Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

ĐÔNG NAM Á TRONG BÀN CỜ ĐỊA CHIẾN LƯỢC CỦA MỸ VÀ TRUNG QUÓC Ở ẤN ĐỘ DƯƠNG - THÁI BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐÔNG NAM ÁTRONG BÀN cờ ĐỊA CHIẾN Lược CỦA MỸ</b>

<b><small>PHẠM TIÉN </small>- NGUYỄN<small> ĐÌNHNGÂN</small>*</b>

<b>*<small> ViệnKinhtếvà </small>Chính <small>trị </small>thế<small> giới</small></b>

<i><small>Tóm tắt:</small></i><small> Là nơi kết nối giữa hai đại dương lớn nhất của thế giới, Đông Nam Á đang trở thành trung tâm của Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở (FOIP) do nhóm Bộ tứ An ninh châu Á (QUAD) làm hạt nhân dưới sự dẫn dắt của Mỹ. Đông Nam Á cũng án ngữ cửa ngõ phía Nam đi ra Ấn Độ Dương để đến với thị trường các quốc gia Trung Đông và châu Phi - nơi không chi cung cấp nguyên nhiên liệu cho sự phát triển kinh tế, mà còn là nơi tiêu thụ năng lực sản xuất dư thừa của Trung Quốc. Mặt khác, với tư cách là một Cộng đồng kinh tế có hơn 667 triệu người tiêu dùng, GDP năm 2022 ước tính đạt hơn 3.595 tỷ USD, đứng thứ 5 thế giới, cùng các nền kinh tế thành viên phát triển năng động, Đông Nam Á đang được kỳ vọng trở thành động lực mới cho tăng trưởng, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đứng trên bờ vực suy thối. Như vậy có thể nói, cường quốc nào kiểm sốt được Đơng Nam Á sẽ có được lợi thế địa chiến lược để củng cố tham vọng bá quyền trong thế kỷ XXL</small>

<small>Thơng qua lăng kính của thuyết Cân bằng sức mạnh, bài viết đánh giá vị thế của Đông Nam Á trong chiến lược của Mỹ và Trung Quốc, cũng cách thức mà hai siêu cường này sử dụng để kiểm sốt Đơng Nam Á nhằm giành ưu thế so với đối thủ cạnh tranh tại một địa bàn sẽ quyết định ai là người nắm giữ ngôi vị số </small>

<b><small>NGHIÊN </small>CỨU <small>TRUNGQUỐCsố 12(256)</small> - <small>2022</small> --- 43</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>PHẠM <small>TĨÉN</small> - NGUYỄN <small>ĐÌNHNGẤN</small></b>

mắt xích quan trọng đề Bắc Kinh lấy lại vai trị quốc gia trung tâm của thế giới. Do vậy, với Mỳ và Trung Quốc, khu vực châu Á - Thái Bình Dương hay rộng hơn là khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đã, đang sẽ trở thành khu vực địa chiến lược quyết định ưu thế sẽ thuộc về đồng thuận Washington hay đồng thuận Bắc Kinh; và Đông Nam Á đều được cả hai coi là mảnh ghép có vị trí hết sức trọng yếu đối với tham vọng thống trị thế giới của Mỹ và Trung Quốc.

Giải thích về việc điều chỉnh chiến lược này của Mỹ và Trung Quốc, thuyết Cân bằng quyền lực cho rằng: trong hệ thống quốc tế vơ chính phủ, các quốc gia cố gắng củng cố sự tồn tại của mình thơng qua tăng cường thực lực. Tình trạng vơ chính phủ này buộc các nước phải liên tục tham gia vào việc tối đa hóa sức mạnh để vượt qua tình thế tiến thối lường nan về an ninh. Sự tranh giành ưu thế quyền lực này là một trạng thái “tự nhiên” trong chính trị quốc tế(2\ Tuy nhiên, khi quyền lực của một quốc gia tăng lên quá mức, nó sẽ đe dọa sự tồn vong của các quốc gia yếu hơn. Do vậy, trạng thái cân bằng quyền lực, nhất là giữa các cường quốc, sẽ ngăn ngừa xung đột quân sự và nhờ vậy hịa bình được đảm bảo. Chiến tranh hoặc xung đột sẽ xảy ra trong trường hợp một quốc gia mới trồi dậy muốn phá bỏ trạng thái cân bằng cũ, cịn bên đối địch thì nỗ lực duy trì ngun trạng. Neu chiến tranh hay xung đột không đủ để giải quyết câu chuyện về quyền lực chính trị, chưa làm thỏa mãn tham vọng của các bên có liên quan, thì có nghĩa là mâu thuẫn vẫn chưa được giải quyết, trạng thái cân bằng chưa được tái lập; và vì thế, nó sẽ là mầm mống cho một cuộc chiến toàn diện, hoặc giới hạn, hay ủy nhiệm trong tương lai.

Thuyết Cân bằng quyền lực cũng có thể áp dụng ở cấp độ khu vực. Trong một khu vực địa lý xác định, khi một quốc gia hoặc một tập hợp các quốc gia có được quá nhiều quyền lực thì nó sẽ trở thành mối đe dọa cho các quốc gia láng giềng khác. Vì vậy, các quốc gia khác trong khu vực sẽ phải cố gắng cân bằng hoặc chống lại sức mạnh khu vực đang lên này. Đe cân bằng bên trong và bên ngoài nhằm đối phó với quốc gia hoặc một tập hợp các quốc gia đang trồi dậy, các quốc gia khác có thể tăng cường khả năng kinh tế và sức mạnh qn sự của mình thơng qua việc thiết lập liên minh với các quốc gia khác trong và ngoài khu vực. Tuy nhiên, các liên minh hay liên kết được hình thành để đối phó với một mối đe dọa cụ thể nào đó khơng phải là bất biến. Nó sẽ bị giải thể khi mối đe dọa khơng còn tồn tại. Theo Walt s. M., nhận thức về mối đe dọa là yếu tố chính kích hoạt hành vi cân bằng trong quan hệ quốc tế. Ví dụ, các nước lớn có thể tham gia vào một liên minh để chống lại một cường quốc đang trồi dậy yếu hơn nhưng quyết đốn hơn®. Do đó, liên minh được thành lập để chống lại một nhà nước hoặc một trục được nhìn nhận là có thể gây ra mối đe dọa về an ninh, hồn tồn có tính thời điểm trước nguy cơ đe dọa mà một quốc gia có thể gây ra, như: Sức mạnh tổng hợp, ý đồ gây hấn, khoảng cách địa lý và sức mạnh tấn công.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i><b><small>Đông </small>Nam <small>Atrongbàn cờ </small>địa <small>chiến lược...</small></b></i>

Các nước có thế lựa chọn hai loại chiến lược để chổng lại mối đe dọa: cân bằng cứng hoặc cân bằng mềm. Chiến thuật cân bằng cứng sử dụng chiến lược hình thành và duy trì các liên minh quân sự. Thay vì chỉ dựa vào các công cụ quân sự, hay các phương pháp kinh tế và ngoại giao khác để chống lại ảnh hưởng của đối thủ, thì chiến thuật cân bằng mềm gắn với việc “xây dựng liên minh khơng tấn cơng” dưới hình thức hợp tác an ninh hạn chế, hợp tác trong các thể chế quốc tế, các cuộc tập trận quân sự và quan hệ đối tác chiến lược(4). Cân bằng mềm có thể được chuyển thành cân bằng cứng khi cạnh tranh an ninh trở nên gay gắt hơn và nhận thức về mối đe dọa gia tăng giữa các quốc gia đối thủ.

<i><b>Bàn cờ địa chiến lược mới</b></i>

Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương: Bàn cờ địa chiến lược mới của các cường quốc. Trong bàn cờ này, Trung Quốc và Mỹ được coi là hai cường quốc có đủ khả năng tác động đến hành vi của các quốc gia khác. Do đó, họ được coi là “người chơi chính”, hai “quân Vua” đối địch nhau trên bàn cờ này. Cả hai sử dụng những chủ thể khác nhau trong khu vực làm “quân cờ” của mình để kiềm chế lẫn nhau. Theo đó, vai trị và tầm quan trọng của những “kép phụ” đối với “người chơi chính” trong khu vực được xác định bởi các yếu tố như: nhân khẩu học, vị thế địa chính trị, sức mạnh kinh tế và quân sự, cùng những ảnh hưởng về văn hóa, tơn giáo và lịch sừ

<i>Đối với Mỹ</i> quân cờ có giá trị và mạnh nhất chính là sức mạnh hải quân của Mỹ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Đây được xem là “quân Hậu” trên bàn cờ của Mỹ. Theo đó, Washington đã huy động những nguồn lực hải chiến tốt nhất của mình trong khu vực. Ví dụ: Siêu tàu sân bay USS Ronald Reagan và USS Theodore Roosevelt, tàu chiến tấn công đổ bộ - uss America - khu trục hạm tàng hình DDG-1000, máy bay ném bom chiến lược B-52, tàu tác chiến ven biển USS Montgomery và máy bay F-35. Mỹ đang thể hiện ưu thế hải qn vượt trội của mình trong khu vực thơng qua việc đổi tên Bộ Tư lệnh Hải quân châu Á - Thái Bình Dương Mỹ (USPACOM) thành Bộ Tư lệnh Hải quân Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương Mỹ (USINDOPACOM), chiếm 60% tổng số lực lượng hải quân Mỳ và 85.000 nhân viên triển khai tiền tiêu(5). Quân lực hải qn Mỹ đóng vai trị rất quan trọng để chống lại quân đội Trung Quốc đang hiện đại hóa nhanh và kiểm soát tham vọng của hải quân Trung Quốc trong khu vực.

Nhật Bản và Hàn Quốc đang đóng vai trò “quân Xe” cho Mỹ trong bàn cờ này, được sử dụng chủ yếu cho mục đích phịng thủ. Cả Nhật Bản và Hàn Quốc đều đảm nhận vai trị này do vị trí địa chiến lược và sự hiện diện vững chắc của quân đội Mỹ trên lãnh thổ của hai nước. Mỹ đặt 15 căn cứ quân sự tại Nhật Bản và 23 tại Hàn Quốc(6). Australia và Ân Độ, với sức mạnh và vị trí chiến lược của mình, đóng vai trị “qn Tượng” trên bàn cờ. Mỹ coi cả Australia và Ấn Độ là những cường quốc quan trọng trong khu vực. Họ là thành viên của liên minh QUAD, chủ yếu nhằm mục đích chống lại ảnh hưởng của Trung

<b><small>NGHIÊN </small>CỨU<small> TRUNG QUÓC số 12 (256) </small>- <small>2022</small>45</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHẠM<small> TIÉN</small> - NGUYỄN ĐÌNH <small>NGÂN</small></b>

Quốc. Liên minh quân sự với Australia được Mỹ coi là mỏ neo của trật tự hịa bình, dựa trên quy tắc ở châu Á - Thái Bình Dương(7). Australia có thể dễ dàng khống chế các tuyến đường hàng hải quan trọng trong khu vực do vị trí chiến lược quan trọng. Trong khi đó, Ấn Độ vần luôn khao khát gia tăng phạm vi ảnh hưởng của mình ra ngồi khu vực Nam Á và có tiếng nói lớn hem trong khu vực. Nhận biết được mong muốn đó của Ấn Độ, Mỹ đã sử dụng cường quốc Nam Á này một cách hiệu quả để chống lại mối đe dọa Trung Quốc. Trong chuyến thăm Ẩn Độ năm 2010, cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama gọi Ấn Độ là đối tác không thể thiếu và các tổng thống Mỹ nhiều lần tán thành việc Ấn Độ có ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc(8). Thỏa thuận hạt nhân dân sự Ẩn - Mỹ là một cách để chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc và tạo ra sức răn đe hạt nhân trong khu vực. Philippines và Singapore đảm nhận vai trò quân Mã(9). Cả hai đều là đối tác an ninh truyền thống của nhau, có vị tri quan trọng trên bản đồ địa chiến lược khu vực. Nhìn chung, các nước Đông Nam Á khác và Đài Loan có thể giữ vị trí qn Mã hoặc qn Tốt thí hay Tốt dự phịng (có thể biến thành Xe hoặc Tượng hay Mã) đối với Mỹ trong việc tạo áp lực đối với Trung Quốc do nằm ở tuyến đầu trong việc ngăn chặn Trung Quốc.

<i>Đối với Trung Quốc, “quân Hậu” trên </i>bàn cờ chính là sức mạnh của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, là Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) và Ngân hàng Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB). Trung Quốc đang tìm cách chống lại sự ngăn chặn của Mỹ bằng cách phát triển các mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ với các quốc gia láng giềng nhỏ và vừa. Thông qua BRI, Trung Quốc đặt mục tiêu đầu tư hơn 1 nghìn tỷ USD vào 72 quốc gia. Bên cạnh khoản đầu tư lớn vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, Trung Quốc còn nổi lên là chủ nợ lớn nhất thế giới, đã cho vay 1,5 nghìn tỷ USD trên tồn cầu(l0). Các sáng kiến kinh tế của Trung Quốc dưới sự tài trợ của AIIB trong khuôn khồ BRI, được nhiều nền kinh tế đang phát triển ở Án Độ Dương - Thái Bình Dương coi là cơ hội cho phát triển kinh tế. Thành công của Trung Quốc trên bàn cờ địa chiến lược khu vực cũng có thế được đo qua việc đã thu hút được một số đồng minh của Mỳ (Australia, Án Độ, Philippines, Singapore, Hàn Quốc) tham gia vào AIIB. Một khi các quốc gia gắn bó sâu sắc hơn trong mối liên kết kinh tế này, sẽ có ít khả năng hơn họ trở thành một phần của liên minh quân sự toàn diện chống Trung Quốc trong khu vực.

Cách thức xây dựng mạng lưới liên kết của Trung Quốc có điểm khác với của Mỹ. Do khơng có một quân Xe trên bàn cờ (hệ thống liên minh quân sự mạnh mẽ), nên Trung Quốc tập trung vào phát triển “quan hệ đối tác chiến lược” với Nga và Triều Tiên hơn là xây dựng các căn cứ qn sự. Nga được đánh giá là có vai trị nhất định trong các vấn đề của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Nga có thể đóng vai trị như một “qn Tượng” ngồi khu vực cho Trung Quốc trên bàn cờ. Sau vụ sáp nhập Crimea và cuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i><b><small>Đông </small>Nam <small>Ả trongbàncờ</small> địa <small>chiến lược...</small></b></i>

chiến tại Ukraine, các lệnh trừng phạt gây ra nhiều khó khăn đối với nền kinh tế của Nga, Trung Quốc dường như đã nắm rõ được tất cả các vấn đề kinh tế của Nga. Trung Quốc có ưu thế trong quan hệ đối tác chiến lược này trên cơ sở song trùng về lợi ích kinh tế và quân sự trong khu vực(11). Với vị trí địa chiến lược của mình, Triều Tiên đóng vai trị như một quốc gia đệm giữa Trung Quốc và các lực lượng Mỹ hiện diện tại Hàn Quốc. Trung Quốc là chồ dựa quan trọng cho nền kinh tế Triều Tiên khi trở thành đối tác thương mại lớn nhất của nước này bất chấp các lệnh trừng phạt áp đặt từ phương Tây. Hành động của Trung Quốc đã gắn lợi ích an ninh của Triều Tiên và Nga với lợi ích của chính mình. Trung Quốc thu hút các nước đang phát triển trong khu vực thông qua sức mạnh kinh tế của mình. Các nước đang phát triển như Maldives, Myanmar và Sri Lanka đang đóng vai trò là “quân Tốt” cho Trung Quốc. Những quân Tốt này bị cám dỗ thông qua các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, góp phần gia tăng phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Việc Trung Quốc thuê đảo Feydhoo Finolhu của Maldives và cảng Hambantota của Sri Lanka được Mỹ và các đồng minh coi là một mối đe dọa. Nhận thức về mối đe dọa này dựa trên giả định rằng Trung Quốc có thể triển khai lực lượng hải qn của mình trên các cảng này nếu muốn.

Cho đến nay, Trung Quốc đã thành cơng trong việc ngăn chặn sự hình thành của bất kỳ liên minh cân bằng cứng nào chống lại sự trỗi dậy của mình do sức hút kinh tế đối với các quốc gia trong khu vực. Thông qua các sáng kiến phát triển, Trung Quốc có thể thu hút không chỉ các quốc gia trung lập trong khu vực mà còn cả các đồng minh của Mỹ. Chồ đứng trong khu vực cũng được đảm bảo bằng cách thuê lại các cảng biển chiến lược ở các quốc gia khác nhau. Trung Quốc từng bước mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình mà khơng khơi gợi bất kỳ cách tiếp cận cân bằng thù địch nào của phương Tây. Tình hình chỉ thay đổi từ thời chính quyền Donald Trump, khi Mỹ coi Trung Quốc là một mối đe dọa tiềm tàng<12).

<b>2. Đông Nam Á trong bàn cờ địa chiến lược của Mỹ và Trung Quốc</b>

Như đã trình bày ở trên, với “cách bày binh bố trận” của cả Mỹ và Trung Quốc hiện nay ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thì Đơng Nam Á chưa phải là quân cờ có giá trị vào hàng thứ nhất hay thứ hai, dù họ có thể có những đối tác đóng vai trị là qn Mã hay quân Tốt dự phòng của Mỹ hay Trung Quốc trong khu vực. Đông Nam Á và ASEAN hiện vẫn chưa là “của riêng” của Bắc Kinh hay Washington. Tuy nhiên, với vị trí nằm ở trung tâm của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, việc kiểm sốt được Đơng Nam Á chắc chắn sẽ quyết định ngôi vị quyền lực số một khu vực thuộc về ai.

<i>Với Mỹ, </i>trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, Đông Nam Á chính là bờ đê ngăn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ra tồn khu vực. Cịn ngày nay, Đơng Nam Á chính là hành lang

<b><small>NGHIÊN</small> CỨU TRUNG<small> QUÔC số </small>12 <small>(256) -2022</small>47</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>PHẠM <small>TIẾN</small> - NGUYỄN ĐÌNH <small>NGẤN</small></b>

an ninh đảm bảo cho các hạm thuyền của Mỹ và đồng minh di chuyển thông suốt từ Thái Bình Dương sang Án Độ Dương, là vành đai để Mỹ ngăn chặn sự trồi dậy của Trung Quốc, không để quân đội Trung Quốc (PLA) hiện thực hóa “giấc mơ đại dương xanh”.

Như vậy có thể nói, Đơng Nam Á có vị trí khá quan trọng trong chiến lược khu vực của Mỹ và cạnh tranh Mỹ - Trung càng khiến khu vực trở nên nổi bật trong chính sách đối ngoại của Washington. Nhưng cho đến trước khi Tổng thống J.Biden lên nắm quyền, Mỹ vẫn chưa có được một cách tiếp cận tồn diện với Đông Nam Á. Cách thức của Mỹ chủ yếu vẫn là hướng vào các đồng minh khu vực truyền thống và phần nào đó là Ân Độ. Việt Nam và một số quốc gia thành viên ASEAN khác có được nhắc đến trong chính sách “xoay trục châu Á”, nhưng Mỹ lại khơng có bước đi cụ thể để kết nối các điểm được lựa chọn đó với việc xây dựng một chiến lược tổng thể hợp lý và cân bằng cho Đơng Nam Á. Chính sách đáng mong đợi nhất của Mỹ khi thực thi “xoay trục” là Hiệp định TPP, nhưng đã bị chính quyền của Tổng thống D. Trump từ bỏ. Đối với chính sách “Mỹ trên hết”, nhu cầu an ninh của họ và đồng minh vẫn cao hơn mong muốn phát triển hịa bình và on định của các nước trong khu vực.

Tuy nhiên, “cuộc cờ FOIP” đã không bị dừng lại sau một nhiệm kỳ 4 năm của Tổng thống D. Trump. Bản Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ, do Nhà Trắng công bố hồi tháng 2/2022, tiếp tục khẳng định ưu tiên của Mỹ trong thế kỷ XXI chính là giữ vững vai trị cường quốc Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó nhấn mạnh Đông Nam Á và ASEAN như là nhân tố trung tâm của chiến lược(13). Trong đó Việt Nam và Singapore được nhắc đến như là những đối tác tiềm năng cho một khu vực tự do và thịnh vượng. Tuy nhiên, với sự ra đời của AUKUS (15/9/2021) bên cạnh QUAD, liệu ASEAN với tư cách là một tổ chức thống nhất có cịn quan trọng với Mỹ như lời giới lãnh đạo chính trị Nhà Trắng đã nhiều lần tuyên bố, hay Mỹ lại theo lối cũ lựa chọn đối tác phù họp với lợi ích của họ mà bỏ qua không xây dựng một kế hoạch chung cho khu vực? Bản thân sáng kiến của Washington hồi tháng 5/2022 về Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) nhằm gắn kết nền kinh tế số 1 thế giới với các nền kinh tế năng động trong khu vực theo 4 trụ cột vẫn mơ hồ về nội dung, thiếu tính cam kết và chưa xác định được lộ trình thực hiện.

<i>Với Trung Quốc, ngay sau </i>khi CHND Trung Hoa được thành lập (10/1949), giới lãnh đạo nước này luôn coi Đông Nam Á là bàn đạp để Trung Quốc vươn tầm ảnh hưởng cạnh tranh với Mỹ và Liên Xô, trở thành đại diện cho lợi ích của thế giới đang phát triển trong một trật tự thế giới đa cực. Do vậy, trong suốt thời kỳ chiến tranh Lạnh, Đơng Nam Á chính là “bờ đê an ninh” ngăn Mỳ mang chiến tranh đến sát Trung Quốc, là con bài để Trung Quốc chống lại chủ nghĩa xét lại Liên Xô sau khi Stalin qua đời. Đen thời kỳ cải cách và mở cửa, với các chiến lược khác nhau nhưng mang tính kế thừa, Đơng Nam Á cịn là thị trường cho lao động, hàng hóa của Trung Quốc, cũng như nơi cung cấp nguyên

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i><b>ĐôngNam <small>Ả trongbàn cờđịachiến </small>lược...</b></i>

nhiên liệu với giá rẻ cho nhu cầu phát triển kinh tế của con “Rồng châu Á” này. Đến thời của “giấc mơ Trung Quốc”, với đại chiến lược BRI và khẩu hiệu “châu Á chung vận mệnh” cùng chính sách “láng giềng thân thiện”, Đơng Nam Á chính là điểm kết nối đầu tiên của “Con đường tơ lụa trên biển”, là “chuồi ngọc trai” để ngăn chặn khả năng xâm nhập và tiếp cận của Mỹ, là cửa ngõ để Trung Quốc biến mình từ một cường quốc lục địa trở thành một cường quốc đại dương. Như vậy có thể nói, với Trung Quốc, Đơng Nam Á khơng chỉ có ý nghĩa về an ninh, mà cịn là lợi ích kinh tế. Thế nên, dù khơng có đồng minh an ninh chính thức nào trong khu vực như Mỹ, nhưng cách tiếp cận của Trung Quốc với khu vực lại phù hợp với mong muốn tập trung phát triển kinh tế của số đông các nước Đơng Nam Á, dài hạn và có tính kế thừa. Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) được ký hồi tháng 11/2020, mà Trung Quốc là 1 trong 15 thành viên, chính là cách thức Bắc Kinh sử dụng quyền lực mềm để gắn kết lợi ích của các nước trong khu vực với họ. Hiện Trung Quốc cũng đang thể hiện mong muốn gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CP-TPP) - một liên kết kinh tế kế thừa những thành quả của TPP mà Mỳ là người khởi xướng.

Nhận xét về cuộc đấu Mỳ - Trung trên bàn cờ địa chính trị khu vực, Sebastian Strangio đã đưa ra thuật ngữ “Dragon’s Shadow - Cái bóng của con Rồng”, phép ẩn dụ hàm ý chỉ ảnh hưởng hết sức lớn của Trung Quốc đối với Đông Nam Á. Đây là một thực tế khách quan của việc Trung Quốc - một sức mạnh đang lên, là thách thức số 1 đối với vị thế quốc gia số 1 của Mỹ - đang án ngữ trước ngưỡng cửa Đông Nam Á(14). Sự gần gũi về mặt địa lý, cùng với mối quan hệ vãn hóa-lịch sử và trọng tâm là kinh tế của Trung Quốc là cơ sở cho Trung Quốc đề ra tầm nhìn về một “Cộng đồng chung vận mệnh” với Đông Nam Á trong một trật tự khu vực có thứ bậc, trong đó các quốc gia nhỏ hơn phải chấp nhận vai trò lãnh đạo và vị trí trung tâm của Bắc Kinh như một lẽ tự nhiên.

Từ bên kia Thái Bình Dương, kể từ khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ đã tìm cách thách thức “sự chuyên chế về địa lý” này bằng cách xây dựng ảnh hưởng của mình thơng qua ảnh hưởng kinh tế, sự hiện diện quân sự và một chiến lược lâu dài nhằm xác định tương lai của Mỹ với Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Cách đây một thập kỷ, Ngoại trưởng Mỳ khi đó là bà Hillary Clinton đã tuyên bố rằng: “Chúng tôi là một cường quốc thường trực ở châu Á - không chỉ là một cường quốc ngoại giao hay quân sự, mà còn là một cường quốc kinh tế. Và chúng tôi sẽ tiếp tục hiện diện tại đây”. Trong bối cảnh Chính quyền Biden sẽ thiết lập chính sách “Xoay trục sang châu Á phiên bản 2.0” của riêng mình, định hướng chiến lược này sẽ tiếp tục được thúc đẩy khi Mỳ công khai coi Trung Quốc là mối đe dọa an ninh số 1 đối với Mỹ.

Song dù được coi là một địa bàn chiến lược quan trọng trong cuộc cạnh tranh quyền lực Mỹ - Trung, nhưng Đông Nam Á vẫn chỉ là một mắt xích yếu trong chiến lược Ấn Độ

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>PHẠM<small> TIÉN</small> - <small>NGUYỄN ĐÌNH NGÂN</small></b>

Dương - Thái Bình Dương của Chính quyền Biden, nhất là khi Washington đã có thêm các cơng cụ như QUAD hay AUKUS. Vị thế trung tâm của Đông Nam Á và ASEAN, với Mỹ, sẽ chỉ mang ý nghĩa địa lý. Báo cáo Chiến lược An ninh quốc gia Mỹ lần đầu tiên được Nhà Trắng công bố kể từ khi ông J.Biden lên nắm quyền đã chi tập trung nhấn mạnh vào việc hợp tác của Mỹ với các đồng minh trong QUAD và AUKUS đê giải quyết các thách thức mang tính thế kỷ đối với vị thế của Mỹ, cũng như những vấn đề toàn cầu khác. ASEAN vẫn nằm trong toan tính của Mỹ về một FOIP, nhưng bị lu mờ hoàn toàn trước những vấn đề mà EU đang gặp phải do tác động từ “Chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga tại Ukraine. Điều đó cho thấy cường quốc tồn cầu này rất dễ bị phân tâm bởi những vấn đề khu vực khác, khiến chiến lược trọng tâm bị sao lãng. Mỹ có đề cập đến IPEF như một bước đi để hồn tất chiến lược FOIP của mình, nhưng khơng một thành viên nào của ASEAN được nhắc đến(l5).

Còn với Trung Quốc, sự hiện diện của nước này tại khu vực là một vấn đề thực tế, là ưu tiên hàng đầu trong văn hóa quyền lực để thúc đẩy ảnh hường của Trung Quốc ra thế giới thông qua các vịng trịn đồng tâm, trong đó Đơng Nam Á là vòng tròn gần tâm nhất. Hơn nữa, khi sự tiếp nhận và nhận thức về ảnh hưởng của Trung Quốc đã xấu đi ở các nước phương Tây, thì Đơng Nam Á chính là mục tiêu chính của chiến dịch “tấn công quyến rũ” từ Trung Quốc.

Các Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phịng Trung Quốc đã có nhiều cuộc hội đàm ngoại giao trực tiếp với các đổi tác Đông Nam Á ngay cả trong thời gian đại dịch bệnh Covid-19 đang hồnh hành. Nó khiến việc bay tới các nước tham dự các cuộc gặp trực tiếp càng có nhiều ý nghĩa hơn. Điều này thể hiện cam kết và đầu tư kiên trì vào việc xây dựng mối quan hệ, bất chấp mọi rào cản hiện hữu từ những hạn chế do đại dịch gây ra.

Nếu cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc tại Đông Nam Á là một cuộc đua marathon, kể từ khi ông J.Biden lên nắm quyền, thi Bắc Kinh đã vượt lên trước một bước. Tháng 6/2021, các Bộ trưởng Ngoại giao Đông Nam Á đã bay đến Trùng Khánh để dự hội nghị đặc biệt ASEAN - Trung Quốc với ông Vương Nghị. Tiếp đến 11/2021, Hội nghị Trực tuyến cấp cao đặc biệt ASEAN - Trung Quốc nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ đối thoại giữa hai bên, Chủ tịch Tập Cận Bình đã thông báo về việc nâng cấp quan hệ ASEAN - Trung Quốc lên mức đối tác chiến lược toàn diện. Trong khi trước đó, ngày 25/5/2021, ơng Blinken đã khơng thể tham dự hội nghị đặc biệt Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN - Mỹ trực tuyến do chính Washington đề xuất vì sự cố liên lạc trên máy bay khi ông trên đường đến Trung Đông(16). Bình luận về cuộc gặp bị hỗn với ơng Blinken, một nhà ngoại giao ASEAN cho biết: “Nó nhắc nhở chúng tơi rằng các ưu tiên của Mỹ là ở đâu”(17>. Nói cách khác, khơng phải siêu cường tồn cầu thinh thoảng bị phân tâm, đây

<b>50<small>NGHIÊN </small>CỨUTRUNG <small>QUÓC số </small>12 (256) - <small>2022</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i><b><small>Đông </small>Nam Ả<small> trong bàn cờ</small> địa <small>chiếnlược...</small></b></i>

chính xác là một lời nhắc nhở về trật tự thứ bậc lâu đời trong chương trình nghị sự về chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Đơng Nam Á.

Trước sự “hờn dồi” của các đối tác Đông Nam Á, tại Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN diễn ra lần đầu tiên tại Washington DC hồi 5/2022, sau thông báo về việc Mỹ - ASEAN cam kết thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, Tồng thống J.Biden cũng đã tuyên bố hồ trợ 150 USD cho các dự án hạ tầng cơ sở ở ASEAN. Khoản vốn này cũng rất tốt, nhất là trong bối cảnh hàng hoạt chính phủ trong khu vực đang phải thắt lưng buộc bụng để đối phó với nguy cơ suy thối kinh tế, nhưng mức hồ trợ này cịn kém xa mức độ đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN thơng qua BR1. Tuy nhiên, đối với ASEAN, thì việc được đảm bảo an ninh cũng quan trọng không kém nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế.

Theo Báo cáo Khảo sát thực trạng Đông Nam Á năm 2021 do Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS-Yusof Ishak) thực hiện, có 68,6% trong số 1.008 người được hỏi kỳ vọng sự can dự của Mỹ ở Đông Nam Á sẽ tăng lên dưới thời ông J.Biden, trái ngược hẳn với con số 77% cho rằng mức độ can dự của Mỹ đã giảm dưới thời cựu Tổng thống D. Trump trong cuộc khảo sát năm 2020(18).

Sẽ là không khôn ngoan nếu giới hoạch định chính sách ở Nhà Trắng để những quan điểm thiện chí này dần hao mịn trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng không hồi kết và bất ổn khó lường xảy ra như hiện nay. Rốt cuộc, tuyên bổ về sự hiện diện thường trực của Mỹ tại Đơng Nam Á phải có tính ổn định, lâu dài và phù họp với các hành động cụ thể của nước này.

ASEAN với phương thức của mình cũng đã nhiều lần tuyên bố không muốn phải lựa chọn Mỹ hay Trung Quốc. Cà hai đều có ảnh hưởng và vai trò quan trọng đối với hòa binh, ổn định và sự thịnh vượng của khu vực. Theo Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long, xung đột Mỹ - Trung nếu xảy ra sẽ là thảm họa đối với thế giới nói chung và khu vực nói riêng. Vai trò là mỏ neo đảm bảm an ninh của Mỹ là hết sức quan trọng. Tương tự, thế giới và khu vực cũng cần và có nhu cầu trong hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Lẽ đương nhiên, để họp tác kinh tế diễn ra sn sẻ thì cần phải có mơi trường đảm bão về an ninh,... “Đảm bảo cho mọi người đều được hưởng quyền tự do hàng hải tuyệt đối ở Biển Đơng là chìa khóa để bảo vệ các vùng biển quốc tế trên toàn cầu”(19).

<b>3. Hệ quả và hàm ý chính sách</b>

Lịch sử thế giới đã chứng kiến hai cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa. Hai cuộc chuyến giao đó liên quan tới sự trồi dậy của phương Tây. Đó là châu Âu hồi thế kỷ XV, XVI và Mỹ từ sau Thế chiến thứ nhất, đạt tới đỉnh cao quyền lực vào những năm 90 thế kỷ XX và bắt đầu có dấu hiệu suy giảm vào năm 2008. Sự chuyển giao lần thứ ba này đang diễn ra theo hướng dịch chuyển trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đơng, từ đó dẫn tới sự thay đổi

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b><small>PHẠM TIÉN</small> - NGUYÊNĐÌNH <small>NGÂN</small></b>

trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự chuyến dịch lần thứ ba này đã và đang tác động đến quan hệ quốc tế, đến xu hướng tập hợp lực lượng không chỉ trong phạm vi các khu vực mà biến động sâu sắc tới toàn cầu. Trong bối cảnh như vậy, sự cọ sát và cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược nhằm giành ưu thế giữa Mỹ và Trung Quốc càng quyết liệt, tác động sâu rộng đến an ninh, chính trị thế giới nói chung và khu vực nói riêng.

Với mục tiêu duy trì vị the siêu cường duy nhất, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu, trong đó trọng tâm chiến lược được đặt vào khu vực Án Độ Dương - Thái Bình Dương. Với Trung Quốc, dự án thế kỷ BRI không xác định không gian và mục tiêu cụ thể, nhưng chắc chắn rằng để trở thành cường quốc toàn cầu, trước hết họ phải giành thắng lợi tại khu vực họ có ưu thế về địa lý, văn hóa và dân số. Theo đó, bằng nhiều biện pháp kết họp, Trung Quốc sẽ gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á và Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với Mỳ ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Tiến bước xa hơn, Trung Quốc đẩy mạnh thực thi chiến lược BRI theo các tiêu chí khác nhau như Con đường Y tế, Con đường số, Con đường Xanh nhằm thích ứng với những thay đổi của Mỹ và đồng minh trong việc nâng cao tính hiệu quả của các dự án hạ tầng; tham gia và thúc đẩy nhóm nước kinh tế mới nổi (BRICS) và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), hướng tới xây dựng cơ chế hợp tác lấy Trung Quốc làm trung tâm. Căng thẳng do va đập chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc do vậy sẽ càng gay gắt, nhất là tại khu vực trung tâm của chiến lược FOIP: Đông Nam Á với tiêu điểm là eo biển Đài Loan, Biển Đông và eo biển Malacca.

Tình hình đó dẫn tới xu hướng liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng và chạy đua vũ trang mang tính đối đầu có chiều hướng gia tăng khu vực. Trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN cần tiếp tục giữ và khai thác vị trí địa chiến lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ trong quan hệ với các nước lớn. ASEAN ưu tiên triển khai tầm nhìn 2025 và các kế hoạch hợp tác trên ba trụ cột chính trị, kinh tế và vãn hóa -xã hội; thu hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường đoàn kết nội khối; tăng cường quan hệ đối ngoại với tất cả các đối tác ngồi khu vực, trong đó có Nga và EU.

Tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Binh Dương, cục diện khu vực mới với sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ, sự lớn mạnh của Trung Quốc và sự dính líu ngày càng sâu vào các vấn đề khu vực của các cường quốc trên thế giới mở ra thời cơ để các nước trong khu vực, trong đó có ASEAN phát triển quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ cũng như với các cường quốc khác, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho xu thế hịa bình, hợp tác và phát trien. ASEAN - một tập họp của các quốc gia nhỏ và trung bình tại Đơng Nam Á, tuy sẽ gặp khơng ít thách thức, nhưng nhiều khả năng vẫn sẽ tiếp tục là nhân tố thúc đẩy hợp tác khu vực, vì:

<i>Thứ nhất, sự </i>nghi kỵ và thiếu niềm tin chính trị giữa các nước lớn tạo điều kiện cho ASEAN đóng vai trị “trung tâm” trong việc xây dựng các cơ chế họp tác khu vực. Các

<b>52<small>NGHIÊN </small>CỨU <small>TRUNG QUÓC số</small> 12 (256) - <small>2022</small></b>

</div>

×