sinh và ni dạy. Tuy nhiên, nó phụ thuộc rất nhiều vào việc chăm sóc và giáo dục của cha mẹ. Việc trẻ khơng có được kích thích nói đúng mức ở nhà, trẻ khơng có cơ hội trị chuyện, tiếp xúc với người thân ngay từ nhỏ cũng gây khó khăn cho trẻ trong q trình tiếp xúc, nghe và bắt chước các âm thanh xung quanh trẻ. Bố mẹ mải mê với cơng việc, ít hoặc khơng có thời gian chăm sóc, giao tiếp với trẻ. Trẻ mất khả năng tập trung, chú ý là do xem ti vi quá nhiều, nghiện xem ti vi. Khi xem tivi, ánh sáng, con người, cảnh vật thay đổi một cách nhanh chóng và đột ngột. Ngồi ra, khi trẻ đã “nghiện” tivi, thời gian vui chơi giải trí bên ngồi, trị chuyện cùng bố mẹ cũng giảm đáng kể.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Khi một đứa trẻ lớn lên trong mơi trường đa ngơn ngữ, trẻ có thể bị chậm phát triển ngơn ngữ hoặc có kỹ năng ngơn ngữ kém. Nếu có nhiều ngơn ngữ được nói trong nhà, đứa trẻ có thể khơng nắm bắt được ngơn ngữ chính của mình hoặc có thể nhầm lẫn nghĩa của một số từ. Tuy nhiên, một số trẻ làm rất tốt khi tiếp xúc với ngôn ngữ thứ hai, dẫn đến các kỹ năng trên trung bình.
Ngồi ra, một số yếu tố mơi trường có thể trở thành nguyên nhân như:
Chất lượng đời sống của trẻ bị hạn chế, cụ thể như gia đình nghèo khổ, thiếu thốn về lương thực,…
Trẻ là con thứ và anh chị của trẻ có khả năng giao tiếp, có thể hỗ trợ trẻ trong mọi tình huống cần lời nói nên trẻ rất dễ bị “lười” giao tiếp.
<i><b>1.3.2. Các yếu tố chủ quan </b></i>
<i>1.3.2.1. Yếu tố liên quan đến các bệnh thực thể </i>
Trẻ sinh non, sinh nhẹ cân, sinh dày,…
Trong q trình người mẹ mang thai có sự thay đổi bất thường về tình trạng sức khỏe như mắc bệnh truyền nhiễm, cúm vi rút, sởi.
Tình trạng chậm phát triển ngơn ngữ ở trẻ cũng có thể bị ảnh hưởng từ các căn bệnh thực thể, phổ biến nhất có thể là các bệnh lý liên quan đến miệng như hở hàm ếch. Ngoài ra, nếu trẻ bị thắng lưỡi (phanh lưỡi) quá ngắn cũng sẽ gây cản trở đến sự cử động của đầu lưỡi, khiến khả năng nói, phát âm của trẻ bị hạn chế đáng kể; các trở ngại về lời nói, chẳng hạn như nói ngọng, cũng có thể ảnh hưởng đến q trình này. Bên cạnh đó, một vài vấn đề thần kinh khác như bị chấn thương ở não bộ, bại não, bị bại não, viêm não, viêm màng não hay loạn dưỡng cơ cũng có thể trở thành nguyên nhân của chứng rối loạn giao tiếp này. Một số bệnh lý về gien như hội chứng Down, Treacher Collin, Hunter-Hunrler, trẻ có thể tạng cơ mềm nhão, chậm phát triển vận động cũng có thể chậm phát triển ngơn ngữ. Ngồi ra, chậm phát triển ngơn ngữ cịn do trẻ sinh non, gặp sự cố trong quá trình sinh nở, bị sốt cao co giật.
Bên cạnh đó, chậm phát triển ngơn ngữ ở trẻ được cho là phần lớn có liên quan đến các hội chứng sau như:
Chậm phát triển trí tuệ là nguyên nhân phổ biến nhất gây chậm ngôn ngữ ở trẻ, chiếm hơn 50 phần trăm các trường hợp. Trẻ chậm phát triển trí tuệ biểu hiện chậm phát triển
ngôn ngữ toàn cầu, đồng thời cũng chậm hiểu được thính giác và chậm sử dụng cử chỉ. Nhìn chung, chậm phát triển trí tuệ càng nặng thì khả năng nói giao tiếp càng chậm. Phát triển lời nói ở trẻ chậm phát triển trí tuệ tương đối chậm hơn so với các lĩnh vực phát triển khác. Do khả năng ghi nhớ của trẻ rất kém nên vốn từ của trẻ cũng cực kỳ hạn hẹp, trẻ dù đi học thì mức độ này cũng chỉ cải thiện được rất ít dẫn tới những khó khăn trong giao tiếp vì khơng có đủ ngơn ngữ để diễn đạt.
Rối loạn trí tuệ. Một trong những rối loạn được công nhận nhiều nhất ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em là bệnh tự kỷ và rối loạn phổ tự kỷ. Nhiều trẻ em mắc các bệnh này sẽ khơng học nói ở độ tuổi bình thường và nếu không được điều trị hoặc không được chẩn đốn, một số trẻ có thể khơng bao giờ nói hoặc hình thành các từ và câu thích hợp. Tuy nhiên, thông qua can thiệp và trị liệu chuyên nghiệp, nhiều trẻ tự kỷ có thể học các kỹ năng ngơn ngữ đầy đủ.
<i>1.3.2.2. Yếu tố về thính giác </i>
Các vấn đề về thính giác cũng có thể ảnh hưởng đến chậm phát triển ngơn ngữ. Vì vậy, chuyên gia, bác sĩ thường kiểm tra thính giác của trẻ bất cứ khi nào có vấn đề về lời nói. Trên thực tế, có nhiều trẻ phải trải qua nhiều đợt viêm tai cho đến khi trẻ được 3 tuổi. Sự nhiễm trùng này khiến trẻ bị hạn chế về khả năng nghe, nguy cơ chậm phát triển ngôn ngữ của trẻ cũng tăng cao. Trẻ gặp vấn đề về nghe có thể gặp khó khăn khi nói, hiểu, bắt chước và sử dụng ngôn ngữ. Nhiễm trùng tai, đặc biệt là nhiễm trùng mãn tính, có thể ảnh hưởng đến thính giác. Nhưng miễn là một bên tai cịn nghe bình thường thì lời nói và ngơn ngữ sẽ phát triển bình thường.
<b>1.4 Các hoạt động Công tác xã hội của nhân viên đối với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ 2-3 tuổi </b>
Hoạt động công tác xã hội bao gồm các hoạt động như: hoạt động tham vấn; hoạt động giáo dục; hoạt động kết nối nguồn lực… Đây là các hoạt động hỗ trợ được thực hiện bởi nhân viên công tác xã hội, vì vậy quá trình hỗ trợ phải chuyên nghiệp, khoa học một cách bài bản. Nhân viên công tác xã hội phải biết vận dụng các kiến thức, kỹ năng chuyên môn trong hỗ trợ trẻ chậm phát triển ngôn ngữ cũng như cha/mẹ. Đối với trẻ CPTNN, khi được nhân viên công tác xã hội hỗ trợ, các em sẽ giảm thiểu được hành vi của mình và phát triển hơn về mặt ngôn ngữ, tư duy; đối với cha/mẹ trẻ tự kỷ thì họ cũng sẽ có được tâm lý
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">vững vàng, hiểu rõ hơn về tình trạng của con và cùng phối hợp với nhân viên công tác xã hội để con học tập tốt hơn. Sau này khi các em đã hạn chế được hành vi của mình, nhận thức cũng tốt hơn thì các em có thể dần dần hịa nhập với cộng đồng, có thể tự phục vụ bản thân mình mà khơng phải dựa vào gia đình hay ai khác. Những hoạt động trợ giúp của nhân viên cơng tác xã hội có thể được khái qt như sau:
<i><b>1.4.1 Hoạt động kết nối nguồn lực: </b></i>
Nhân viên CTXH là người liên kết và thống nhất các quan điểm, tạo nên sự thông hiểu giữa các thành viên. Nhân viên CTXH sẽ đến thăm gia đình trẻ, quan sát môi trường sống của trẻ và đưa ra những góp ý về tổ chức, cách chăm sóc trẻ dựa trên lịch hoạt động, đồng thời ghi nhận thái độ, phản ứng, mối tương tác giữa các thành viên trong gia đình trẻ, để cùng với ê kíp trị liệu xây dựng kế hoạch can thiệp gia đình theo lý thuyết Hệ Thống. [5,tr.104] Ở Việt Nam, việc can thiệp cho trẻ CPTNN và trẻ tự kỷ chủ yếu có sự tham gia của bác sĩ tâm thần Nhi hoặc chuyên gia tâm lý và giáo viên chuyên biệt. Trong đó, giáo viên chuyên biệt có thể được đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng có chuyên khoa về giáo dục đặc biệt, tâm lý và cả công tác xã hội. Do vậy, khi NV CTXH làm việc với trẻ, họ không chỉ là người kết nối mà ở mỗi vị trí khác nhau họ sẽ đảm nhận những vai trò cụ thể khác nhau và đều hướng tới mục đích là bảo vệ lợi ích cao nhất của thân chủ, giúp thân chủ tự đương đầu và giải quyết vấn đề.
<i><b>1.4.2 Hoạt động giáo dục: </b></i>
Đối với hoạt động giáo dục, để hiểu rõ hoạt động này cũng như những kỹ năng chuyên môn, trong quá trình thực hiện hoạt động chúng ta sẽ chia ra làm bốn chức năng chính của Cơng tác xã hội trong hoạ động giáo dục như sau:
<i>1.4.2.1 Chức năng phòng ngừa </i>
Với quan điểm tiếp cận phòng hơn chữa, chức năng đầu tiên của CTXH là phòng ngừa, ngăn chặn cá nhân, gia đình rơi vào tình huống cos trẻ chậm phát triển ngôn ngữ không phải để đối tượng rơi vào hồn cảnh đó rồi mới giúp đỡ. Chức năng phòng ngừa của CTXH thể thiện qua các hoạt động giáo dục, phổ biến tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cá nhân, gia đình và cộng đồng về trẻ CPTNN. Đơn cử như hoạt động giáo dục cộng đồng về kiến thức dạy giáo tiếp với trẻ, dạy trẻ phát triển ngôn ngữ đúng độ tuổi. Thông qua các hoạt động giáo dục như vậy, CTXH đã giúp ngăn ngừa các vấn đề có thêm trẻ CPTNN.
Bên cạnh đó chức năng phịng ngừa cịn thể hiện thơng qua các hoạt động xây dựng văn bản, chính sách xã hội góp phần cải thiện và nâng cao đời sống, ngăn chặn gia tăng đối tượng trẻ chậm phát triển ngôn ngữ.
<i>1.4.2.2 Chức năng can thiệp </i>
Chức năng can thiệp (còn được gọi là chức năng chữa trị hay trị liệu) nhằm trợ giúp cá nhân, gia đình giải quyết vấn đề khó khăn họ đang phải đối mặt. Với từng vấn đề và với mỗi đối tượng khác nhau, nhân viên cơng tác xã hội sẽ có phương pháp can thiệp hỗ trợ riêng biệt. Ví dụ với những gia đình có khó khăn về kinh tế cho con đi học can thiệp, nhân viên công tác xã hội sẽ cung cấp dịch vụ hỗ trợ để gia đình vượt qua khó khăn về kinh tế. Quy trình can thiệp của nhân viên cơng tác xã hội thường bắt đầu từ việc tiếp cận, đánh giá nhu cầu, xác định vấn đề, khai thác tiềm năng của đối tượng cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch giải quyết vấn đề, hỗ trợ đối tượng thực hiện kế hoạch và cuối cùng là đánh giá và kết thúc quá trình giúp đỡ. Phương pháp chủ đạo của CTXH là giúp cho đối tượng được tăng năng lực và tự giải quyết vấn đề của họ.
<i>1.4.2.3 Chức năng phục hồi </i>
Chức năng phục hồi của CTXH thể hiện ở việc giúp cá nhân, gia đình khơi phục lại chức năng ngôn ngữ, xã hội đã bị suy giảm lấy lại trạng thái cân bằng trong cuộc sống. Thông qua các hoạt động phục hồi, nhân viên công tác xã hội giúp cho trẻ CPTNN trở lại cuộc sống bình thường, hồ nhập cộng đồng.
<i>1.4.2.4 Chức năng phát triển </i>
Công tác xã hội thực hiện chức năng phát triển thông qua các hoạt động xây dựng luật pháp, các chính sách, chương trình dịch vụ giúp trẻ CPTNN, gia đình phát triển khả năng của mình đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Chức năng phát triển còn giúp trẻ tăng năng lực và tăng khả năng ứng phó với các tình huống và tự phát triển thêm ngôn ngữ, học hỏi các kỹ năng khác cho bản thân.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Ở chương 1, tác giả đã nêu ra các khái niệm công cụ về Công tác xã hội với trẻ chậm phát triển ngôn ngữ trong độ tuổi từ 2 đến 3 tuổi như: đặc điểm tâm lý của trẻ từ 2-3 tuổi, đặc điểm ngôn ngữ của trẻ tè 2-3 tuổi, chậm phát triển ngơn ngữ ở trẻ 2-3 tuổi. Từ đó bằng việc áp dụng các lý thuyết liên quan sẽ giúp cho tác giả hiểu rõ hơn sự phát triển tâm sinh lý, hành vi, nhận thức cũng như hai yếu tố tác động tới sự phát triển của trẻ. Yếu tố chủ quan do liên quan đến các bệnh thực thể ( sinh non, sinh dày, dính thắng lưỡi, hở hàm ếch) và yếu tố về thính giác (nhiễm trùng mãn tính, viêm tai,…). Yếu tố khách quan về môi trường sống của trẻ như: gia đình, tiếp xúc với mơi trường đa ngôn ngữ, sử dụng các thiết bị điện tử quá sớm. Những hoạt động