Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

lvts 2012 kiến trúc làng nghề gốm bầu trúc trong chiến lược xây dựng nông thôn mới tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.38 MB, 161 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>DƯƠNG THỊ ANH THẢO </b>

<b>KIẾN TRÚC LÀNG NGHỀ GỐM BẦU TRÚC TRONG CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI </b>

<b>TỈNH NINH THUẬN </b>

Chuyên ngành: KIẾN TRÚC

<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC </b>

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

<b> PGS.TS.KTS NGUYỄN KHỞI </b>

TP.HỒ CHÍ MINH 2012

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small> </small>

<b>LỜI CẢM ƠN </b>

<i>Trước hết, tác giả xin phép được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS.KTS NGUYỄN KHỞI, người thầy đã tận tình hướng dẫn và cho tơi những ý kiến quý báu trong suốt quá trình thực hiện luận văn. </i>

<i>Xin gởi lời cảm ơn tới quý thầy cô giáo , những người đã truyền đạt kiến thức cho tác giả trong suốt hai năm cao học vừa qua. </i>

<i>Xin cảm ơn Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm, các anh chị trong Sở Xây Dựng, Sở Văn hóa thể thao và Du lịch, Sở Công Thương cùng những người con của làng gốm Bầu Trúcđã nhiệt tình giúp đỡ về mặt tư liệu. </i>

<i>Sau cùng xin cảm ơn toàn thể trường ĐH. KIẾN TRÚC TP.HCM, GIA ĐÌNH, các bậc đàn anh, bạn bè đã hết lòng giúp đỡ và động viên trong q trình tơi thực hiện luận văn này. </i>

<i><b>Dương Thị Anh Thảo </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small> </small>

TTCN&LN Tiểu thủ công nghiệp và Làng nghề

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small> </small>

<b>DANH MỤC BẢNG BIỂU </b>

<i>Bảng 1.1 : Phân bố dân cư Chăm theo vùng tôn giáo </i>

<i>Bảng 2.1 :Ma trận SWOT định hướng chiến lược phát triển làng nghề gốm Bầu Trúc – Ninh Thuận</i>

<b>DANH MỤC HÌNH ẢNH </b>

<i>Hình 1.1a : Vị trí làng gốm Bầu Trúc trên Bản đồ Hành chính tỉnh Ninh Thuận Hình 1.1b : Vị trí thị trấn Phước Dân trên Bản đồ Hành chính huyện Ninh Phước Hình 1.1c : Tổng thể làng gốm Bầu Trúc nhìn từ vệ tinh </i>

<i>Hình 1.2a : Trung tâm hướng nghiệp Ninh Phước Hình 1.2b : Trường THPT An Phước </i>

<i>Hình 1.2c : Trường Tiểu học Vĩnh Thuận </i>

<i>Hình 1.3 : Sơ đồ q trình chuyển hóa của làng nghề Việt Nam Hình 1.4a : Lễ Raja Nagar </i>

<i>Hình 1.4b : Lễ cưới người Chăm Bàlamơn Hình 1.4c : Lễ nhập Kút người Chăm Bàlamơn Hình 1.5 : Lễ hội Katê </i>

<i>Hình 1.6 : Quy trình làm gốm của người Chăm làng Bầu Trúc </i>

<i>Hình 1.7a : Nước thải trong sản xuất chưa được xử lý đổ ra Kênh Nam </i>

<i>Hình 1.7b : Gốm được nung lộ thiên trong khuôn viên nhà gây ơ nhiễm khơng khí và nhiệt độ </i>

<i>Hình 1.7c : Ý thức của người dân chưa cao gây ơ nhiễm mơi trường Hình 1.8a : Đoạn Quốc lộ 1A qua thị trấn Phước Dân </i>

<i>Hình 1.8b : Tỉnh lộ 703, đọan qua làng gốm Bầu Trúc </i>

<i>Hình 1.8c : Các trục đường Đông- Tây và Bắc-Nam trong làng , Đường vào ngõ, xóm ngập nước khi mưa </i>

<i>Hình 1.8d : Đường dây điện vào các ngõ, xóm </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small> </small>

<i>Hình 1.11 : Khuôn viên truyền thống của người Chăm Ninh thuận Hình 1.12 : Nhà trưng bày và biểu diễn gốm Chăm </i>

<i>Hình 1.13 : Đền thờ Po Klong Chan Hình 1.14 : Đền làng Bầu Trúc Hình 1.15 : Cổng làng gốm Bầu Trúc Hình 1.16 : Thực trạng kiến trúc nhà ở </i>

<i>Hình 1.17 : Sơ đồ biến đổi kết cấu bộ khung nhà người Chăm Ninh Thuận Hình 1.18a : Thực trạng kiến trúc nhà bà Đàng Thị Phan </i>

<i>Hình 1.18b : Thực trạng kiến trúc nhà ơng Vạn Quan Phú Đoan Hình 1.18c : Thực trạng kiến trúc nhà ơng Chang </i>

<i>Hình 2.1 : Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 </i>

<i>Hình 2.2 : Định hướng không gian phát triển du lịch 2030 Hình 2.3a : Ma trận cụm ngành ưu tiên cho Ninh Thuận Hình 2.3b : Các cụm ngành ưu tiên phát triển </i>

<i>Hình 2.4 : Các tác nhân ảnh hưởng đến việc bảo tồn, cải tạo và phát triển kiến trúc làng nghề gốm Bầu Trúc </i>

<i>Hình 2.5a : Làng nghề trong mối tương tác giữa đô thị và nơng thơn </i>

<i>Hình2.5b : Sơ đồ vị trí văn hóa làng nghề LNTT trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại </i>

<i>Hinh 2.8 : Kinh nghiệm làng nghề Nagan (Such’on – Cholla –Hàn Quốc) Hình 2.9 : Kinh nghiệm làng nghề gốm Bát Tràng – Hà Nội </i>

<i>Hình 2.10 : Kinh nghiệm làng gốm Thanh Hà – Hội An </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>MỤC LỤC </b>

<i><b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 1 </b></i>

1. Đặt vấn đề ... 1

2. Lịch sử vấn đề ... 4

3. Mục tiêu nghiên cứu ... 7

4. Giới hạn nghiên cứu... 8

5. Phương pháp nghiên cứu ... 8

<b>CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ GỐM BẦU TRÚC-NINH THUẬN ... 9 </b>

<i><b>1.1. Khái quát về làng nghề gốm Bầu Trúc – Ninh Thuận ... 9 </b></i>

1.1.1. Tên gọi, địa danh ... 9

1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng nghề gốm Bầu Trúc ... 9

1.1.3. Điều kiện tự nhiên và xã hội ... 10

<i>1.1.3.1. Điều kiện tự nhiên ... 10 </i>

<i>1.1.3.2. Điều kiện xã hội ... 11 </i>

1.1.4. Đời sống và hoạt động sản xuất ... 12

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>1.2.3.2. Kiến trúc cơng trình cơng cộng ... 20 </i>

<i>1.2.3.3. Kiến trúc nhà ở ... 22 </i>

<i>1.2.3.4. Không gian sản xuất ... 24 </i>

<i><b>1.3. Những giá trị đặc trưng của làng nghề gốm Bầu Trúc ... 25 </b></i>

1.3.1. Giá trị lịch sử ... 25

1.3.2. Giá trị nghệ thuật ... 26

1.3.3. Giá trị kiến trúc ... 27

1.3.4. Giá trị văn hóa – xã hội ... 27

<b>CHƯƠNG II: CƠ SỞ KHOA HỌC NHẰM BẢO TỒN, CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC LÀNG NGHỀ GỐM BẦU TRÚC TRONG CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG NÔNG THƠN MỚI TỈNH NINH THUẬN... 30 </b>

<i><b>2.1. Vai trị và tiềm năng phát triển làng nghề gốm Bầu Trúc ... 30 </b></i>

2.1.1.Vai trò làng nghề gốm Bầu Trúc trong chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội Tỉnh Ninh Thuận ... 30

2.1.2. Đánh giá tiềm năng phát triển làng nghề (Xem bảng 2.1) ... 31

<i>2.1.2.1. Những điểm mạnh nổi bật (S – Strengths) ... 31 </i>

<i>2.1.2.2. Những điểm yếu chính (W – Weaknesses) ... 31 </i>

<i>2.1.2.3. Cơ hội phát triển (O – Opportunities)... 32 </i>

<i>2.1.2.4. Nguy cơ đối với sự phát triển (T – Threats) ... 33 </i>

<i><b>2.2. Phương hướng phát triển làng nghề ... 34 </b></i>

2.2.1. Phương hướng phát triển làng nghề ... 34

<i>2.2.1.1. Phát triển làng nghề gắn với xây dựng nông thôn mới ... 34 </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i><b>2.3. Một số tác nhân ảnh hưởng đến việc bảo tồn, cải tạo và phát triển kiến trúc </b></i>

<i><b>làng nghề gốm Bầu Trúc theo định hướng nông thôn mới ... 39 </b></i>

2.3.1. Các yếu tố khách quan... 39

<i>2.3.1.1. Điều kiện tự nhiên và khí hậu ... 39 </i>

<i>2.3.1.2. Yếu tố Văn hóa – Xã hội ... 39 </i>

<i>2.3.1.3. Tập quán trong cư trú và sản xuất ... 40 </i>

<i>2.3.1.4. Yếu tố kinh tế thị trường ... 40 </i>

<i>2.3.1.5. Yếu tố vốn cho sản xuất ... 41 </i>

<i>2.3.1.6. Chính sách và vai trị của các cơ quan chức năng ... 41 </i>

2.3.2. Các yếu tố chủ quan ... 42

<i>2.3.2.1. Con người và kỹ thuật ... 42 </i>

<i>2.3.2.2. Trang thiết bị và không gian sản xuất ... 42 </i>

<i>2.3.2.3. Cơ sở hạ tầng và nguồn nguyên vật liệu ... 43 </i>

<i>2.3.2.4. Quy chế và tâm lý làng nghề ... 43 </i>

<i><b>2.4. Vấn đề bảo tồn, cải tạo và phát triển kiến trúc làng nghề gốm Bầu Trúc ... 44 </b></i>

2.4.1. Vấn đề bảo tồn các giá trị của làng nghề và biện pháp kỹ thuật trong công tác bảo tồn ... 44

2.4.2. Vấn đề cải tạo môi trường làng nghề ... 47

2.4.3. Vấn đề cải tạo kiến trúc cảnh quan làng nghề ... 48

2.4.4. Vấn đề cải tạo kiến trúc làng nghề ... 48

2.4.5. Vấn đề về phát triển bền vững làng nghề truyền thống ... 49

2.4.6. Vấn đề phát triển đô thị và nông thôn ... 50

<i><b>2.5. Các quan điểm du lịch văn hóa phục vụ cho chiến lược phát triển du lịch làng nghề Tỉnh Ninh Thuận ... 51 </b></i>

2.5.1. Khái niệm du lịch văn hóa ... 51

2.5.2. Thực trạng và nhu cầu du lịch văn hóa Tỉnh Ninh Thuận ... 52

2.5.3. Tiềm năng và khả năng liên kết du lịch văn hóa giữa các tuyến điểm du lịch trong toàn Tỉnh và trong khu vực ... 52

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

2.5.4. Tầm quan trọng của du lịch văn hóa làng nghề Bầu Trúc đến sự phát triển

kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận ... 54

<i><b>2.6. Một số kinh nghiệm về cải tạo và phát triển làng nghề truyền thống ... 55 </b></i>

2.6.1. Kinh nghiệm nước ngoài ... 55

<i>2.6.1.1. Kinh nghiệm Borsarng – Sankampaeng (Chiang Mai – Thái Lan) ... 55 </i>

<i>2.6.1.2. Kinh nghiệm làng Nagan (Such’on - Cholla – Hàn Quốc) ... 56 </i>

2.6.2. Kinh nghiệm trong nước ... 57

<i><b>3.1. Giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa làng nghề gốm truyền thống Bầu Trúc ... 60 </b></i>

3.1.1. Giải pháp bảo tồn bản sắc văn hóa làng nghề ... 60

<i>3.1.1.1. Giá trị văn hóa vật thể ... 60 </i>

<i>3.1.1.2. Giá trị văn hóa phi vật thể... 60 </i>

3.1.2. Giải pháp phát triển làng nghề ... 63

<i>3.1.2.1. Giải pháp phát triển kinh tế, sản xuất ... 63 </i>

<i>3.1.2.2. Giải pháp phát triển làng nghề gắn với dịch vụ - du lịch ... 66 </i>

<i><b>3.2. Giải pháp cải tạo môi trường làng nghề gốm Bầu Trúc ... 68 </b></i>

3.2.1. Giải pháp cải tạo môi trường sản xuất... 68

3.2.2. Giải pháp cải tạo hạ tầng kỹ thuật làng nghề ... 69

<i><b>3.3. Giải pháp cải tạo kiến trúc cảnh quan làng nghề gốm Bầu Trúc ... 71 </b></i>

3.3.1. Giải pháp về cây xanh, mặt nước ... 71

3.3.2. Giải pháp về nghệ thuật tạo hình ... 72

<i><b>3.4. Giải pháp về kiến trúc làng nghề gốm bầu Trúc ... 72 </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

3.4.1. Giải pháp về cấu trúc không gian làng nghề ... 73

3.4.2. Giải pháp về kiến trúc cơng trình công cộng ... 74

3.4.3. Giải pháp cải tạo kiến trúc nhà ở ... 74

3.4.4. Giải pháp cải tạo không gian sản xuất ... 75

<i><b>3.5. Kết luận Chương III ... 76 </b></i>

<i><b>PHẦN KẾT LUẬN ... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i><b>PHẦN MỞ ĐẦU </b></i>

<b>1. Đặt vấn đề </b>

Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, nghề và làng nghề truyền thống là những biểu tượng văn hóa bền bỉ, giàu sức sống, mang đậm bản sắc riêng của mỗi vùng miền. Làng nghề không chỉ là nơi tập trung sản xuất thuần túy với nhiều sản phẩm thủ công, mỹ nghệ tồn tại hàng trăm, hàng nghìn năm mà cịn là cả một tổng thể mơi trường văn hóa - kinh tế - xã hội với kinh nghiệm, công nghệ truyền thống lâu đời. Nơi đây hội tụ biết bao thế hệ nghệ nhân, thợ thủ cơng với đơi bàn tay khéo léo đã gìn giữ và phát huy tinh hoa nghệ thuật truyền thống cho hôm nay và cả mai sau bằng cách truyền bí quyết, kỹ thuật nghề nghiệp từ đời này sang đời khác, tạo nên nét độc đáo riêng cho mỗi làng nghề.

Cứ mỗi một cộng đồng dân tộc trên đất nước ta đều có kho tàng di sản văn hóa truyền thống riêng biệt của mình. Dân tộc Chăm cũng khơng ngoại lệ, suốt chiều dài lịch sử, họ đã tạo ra một nền văn hoá ChămPa đa sắc thái, thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau như kiến trúc, điêu khắc, văn hố – xã hội, tơn giáo – tín ngưỡng...với các nghề thủ công khá phát triển như chế tác cơng cụ, làm gốm, dệt vải, đóng tàu thuyền,… Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà các nghề thủ công truyền thống của người Chăm đã dần bị mai một và cho đến nay chỉ còn nghề dệt và nghề làm gốm vẫn còn được bảo lưu, phát triển. Trong đó, làng nghề gốm Bầu Trúc được biết đến như là một trong hai làng gốm cổ xưa nhất Đông Nam Á, gắn liền với sự hình thành và phát triển lâu đời, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc của cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận. Gốm cổ truyền của người Chăm nơi đây, ngoài đặc điểm riêng mang tính địa phương, nó cịn thể hiện những đặc trưng chung của loại hình gốm cổ vùng Đơng Nam Á. Những tác phẩm gốm ra đời, tuy mộc mạc, nghèo nàn về kiểu dáng nhưng cái hồn cổ của nó thì khơng thể lẫn lộn được với bất cứ dân tộc nào khác; chính điều đó đã tạo nên giá trị độc đáo và sức hút mãnh liệt cho gốm Chăm Bầu Trúc. Hơn thế nữa, chính điều kiện địa sinh thái, địa văn hóa của vùng đất Ninh Thuận đã tạo nên sự khác biệt cho kiến trúc

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

làng nghề gốm Bầu Trúc, thể hiện qua cấu trúc không gian làng, tổ chức không gian ở, không gian sản xuất, không gian cộng đồng…làm phong phú thêm kho tàng kiến trúc đa tộc người của Việt Nam; cùng với hệ thống lễ hội, phong tục tập quán, nếp sống đậm nét dân gian, giàu tính nhân văn đã hình thành nên bản sắc văn hóa độc đáo của người Chăm Bầu Trúc. Tất cả các yếu tố trên không chỉ là tài sản riêng của người Chăm mà còn là kho báu của cả dân tộc ta, chúng cần được gìn giữ, tơn tạo và phát triển.

Trong những năm gần đây, tỉnh Ninh Thuận đã có nhiều thay đổi đáng kể cả về diện mạo không gian đô thị lẫn phương hướng phát triển kinh tế, khiến cho làng nghề gốm Bầu Trúc được đặt vào một vị thế mới, không chỉ là một làng nghề đơn thuần mà nó cịn hàm chứa nhiều giá trị lớn lao cần được khai thác và phát triển đúng mực. Nhất là trong bối cảnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) đất nước hiện nay, khi Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Tam nông), xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới (NTM) đến năm 2020. Xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương và để cụ thể hóa NQ (Nghị Quyết) Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, ngày 24-5-2011, Tỉnh ủy đã ban hành NQ số 02-NQ/TU về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng thực hiện chủ trương xây dựng NTM tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020. Đó là q trình tất yếu nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động, của cải vật chất của tỉnh nhà nói riêng và cho xã hội nói chung. Muốn vậy thì việc thúc đẩy, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn, xây dựng NTM để thu hút và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nông dân gắn với việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống địa hương thông qua các sản phẩm phục vụ sự nghiệp phát triển du lịch, cũng như bảo vệ môi trường sinh thái bền vững là vô cùng cần thiết.

Mặc dầu trong thời gian qua, nhiều khu vực nông thôn ở Ninh Thuận đã dần đơ thị hóa, đời sống người dân cũng có nhiều thay đổi. Theo đó thì nhiều vùng q, kể cả làng nghề Bầu Trúc như được thay da đổi thịt. Nhưng vẫn còn nhiều bất cập trong quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

hoạch – kiến trúc, cảnh quan – môi trường, cơ sở hạ tầng,… dẫn đến chất lượng cuộc sống của người Chăm nơi đây chưa được nâng cao đúng mức. Những ngôi nhà tranh, vách đất, những khuôn viên đông đúc biểu trưng cho một đại gia đình mẫu hệ Chăm đã dần nhường chỗ cho những ngôi nhà bê tông vững chãi với lối kiến trúc của thành thị hay nói đúng hơn là của người Kinh một cách tùy tiện; không gian sản xuất hình thành một cách tự phát với dây chuyền chồng chéo, môi trường sản xuất không đảm bảo cho sức khỏe người dân, qui mô sản xuất nhỏ lẻ thiếu định hướng và thị trường tiêu thụ ổn định, …Để Bầu Trúc trở thành làng nghề phát triển bền vững, điểm du lịch văn hóa thu hút và Ninh Thuận là một trong những điểm đến của Việt Nam trong tương lai thì việc nghiên cứu bảo tồn, cải tạo và phát triển làng nghề là việc cần thiết phải thực hiện ngay từ bây giờ. Phải làm sao để bảo tồn, cải tạo và phát triển kiến trúc làng nghề gốm Bầu Trúc trong môi trường đô thị hoá mà thực chất là hiện đại hoá, hợp lý hoá các thành phần trong cơ cấu làng cho phù hợp với cuộc sống văn minh mà vẫn gìn giữ và phát huy được các giá trị truyền thống lâu đời vốn có.

Là một nước đang phát triển, nền kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Sự khôi phục và phát triển của các làng nghề nước ta trong những năm gần đây có ý nghĩa tích cực về kinh tế - xã hội, đặc biệt trong tiến trình CNH - HĐH tỉnh Ninh Thuận nói riêng và đất nước nói chung để hội nhập cùng

<i>thế giới. Do đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu về Kiến trúc làng nghề gốm Bầu Trúc trong </i>

<i>chiến lược xây dựng nông thôn mới tỉnh Ninh Thuận là rất sát thực và cần thiết. </i>

Xây dựng NTM là một chương trình tổng thể phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phịng ở các địa phương, là cốt lõi của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 26 về Tam nơng. Đây chính là một cuộc cách mạng phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cùng với sự tham gia của người dân. Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM có phạm vi khá rộng, phản ánh khá bao quát tồn bộ diện mạo nơng thơn sau khi trở thành NTM. Tuy nhiên, trong cơng trình nghiên cứu này, tác giả chỉ xin giải quyết

<b>những vấn đề thuộc phạm vi ngành học của mình. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>2. Lịch sử vấn đề </b>

Người Chăm là một dân tộc thiểu số trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Trong suốt chặng đường lịch sử, dân tộc ấy đã để lại dấu ấn của một nền văn minh độc đáo, đa dạng trên nhiều bình diện. Vì vậy, trong những năm qua, vấn đề văn hóa, con người cũng như vương quốc ChămPa được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước

<i>quan tâm nghiên cứu. Tính đến năm 2002, trong cuốn “ChămPa – Tổng mục lục các </i>

<i>cơng trình nghiên cứu”, Nguyễn Hữu Thông và các tác giả ở Phân viện nghiên cứu Văn </i>

hóa Nghệ thuật miền Trung đã thống kê được 2.278 cơng trình nghiên cứu về văn hóa, con người và Vương quốc ChămPa [33]. Đồng thời qua tác phẩm trên, Lê Duy Đại và các tác giả thuộc Bảo tàng dân tộc học,Viện khoa học xã hội Việt Nam thống kê có hơn 800 cơng trình nghiên cứu được công bố nhưng phần lớn đều đi vào các lĩnh vực như

<i><b>ngôn ngữ, văn tự, lịch sử, khảo cổ[10],… </b></i>

Việc nghiên cứu về ChămPa từ trước đến nay cho thấy quá trình tiến triển theo từng giai đoạn khác nhau. Vào thời kỳ đầu, không thể không nhắc đến những cơng trình của người Pháp – những người đặt nền móng đầu tiên cho việc nghiên cứu về vương

<i>quốc ChămPa. Có thể lấy cuốn Le royaume du Champa (Vương quốc Champa) của G. </i>

Maspérolàm ví dụ[45]. Bản dịch cuốn sách dày 437 trang đánh máy, chủ yếu nói về lịch sử ChămPa, trong đó có 3 trang (trang 31-33) giới thiệu về kiến trúc, nhưng không đề cập đến nhà ở [10]. Bên cạnh đó, cịn nhiều cơng trình nghiên cứu khác nhưng đa phần liên quan đến văn hóa Chăm. Một số cơng trình đề cập đến kiến trúc nhưng chủ yếu là nghiên cứu kỹ thuật, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của các đền tháp, còn về kiến trúc và khuôn viên nhà ở truyền thống của người Chăm hầu như bị lãng quên.

Trong thời kỳ miền Nam dưới ách thống trị của Mỹ - Ngụy, có nhiều cơng trình nghiên cứu về ChămPa nhưng hầu hết chỉ tập trung vào vấn đề mẫu hệ, lịch sử…Thời

<i>kỳ này có cơng trình nghiên cứu Nhà người Chăm của Nguyễn Văn Luận với 12 trang, </i>

cũng chỉ nêu vài nét sơ lược với hai hình vẽ ngơi nhà (một ở miền Trung, một ở Châu Đốc – An Giang) và một số đặc điểm trong đời sống gia đình của hai nhóm người

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Chăm này[10]. Sau khi miền Nam được hoàn tồn giải phóng, việc nghiên cứu về người Chăm được chú trọng nhiều hơn với nhiều cơng trình cụ thể đề cập đến nhà ở

<i>truyền thống của người Chăm như Người Chăm ở Thuận Hải, Văn hóa Chăm, Hệ thống </i>

<i>cấu trúc làng Chăm Việt Nam, Bước đầu tìm hiểu về nhà cửa của đồng bào Chăm (Cam Pini) vùng Phan Rang – Thuận Hải…Trong các cơng trình nghiên cứu này, có đồ án tốt </i>

nghiệp đại học của Thành Phần về đề tài nhà cửa của đồng bào Chăm (Cam Pini) vùng Phan Rang – Thuận Hải nhưng cũng chỉ dừng lại ở bước đầu tìm hiểu và tập trung nghiên cứu Sang Ye (Nhà Tục). Từ năm 2001 đến năm 2006, được sự tài trợ của chính phủ Vương Quốc Na Uy, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã phục dựng khá đầy đủ khuôn viên truyền thống của người Chăm Ninh thuận cùng với bài nghiên cứu in trong

<i>cuốn Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam – Những ngôi nhà dân gian nhưng chúng chỉ </i>

mang tính chất giới thiệu về khu trưng bày ngồi trời của Bảo tàng. Bên cạnh đó, trong

<i>cuốn Nhà ở của người Chăm Ninh Thuận - Truyền thống và biến đổi do Lê Duy Đại </i>

chủ biên, đã phân tích khá đầy đủ, chi tiết về kiến trúc và những biến đổi của ngôi nhà ở. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này cũng chỉ phân tích chung về nhà ở của cộng đồng Chăm Ninh Thuận chứ chưa đi vào khai thác đặc trưng kiến trúc của một làng Chăm nào, nhất là với những làng Chăm có nghề làm gốm truyền thống như Bầu Trúc; những giải pháp mà các tác giả đưa ra cũng chỉ dừng lại ở mức độ bảo tồn làng, khuôn viên nhà truyền thống Chăm, cụ thể phải làm như thế nào thì chưa thấy đề cập đến.

<i>Ngồi ra, cũng có một đề xuất liên quan nhưng vẫn còn bỏ ngõ “ Nên chăng nhà văn </i>

<i>hóa của mỗi làng nên xây dưới dạng một khn viên truyền thống; trước mắt nên thực hiện ở hai làng nghề của người Chăm nổi tiếng hiện nay là làng gốm Bầu Trúc và làng dệt Mỹ Nghiệp…” [10] </i>

Đặc biệt hơn, về nghề và làng nghề gốm cổ truyền Bầu Trúc – một di sản văn hóa quý giá còn lại của người Chăm ở Ninh Thuận, trong những năm qua đã được các

<i>nhà khoa học như Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp đề cập trong cuốn Người </i>

<i>Chăm ở Thuận Hải, Sở văn hóa thơng tin Thuận Hải xuất bản, 1989; cuốn Văn Hóa </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i>Chăm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991,…nhưng các cơng trình trên chỉ đề </i>

cập đến làng và nghề gốm Chăm một cách sơ lược. Mãi đến năm 2000, Sakaya –

<i>Trương Văn Món đã nghiên cứu và cho ra đời cuốn Nghề gốm cổ truyền của người </i>

<i>Chăm Bầu Trúc – Ninh Thuận[21]; với nội dung chủ yếu mô tả khá tỉ mỉ về quy trình, </i>

cơng cụ, kỹ thuật, bí quyết nghề nghiệp, những nghi lễ, kiêng kỵ trong nghề gốm; những tác động của cơ chế thị trường cũng như đưa ra giải pháp để bảo tồn và phát triển nghề gốm của người Chăm Bầu Trúc. Tuy nhiên, giải pháp mà tác giả đã đưa ra chỉ mang tính lý thuyết; phải cải tạo và bảo tồn làng gốm ra sao, kết nối sản xuất với du lịch để phát triển làng nghề như thế nào,,…thì vẫn chưa được giải quyết cụ thể. Bên cạnh đó, cịn có các bài báo với nội dung liên quan đến làng nghề như bài của Sakaya –

<i>Trương Văn Món, Cịn đâu hồn cổ của gốm Chăm Bầu Trúc [24], bài đăng trong Tạp </i>

chí Xưa & Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Số 275 -276, Xuân 2007, trang 27, 28 và 30 với nội dung chính đề cập đến sự tác động của cơ chế thị trường làm phá vỡ

<i>hồn cổ gốm Chăm; bài của Phan Quốc Anh, Người chăm có một làng nghề cổ. Thư </i>

mục chuyên đề văn hóa Chăm, trang 24-25 có nội dung giới thiệu về làng gốm; bài

<i>Nghề làm gốm truyền thống của người Chăm ở Bầu Trúc – Ninh Thuận [22], được tổng </i>

hợp từ cơng trình nghiên cứu Nghề gốm cổ truyền của người Chăm Bầu Trúc – Ninh Thuận, Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Thơng Tin, Hà Nội, 2001 của chính tác giả Sakaya – Trương Văn Món. Ngồi những cơng trình khoa học nói trên cịn có nhiều bài báo, tạp chí, phóng sự truyền hình ở trung ương và địa phương cũng giới thiệu về nghề làm gốm của người Chăm làng Bầu Trúc.

Mặt khác, trong lĩnh vực kiến trúc và quy hoạch đô thị có thể kể đến một số đề tài liên quan đến làng nghề truyền thống và tiểu thủ công nghiệp như:

-<i> Luận văn thạc sĩ với đề tài “Quy hoạch bảo tồn và phát triển làng nghề truyền </i>

<i>thống ven đơ thị Hà Nội (Qua ví dụ làng gốm sứ Bát Tràng)” của KTS. Nguyễn </i>

Hà Cương, ĐH Kiến Trúc Tp.HCM, 1999.

- Luận văn thạc sĩ với đề tài “Quy hoạch bảo tồn và phát triển làng nghề truyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>thống Hội An phục vụ cho chiến lược phát triển du lịch miền Trung” của KTS. </i>

Phùng Phú Phong, ĐH Kiến Trúc Tp.HCM, 2004.

- Luận văn thạc sĩ với đề tài “Giải pháp cải tạo làng chài Hưng Lương theo định

<i>hướng phát triển du lịch thành phố Quy Nhơn” của KTS. Mai Lê Ngọc Hà, ĐH </i>

Kiến Trúc Tp.HCM, 2010.

Và còn một số đề tài tốt nghiệp kiến trúc sư khác của trường Đại học Kiến trúc Hà Nội và T.P Hồ Chí Minh cũng ít nhiều liên quan đến những vấn đề được giải quyết trong luận văn. Đó là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị để giúp tác giả đề ra được những mục tiêu thiết thực cho cơng trình nghiên cứu của mình.

<b>3. Mục tiêu nghiên cứu </b>

<i>Đề tài “Kiến trúc làng nghề gốm Bầu Trúc trong chiến lược nông thôn mới tỉnh </i>

<i>Ninh Thuận” được nghiên cứu với các mục tiêu tổng quát nhằm xác định công tác bảo </i>

tồn, cải tạo và phát triển kiến trúc làng nghề gốm truyền thống Bầu Trúc của người Chăm trong tình hình mới. Mục tiêu này được xem xét dựa trên tổng hòa các mối quan hệ giữa các yếu tố nội tại của bản thân làng nghề và giữa làng nghề với các vấn đề trong đô thị, giữa bảo tồn, cải tạo và phát triển, giữa truyền thống và hiện đại. Căn cứ vào đó, mục tiêu cụ thể, xuyên suốt của luận văn được xác định như sau:

- Một là, nhận định đầy đủ thực trạng, vai trò và tiềm năng của làng nghề gốm Bầu Trúc, đồng thời tìm kiếm và xác định được những giá trị cần được bảo tồn, cải tạo và phát triển của làng nghề phục vụ cho chiến lược NTM tỉnh Ninh Thuận.

- Hai là, xây dựng những cơ sở khoa học nhằm phục vụ công tác bảo tồn, cải tạo và phát triển làng nghề gắn với định hướng xây dựng NTM bằng con đường du lịch văn hóa.

- Ba là, đề xuất được những giải pháp nhằm bảo tồn, cải tạo và phát triển kiến trúc làng nghề gốm Bầu Trúc dựa trên cơ sở khoa học và thực trạng, tiềm năng vốn có của nó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>4. Giới hạn nghiên cứu </b>

- Đối tượng nghiên cứu được đề cập trong khuôn khổ bài luận văn này là kiến trúc làng nghề gốm Bầu Trúc – Ninh Thuận.

- Không gian nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi làng nghề gốm truyền thống Bầu Trúc tỉnh Ninh Thuận.

- Thời gian nghiên cứu tính từ thời điểm hiện tại đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>

<i><b>Bằng phương pháp khảo sát điền dã làng gốm Bầu Trúc để thấy được mọi khía </b></i>

cạnh trong đời sống của người Chăm nơi đây như lịch sử, văn hoá, đời sống, sản xuất, kiến trúc, lễ hội…từ đó có giải pháp cải tạo và phát triển làng nghề trong chiến lược xây dựng nông thôn mới tỉnh Ninh Thuận.

<i><b>Bên cạnh đó, phương pháp thu thập thơng tin từ các nguồn tư liệu giúp ta có cơ </b></i>

sở khoa học vững chắc, những thông tin đầy đủ, chuẩn xác về kinh tế xã hội, lịch sử,văn hóa, quy hoạch – kiến trúc của làng nghề gốm Bầu Trúc và cái nhìn tổng quan mọi khía cạnh của vấn đề nghiên cứu.

<i><b>Phương pháp phân tích, tổng hợp các dữ liệu trên cơ sở các phương pháp trên </b></i>

giúp ta nhận định và đánh giá vấn đề, nhằm đưa ra những luận cứ khoa học để giải

<b>quyết mục tiêu đề ra. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<b>CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ GỐM BẦU TRÚC-NINH THUẬN </b>

<i><b>1.1. Khái quát về làng nghề gốm Bầu Trúc – Ninh Thuận </b></i>

<b>1.1.1. Tên gọi, địa danh </b>

Làng Bầu Trúc hay cịn gọi là thơn Vĩnh Thuận có tên gốc theo địa danh Chăm

<i>là “ Paley Hamu Trok”, có nghĩa là “làng trũng”, nhơ ra ở cuối triền sông (palei – làng, </i>

<i>Hamu – ruộng, Trok – cuối hoặc lồi ra). “Paley Hamu Trok” định cư tại một cánh đồng </i>

ruộng trũng, đến năm 1964 (năm Giáp Thìn) ở Phan Rang xảy ra trận lũ lớn cuốn trơi tất cả nhà cửa, trâu bị… Vì vậy, người Chăm dời làng đến định cư tại một gò đất cao, cách làng cũ 3km về hướng Bắc, nằm cạnh một hồ nước lớn có nhiều cây Trúc nên gọi

<i>là Bầu Trúc (Tanaw Paran). Tuy nhiên, địa danh Bầu Trúc chỉ là tên gọi dân gian mà </i>

người Việt dùng để chỉ làng nghề gốm của người Chăm Ninh Thuận, còn tên hành chính là Vĩnh Thuận bắt đầu từ thời Minh Mạng (1832). Theo chiếu của vua ban thì người Chăm buộc phải thay đổi họ tên, địa danh làng xã theo âm Việt để thuận tiện trong việc quản lý hành chính. Ngày nay, làng này có ba tên gọi, tên gọi của người

<i>Chăm là “ Paley Hamu Trok”; tên của người Việt thường gọi là Bầu Trúc và tên trên </i>

giấy tờ hành chính là Vĩnh Thuận. Tuy nhiên hiện nay, làng này được biết đến với cái

<b>tên Bầu Trúc – làng gốm truyền thống của người Chăm Ninh Thuận.[21] 1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng nghề gốm Bầu Trúc </b>

Cũng như bao làng Chăm khác ở Ninh thuận, làng Bầu Trúc có quá trình hình thành và phát triển rất đa dạng phức tạp. Người Chăm Bầu Trúc thuộc dòng Chăm vùng

<i>núi và biển mà hiện nay họ còn biểu hiện rõ nét trong tục cúng tế tổ tiên dòng núi (atâu </i>

<i>cơk) và dòng biển (atâu tathik). Họ nhận mình là cư dân bản địa ở vùng châu thổ </i>

Panduranga- ChămPa cổ xưa, định cư ở đồng bằng làm lúa nước. Trong suốt thời gian xảy ra giao tranh giữa ChămPa và Đại Việt, nhất là vào thời Minh Mạng, chiến tranh liên miên, làng xóm bị xáo trộn, người Chăm phải ly tán vào rừng núi để lánh nạn. Đến thời Tự Đức họ được khoan hồng, lần lượt trở về cư trú tại các vùng đồng bằng, những gò ruộng cao và trồng lúa nước cho đến ngày nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Tên hành chính của làng Bầu Trúc là Vĩnh Thuận bắt đầu từ thời Minh Mạng. Từ thời Minh Mạng tính đến 1954 (chấm dứt thời Pháp thuộc) thì thơn này có lúc thuộc phủ Bình Thuận, Phủ Ninh Thuận, đạo Phan Rang. Từ 1954 – 1975, thời Mỹ - Ngụy bắt đầu từ đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, nền hành chính có sự thay đổi thì thơn Vĩnh Thuận lại thuộc xã Phước Hậu (Phước Hữu), quận An Phước, tỉnh Ninh Thuận[38]. Sau khi thống nhất đất nước (1975), theo chủ trương của Đảng – Nhà nước vào năm 1976 hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận sáp nhập thành tỉnh Thuận Hải thì Bầu Trúc vẫn giữ ngun tên gọi hành chính là thơn Vĩnh Thuận nhưng lại thuộc huyện An Sơn. Đến năm 1992 tỉnh Thuận Hải lại được chia tách thành hai tỉnh là Ninh Thuận và Bình Thuận. Từ đó đến năm 2000, địa danh hành chính thơn Vĩnh Thuận được đổi thành

<i>“Khu phố 7”, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận và tồn tại cho </i>

đến ngày nay

Hiện nay, người Chăm Bầu Trúc tự nhận là con cháu của Po Klong Chan – một quan cận thần của vua Chăm Po Klaong Giarai (1151-1205). Trong tâm thức của cư dân Chăm làng Bầu Trúc, Po Klong Chan không chỉ giúp họ thốt khỏi cảnh lầm than

<i>đói khổ, đưa họ đến định cư ở cánh đồng “Hamu Trok” mà cịn dạy dân đào đất sét làm </i>

gốm. Do đó, họ xem Po Klong Chan là tổ sư của nghề gốm, lập đền và tổ chức cúng tế long trọng vào dịp lễ Katê hàng năm(cuối tháng 9 đến tháng 10 dương lịch).[21]

<b>1.1.3. Điều kiện tự nhiên và xã hội 1.1.3.1. Điều kiện tự nhiên </b>

<b>a. Vị trí địa lý </b>

Thôn Bầu Trúc thuộc khu phố 7, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, nằm cạnh quốc lộ 1A, cách thành phố Phan Rang – Tháp Chàm 9km về hướng Nam. Phía Bắc giáp Kinh Nam; Phía Nam giáp thị trấn Phú Q; Phía Đơng giáp quốc lộ 1A (QL1A) và phía Tây giáp tỉnh lộ 703 (TL703).(Hình 1.1a, 1.1b, 1.1c)

<b>b. Khí hậu </b>

Khí hậu nơi đây chia ra làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

tháng 11 với trữ lượng mưa trung bình hàng năm rất thấp chỉ trên dưới 700mm/năm. Mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Số giờ nắng nóng rất cao cho nên nhiệt độ trung bình hàng năm từ 29 – 33<sup>0</sup>C và độ bốc hơi gấp 2 lần lượng mưa, thường gây ra tình trạng khơ hạn nghiêm trọng, gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất của người dân; Độ ẩm 80,3%/năm. Từ trung tuần tháng 10 đến tháng 4, có gió mùa Đơng Bắc và từ trung tuần tháng 4 đến trung tuần tháng 10 năm sau có gió Tây Nam. Hai ngọn gió trên, hàng năm đem lại nhiều mưa cho các tỉnh trong toàn quốc nhưng đến Ninh Thuận bị chắn bởi các ngọn núi cao xung quanh làm cho ngọn gió yếu dần, tạo khí hậu khơ và nóng [38].

<b>c. Địa chất - Thủy văn </b>

Thơn Bầu Trúc có đồng bằng nằm trọn trong lòng chảo được phù sa bồi tụ hàng năm, hình thành những mỏ đất sét mịn màng có độ dẻo cao, những dãi cát trắng mịn. Đó chính là những nguyên liệu chủ yếu tạo thành gốm Chăm Bầu Trúc mà không phải nơi nào ở Ninh Thuận cũng có được. Bên cạnh đó, nhờ phù sa bồi tụ mà đất đai nơi đây rất màu mỡ, thuận lợi cho nông nghiệp.

<b>1.1.3.2. Điều kiện xã hội a. Dân cư – Dân số </b>

Theo số liệu điều tra, tồn làng có khoảng 586 hộ, với 450 hộ Chăm và 3.226 nhân khẩu Chăm, còn lại là người Kinh. Đất thổ cư có 19 ha, bình quân 144 người/ km<sup>2</sup>. Làng có dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào. Dân số nam trong độ tuổi lao động là 1.052 người, chiếm 38,28% và nữ là 1.052 người, chiếm 42,52%. Trong tổng số dân trên có 3 Đảng viên, 30 Đoàn viên, 14 giáo viên cấp I,II; 2 bác sĩ, 2 cán bộ nghiên cứu văn hóa Chăm và 01 đại biểu quốc hội khóa X… [6],[21].

<b>b. Trình độ văn hóa </b>

Nằm trên địa bàn thơn Bầu Trúc có, 01 trường mầm non, 01 trường tiểu học Vĩnh Thuận, 01 trung tâm hướng nghiệp Ninh Phước (cấp huyện) và một trường cấp III An Phước (trường cấp huyện) có 20 phịng học, 1.000 học sinh. Đây là điều kiện thuận

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

lợi cho con em làng gốm Bầu Trúc có điều kiện nâng cao trình độ học vấn[6], [21].(Hình 1.2a , 1.2b , 1.2c)

<b>1.1.4. Đời sống và hoạt động sản xuất 1.1.4.1. Đời sống kinh tế </b>

Hoạt động kinh tế chủ yếu của làng Chăm Bầu Trúc là làm nông và làm gốm. Tuy nhiên, nghề nông thu nhập thấp, chỉ đủ trang trải qua ngày chứ khơng có số dư tích lũy. Vì vậy, để tăng thêm thu nhập trong gia đình, giải quyết thời gian nhàn rỗi trong nơng nghiệp, người Chăm Bầu Trúc còn làm gốm. Theo thống kê trong tồn làng hiện nay có 80% số hộ gắn bó với nghề gốm truyền thống và chủ yếu do phụ nữ đảm nhận, 20% hộ còn lại do phân cơng lại lao động trong q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đổi sang làm dịch vụ thương mại, trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc,... Nếu nghề nơng do đàn ơng đảm nhiệm thì nghề gốm do phụ nữ làm là chính. Ngồi ra, trong lúc nơng nhàn, đàn ơng cịn giúp phụ nữ làm gốm trong các khâu đào đất sét, tìm nguyên liệu để nung gốm, tiêu thụ gốm trên thị trường[21]. (Hình 1.3)

Hiện nay, làng Bầu Trúc đã thành lập được 4 tổ hợp tác sản xuất gốm truyền thống với sự tham gia của 95 hộ, tạo việc làm ổn định cho 350 lao động và thu hút mới 65 lao động. Mức sống của người dân địa phương ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, với sự xâm nhập ồ ạt của hàng công nghiệp trong cơ chế thị trường như hiện nay, cần có sự quan tâm cải tạo để phát triển làng nghề một cách hiệu quả[14].

<b>1.1.4.2. Đời sống văn hóa </b>

Lễ hội là một yếu tố không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Chăm Ninh Thuận nói chung và cư dân Chăm làng Bầu Trúc nói riêng. Nó phản ánh tồn bộ đời sống vật chất và tinh thần, gắn liền với mọi hoạt động của họ trong xã hội. Người Chăm có rất nhiều lễ hội lớn nhỏ khác nhau, mỗi lễ hội mang một sắc thái riêng và gắn

<i>với tín ngưỡng tơn giáo. Trong đó, Katê được xem như lễ hội lớn nhất vì nó chính là </i>

tấm gương phản chiếu những sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ di sản văn hóa

<b>Chăm đồ sộ mà họ tích lũy được trên chặng đường lịch sử gian truân của mình. Bên </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<i>cạnh đó, cịn có một hệ thống lễ nghi liên quan chu kỳ vòng đời con người như lễ cưới, </i>

<i>lễ tang, lễ nhập Kut…; các lễ hội như lễ Raja Nagar (lễ hội múa tống ôn đầu năm), lễ Raja Harei (lễ múa ban ngày), lễ Raja Praong (lễ múa lớn); các lễ nghi nơng </i>

nghiệp…Ngày nay, với chính sách bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc của Nhà nước các lễ hội của người Chăm được tổ chức một cách tốt hơn, qui mô hơn, đặc sắc hơn [23],[37]. (Hình 1.4a, 1.4b , 1.4c), (Hình 1.5)

<b>Đối với người Chăm, làng xóm, nhà cửa, gia đình chính là khơng gian văn hóa </b>

góp phần hình thành mơi trường xã hội, đời sống cộng đồng. Việc di dời, chuyển đổi, phá vỡ khuôn viên làng xóm, gia đình cũng đồng nghĩa với việc hủy hoại tổ chức xã hội cổ truyền, bản sắc văn hóa riêng của dân tộc. Vì vậy mà người Chăm khơng bao giờ tách khỏi cộng đồng mà gắn bó, lưu giữ nghề truyền thống. Họ định cư theo thị tộc mẫu hệ. Mỗi một dãy nhà, mỗi khuôn viên gia đình sống gần nhau thì đều có cùng huyết

<i>thống và khi chết nằm chung một nghĩa địa gọi là Kút (người Chăm Bàlamôn). </i>

<b>1.1.4.3. Đời sống xã hội và tổ chức cộng đồng </b>

<i>Nếu như làng (palei) Chăm là đơn vị cư trú cổ truyền mang tàn dư của công xã </i>

nơng thơn thì gia đình lại là bộ phận hình thành nên đặc trưng ấy. Gia đình trong làng

<i>(palei) Chăm Bầu Trúc cũng được tổ chức theo hình thái gia đình mẫu hệ. Trong mỗi gia đình có đàn bà lớn tuổi đứng đầu gọi là “Po sang” (chủ nhà). Các gia đình có cùng </i>

chung một mẹ sinh ra thường bố trí chung nhà cửa trong một khn viên, đến khi có kinh tế độc lập thì các gia đình nhỏ tách khỏi gia đình mẹ và tạo thành hình thái tiểu gia

<i>đình mẫu hệ (mangawom sit), đây là dạng gia đình được hình thành và phát triển trong </i>

những năm gần đây, ngày càng chiếm đa số trong xã hội Chăm; các gia đình chung một dịng họ phía mẹ thường bố trí nhà cửa cùng dãy với nhau. Mỗi dòng họ có một tộc

<i>trưởng là đàn bà đứng đầu gọi là “akauk gơp” ( ngày nay được thay thế bởi người đàn </i>

ông). Nhiệm vụ của trưởng tộc là quản lí các thành viên, giải quyết những vấn đề khuất mắc giữa họ và chăm lo, tổ chức cúng tế những lễ nghi tín ngưỡng liên quan đến tộc họ. Mỗi dòng họ trong làng được phân biệt với nhau bằng nghĩa địa Kút của dịng họ mẹ và

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i>có riêng một vật thờ tổ gọi là “Chiét atâu” (loại giỏ đan bằng tre hình hộp vng có nắp </i>

đậy, dùng để bỏ y trang, đồ cúng lễ của tổ tiên tộc họ). Các thành viên trong gia đình Chăm có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất nông nghiệp cũng như làm gốm và ln có sự phân cơng lao động rõ rệt tùy theo giới tính và độ tuổi. Họ sống trên cơ sở bình đẳng, đồn kết thương yêu và cùng nhau bảo vệ, lưu giữ thuần phong mỹ tục,

<i>những giá trị văn hoá của tổ tiên. Có thể nói làng xóm (palei) và gia đình người Chăm </i>

là mắc xích quan trọng, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nên một cơ cấu xã hội cổ truyền bền vững, trở thành cái nôi lưu giữ văn hoá, lễ hội Chăm trong suốt những tháng năm thăng trầm của lịch sử dân tộc [21].

<b>1.1.4.4. Đời sống tín ngưỡng, phong tục tập quán </b>

<i>Người Chăm cư trú tập trung thành từng làng (palei) và đó cũng là tổ chức kinh </i>

tế - xã hội duy nhất của họ. Mỗi cộng đồng tôn giáo thường cư trú trong những palei

<i>riêng biệt. Trong tổng số 23 làng, có 15 làng Chăm Ahiêr và 8 làng Chăm Awal. Ngồi </i>

ra cịn có một số ít người Chăm nơi đây theo Hồi giáo Islam. Sự phân bố dân cư Chăm

<i>theo vùng tôn giáo được thống kê trong Bảng 1. </i>

Người Chăm làng Bầu Trúc là một trong số những tín đồ của Bàlamơn giáo có số lượng chức sắc chiếm tỉ lệ lớn trong hàng ngũ chức sắc Bàlamơn ở Ninh Thuận ngày nay. Bên cạnh đó là cả một hệ thống các nghi lễ, tục thờ cúng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Chăm, diễn ra đều đặn hàng năm. Mặc dù chịu ảnh hưởng của Bàlamôn giáo, nhưng người Chăm vẫn duy trì tín ngưỡng thờ tổ tiên vì họ quan niệm rằng có một thế giới cư ngụ của tổ tiên. Theo quan niệm của Bàlamôn giáo, khi con người chết đi, làm lễ hỏa táng, rắc tro xuống sông nước và đưa linh hồn trở về lại với Brahma nhưng đối với người Chăm Bàlamôn, sau khi hỏa táng, người ta giữ lại 9 miếng xương trán để làm lễ nhập Kút. Kút chính là nghĩa địa của dịng họ (theo mẫu hệ) và là nơi cư

<i>ngụ của thần tổ tiên (Ong Prauk). Đây là một hiện tượng phát sinh của Bàlamôn giáo, </i>

sự kết hợp tuyệt vời giữa Bàlamơn giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của cư dân nông nghiệp bản địa. Vào các dịp lễ hội, những người trong tộc họ lại đến nghĩa địa cúng và

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

mời tổ tiên về dự lễ.

Sẽ thật thiếu sót nếu bỏ qua tục thờ thần làng của người Chăm Bầu Trúc. Nếu như mỗi làng của người Việt thờ Thành Hoàng để hộ quốc tỳ dân thì người Chăm cũng vậy, cư dân Chăm làng Bầu Trúc tôn thờ Po Klong Chan như một vị thần đã có cơng lập làng, dạy dân làm gốm. Họ xây dựng đền thờ và hàng năm đều thực hiện nghi lễ cúng tế để cầu mong vị thần này phù hộ, độ trì cho dân làng. Không chỉ là một vị thần làng, Po Klong Chan còn được người dân Bầu Trúc suy tôn như một vị tổ sư nghề nghiệp, ông mãi mãi sống trong tâm thức của bao thế hệ cư dân nơi đây dù cho tín ngưỡng của họ là đa thần. [2], [3], [21]

<b>1.1.4.5. Hoạt động sản xuất gốm </b>

Gốm của người Chăm Bầu Trúc là loại sản phẩm được làm hoàn toàn bằng tay, khơng có bàn xoay mà dùng hịn kê; đó có thể là cái bàn, một khúc gỗ, hoặc một cái lu,…Vật liệu dùng để tạo ra một sản phẩm gốm là một loại đất sét đặc biệt được lấy từ bờ sông Quao, khi nung rất dẻo và bền kết hợp với cát lấy từ sông Lu. Lượng cát và sét được trộn vào nhau còn phụ thuộc vào cơng dụng và kích thước của từng loại sản phẩm gốm. Gốm được nung ngoài trời với nhiệt đô thấp từ 600 – 700<sup>0</sup>C. Hoa văn trang trí trên thân gốm chủ yếu là hình học và thực vật. Quy trình làm gốm khá công phu, từ khâu lấy đất đến khi đưa lên tạo hình phải trải qua khá nhiều cơng đoạn và tất cả hồn tồn làm thủ cơng (Hình1.6).

<b>Các cơng đoạn tạo ra sản phẩm gốm: </b>

<i>• Chuẩn bị đất làm gốm: Đất sét được lấy từ ruộng, đập thành những cục nhỏ, </i>

phơi khô, loại bỏ tạp chất rồi ngâm với nước trong hố đất đã đào sẵn. Cát sau khi đã sàn lọc kỹ sẽ được trộn chung với sét theo tỷ lệ phù hợp với hình dạng và kích thước của sản phẩm gốm định làm. Sau khi nhồi, người thợ gốm sẽ cuộn hỗn hợp thành từng lọn hình trụ và được phủ kín bằng tấm vải để ủ qua đêm. Đất sau khi được ủ còn phải nhồi và lăn lại bằng tay nhiều lần, vo tròn thành các cục đặt lên hòn kê để nặn thành sản phẩm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<i>• Kỹ thuật tạo dáng gốm: gồm 4 cơng đoạn </i>

<i>− Nặn hình: Tạo dáng gốm cơ bản ban đầu, sau đó nối những “lọn đất” vào miệng gốm, dùng “vòng quơ” chải quanh thanh gốm. </i>

<i>− Chà láng gốm: dùng “vải cuộn” thấm nước, quấn vào tay chà láng thân gốm </i>

và tạo hình miệng.

<i>− Trang trí hoa văn: dùng que cây, vỏ sò, hoa thực vật... để tạo hoa văn trên </i>

gốm. Hoa văn chủ yếu là hình răng cưa, khắc vạch, sóng nước, hoa văn thực vật, vỏ sò... họ còn dùng màu thực vật để nhuộm áo gốm.

<i>− Tu sửa gốm: gốm nặn đem phơi nơi râm mát, hơi khô dùng “vịng quơ” nhỏ </i>

để cạo mỏng thân và nơng đáy gốm.

<i>− Nung gốm: Gốm Bầu Trúc được nung ngoài trời (lộ thiên) và trước khi nung </i>

phải phơi khô một ngày.Vật liệu dùng để nung gốm là củi, phân trâu bị khơ, rơm rạ, trấu...Củi được xếp thành hình chữ nhật (4mx3m) dày khoảng 0,2m-0,3m và trên đó người ta xếp úp 2-3 lớp gốm, phía dưới xếp những sản phẩm lớn. Tiếp đó tồn bộ phủ một lớp rơm rạ dày khoảng 0,2m và trên là một lớp trấu mỏng. Người thợ gốm Bầu Trúc chỉ đốt lị vào buổi chiều ít gió hoặc gió nhẹ và đốt theo chiều ngược gió. Thời gian nung khoảng 2-6 giờ đồng hồ.

<i>[21],[22] </i>

<i><b>1.2. Thực trạng làng nghề gốm Bầu Trúc trong q trình đơ thị hóa </b></i>

<b>1.2.1. Thực trạng mơi trường làng nghề 1.2.1.1. Môi trường sản xuất </b>

Sản xuất gốm hiện nay mang lại hiệu quả kinh tế cao, song mặt trái của nó là gây

<b>ơ nhiễm mơi trường. Một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm là do quy mô sản </b>

xuất nhỏ lẻ theo từng hộ gia đình; hệ thống xử lý nước thải chưa đầu tư phù hợp; làng nghề xen lẫn khu dân cư; phần lớn các chất thải không được thu gom, xử lý mà xả

<i>thẳng vào môi trường. Đó là những “thủ phạm” chính làm gia tăng tỷ lệ người mắc </i>

bệnh tại làng nghề này và tỷ lệ này có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Mỗi hộ dân một ngày thu lãi khoảng vài chục đến vài trăm ngàn đồng từ nghề truyền thống nhưng để xây dựng được khu xử lý nước thải phải tốn hàng tỷ đồng. Trong khi đó, ngân sách tỉnh chi hỗ trợ phát triển làng nghề hàng năm rất ít. Đây là một bài tốn

<b>khó cần có lời giải đáp hợp lý. </b>

<i>- Ảnh hưởng tới môi trường nước: Nước thải từ sinh hoạt và sản xuất không được xử lý </i>

mà đổ thẳng vào nguồn tự nhiên nên tại khu vực miệng xả một số ao hồ xảy ra tình trạng ơ nhiễm cục bộ (Hình1.7a).

<i> - Ảnh hưởng tới mơi trường khơng khí: Ơ nhiễm khơng khí ở làng nghề thể hiện ở các </i>

dạng ơ nhiễm do khói bụi, mùi, nhiệt độ.... Các hộ sản xuất gốm hiện nay sử dụng lò nung lộ thiên với phân trâu bị, rơm rạ, củi khơ và nung trực tiếp trong khn viên gia đình, gây ra khói bụi mà khơng hề có hệ thống phịng hộ, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và sức khỏe của người dân, khi nung có thể sinh ra khí CO, CO<sub>2</sub>... là những khí độc hại và có mùi rất khó chịu. Mặt khác, khi nung nhiệt độ có thể lên tới 600-700<sup>0</sup>C làm tăng nhiệt độ khơng khí ở vùng nung so với những vùng xung quanh gây ô nhiễm nhiệt độ (Hình1.7b).

Ngồi ra, trong làng xe bò vẫn còn được sử dụng làm phương tiện chuyên chở nông sản, chất thải của nó trực tiếp ra mặt đường mà khơng được xử lý, cộng với ý thức của người dân chưa cao, còn vứt rác bừa bãi ra mặt đường gây ô nhiễm (Hình 1.7c).

<b>1.2.1.2. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật a. Giao thơng </b>

<i><b>• Giao thơng đối ngoại </b></i>

<i>Đuờng bộ : Làng Bầu Trúc nối kết giao thơng với bên ngồi qua các tuyến giao thơng </i>

đối ngoại :

− Quốc lộ 1A là tuyến đường giao thông huyết mạch của quốc gia, kết nối từ làng nghề với thành phố Phan Rang ở phía Bắc và thành phố Phan Thiết về phía Nam, mặt đường kết cấu bê tơng nhựa, rộng 12m (Hình 1.8a).

− Tỉnh lộ 703 bắt đầu từ quốc lộ 1A nằm phía Tây làng nghề và chạy dọc theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

tuyến đường sắt Bắc Nam nối vào quốc lộ 27 đi Đà Lạt và Đắc Lắc. Loại đường nhựa, chiều rộng mặt đường 7,5m (Hình 1.8b).

<i>Đường sắt : Phía Tây làng nghề tiếp giáp với đường sắt Bắc Nam. </i>

<i><b>• Giao thơng đối nội : Chiều rộng mặt đường chính từ 5m – 6m, có hè đi bộ ở một </b></i>

số trục đường trong làng nhưng cũng chỉ tạm bợ, chưa chỉn chu, có hệ thống thốt nước nhưng chưa có cây xanh dọc đường. Một số đường dẫn vào các ngõ, xóm chưa được trải nhựa, đường ngập nước và lầy lội khi có mưa (Hình 1.8c).

<i><b>• Cơng trình đầu mối giao thông : Khu vực làng nghề nói riêng và toàn bộ thị </b></i>

trấn Phước Dân nói chung chưa có cơng trình đầu mối giao thơng đường bộ và hệ thống cơng trình ngầm quan trọng.

<b>b. Mạng lưới điện </b>

Tất cả các hộ trong làng nghề đã được điện khí hóa. Tuy nhiên, đường dây điện dẫn vào từng hộ vẫn cịn mang tính chắp vá, đường dây không đảm bảo, nhất là đường xương cá dẫn vào các ngõ, xóm. Nhìn chung,việc sử dụng điện mới đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt của người dân (Hình 1.8d).

<b>c. Cấp thốt nước </b>

<i>• Hiện trạng cấp nước: Hiện nay, làng nghề Bầu Trúc sử dụng nguồn nước từ nhà </i>

máy nước tại thị trấn Phước Dân có cơng suất 1.600m<sup>3</sup>/ngày.

<i>• Hiện trạng thoát nước khu vực: </i>

− Mạng lưới thoát nước : Hệ thống thoát nước hiện nay tại làng Bầu Trúc là hệ thống thoát nước chung của nước mưa và nước bẩn sinh hoạt. Tuy nhiên, hệ thống này còn nhỏ, chưa đồng bộ với hệ thống kết cấu hạ tầng khác, nước mưa và nước thải sinh hoạt vẫn thốt ra mơi trường tự nhiên, chưa qua xử lý. Hướng thoát nước chủ yếu ra Kênh Nam, thông ra sông Lu. Kênh Nam đồng thời cũng có nhiệm vụ cung cấp nước tưới, sinh hoạt và là nơi tiêu lũ trong địa bàn.

− Xử lý nước thải : Nước thải tại khu dân cư một số ít qua xử lý sơ bộ tại bể tự hoại phần lớn vẫn không qua xử lý rồi đổ thẳng vào hệ thống thoát nước chung.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Nước thải sau khi được thu gom trong phạm vi làng nghề không qua xử lý đổ trực tiếp vào hướng Kênh Nam.

− Hiện trạng ngập lụt: Làng nghề nằm trong vùng đồng bằng trũng, tuy đã được

<i><b>đầu tư về cơ sở hạ tầng nhưng tình trạng ngập lụt vẫn diễn ra khi mưa lớn. </b></i>

<i><b>d. Hệ thống thông tin, liên lạc </b></i>

Hiện nay các dịch vụ viễn thông đã bao phủ quanh làng nghề và hầu hết các hộ trong làng đã kết nối hệ thống điện thoại.

<i><b>e. Cơ sở trường học, trạm y tế </b></i>

Trên địa bàn làng nghề hiện có một bệnh viện đa khoa huyện Ninh Phước và một trung tâm y tế đóng trên địa bàn thị trấn Phước Dân. Làng gốm Bầu Trúc cách các trung tâm y tế này trong phạm vi bán kính 2km.

<b>1.2.2. Thực trạng kiến trúc cảnh quan làng nghề </b>

Hiện nay, làng xóm, đường sá, cơ sở hạ tầng đều được quy hoạch cải tạo khang trang hơn trước, góp phần khơng nhỏ trong việc kiến tạo cảnh quan làng nghề. Nếu như trước đây làng truyền thống của người Chăm ít khi có sự xuất hiện của cây xanh, nhất là cây lâu năm, thì ngày nay mức độ phủ xanh trong làng nghề đã thay đổi đáng kể. Một số gia đình cịn trang trí thêm cây cảnh trong sân nhà một phần để làm dịu đi cái nắng nóng oi bức, phần nữa tạo khơng khí trong lành cho sinh hoạt của họ. Tuy nhiên, trên các tuyến đường chính trong làng hiện nay vẫn chưa được bố trí cây xanh để tạo bóng mát và điểm nhấn cho các trục đường. Các khuôn viên được ngăn cách bằng những hàng rào cây khô trước kia đã được thay bởi tường gạch, tường rào…tạo nên dáng vẻ hoàn toàn mới lạ cho làng nghề. Bên cạnh đó, với cái nắng nóng oi bức, khơ cằn của vùng đất Phan Rang, mặt nước được xem như yếu tố tốt nhất để cải tạo vi khí hậu, mang lại cuộc sống thoải mái hơn cho người dân lại chưa được đầu tư, khai thác.(Hình1.9)

Nhìn chung, những hình thức cải tạo làng nghề trong những năm qua thiếu sự quy hoạch cụ thể để tạo nên sự đồng bộ, nhất quán cho kiến trúc cảnh quan làng nghề

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Bầu Trúc. Do đó, cần có giải pháp cải tạo kiến trúc cảnh quan để mang lại diện mạo mới cho làng nghề, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân đồng thời tạo nên một khơng gian du lịch văn hóa hấp dẫn.

<b>1.2.3. Thực trạng kiến trúc làng nghề 1.2.3.1. Cấu trúc không gian làng nghề </b>

Cũng như bao làng Chăm khác, không gian làng nghề được bố trí theo cấu trúc bàn cờ với các khuôn viên nhà sắp xếp liền nhau theo các trục đường Bắc – Nam và Đông – Tây, trong đó có một số đường chính chạy từ đầu đến cuối làng với chiều rộng khoảng 8m. Song song hoặc vng góc với các con đường trên là những con đường nhỏ hơn, rộng khoảng 3-5m, đủ cho hai xe bò di chuyển ngược chiều; đồng thời nối liền vng góc với các con đường đó là những hẻm nhỏ cắt ngang qua hai khn

<b>viên.(Hình1.10) </b>

Nếu như khuôn viên truyền thống của người Chăm trước đây rộng chừng 30mx40m,

<i>với 5 ngôi nhà là nhà tục (sangye), nhà song/nhà kề (sang mayau), nhà ngang/nhà lẫm (sang gen/sang lâm), nhà cao cẳng (sang ton) và nhà bếp (sang ging) thì ngày nay </i>

khuôn viên thường là 15x20m và số nhà trong khn viên cũng ít. Đa phần các hộ khá giả trong làng hiện làm nhà cao tầng, nhà mái bằng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu sinh hoạt thường ngày, trường hợp này khn viên thường chỉ có một nhà. Mặt khác, các cơng trình phúc lợi được bố trí dọc trục đường chính nối từ QL1A vào làng gốm, các hộ sản xuất và kinh doanh gốm bám vào các trục đường lớn trong làng để thuận tiện cho việc tiếp cận, tham quan, mua bán các sản phẩm gốm. (Hình1.11)

<b>1.2.3.2. Kiến trúc cơng trình cơng cộng </b>

Trong bối cảnh hiện nay, khi kinh tế đất nước ngày càng phát triển, tốc độ đơ thị hóa ngày một nhanh hơn, mạnh mẽ hơn, xóa bỏ dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Điều làm cho làng gốm Bầu Trúc của người Chăm Ninh Thuận khác với khu vực thành thị quanh nó chính là khơng gian cộng đồng với những nét đặc trưng về văn hóa, lễ hội, tơn giáo, tín ngưỡng, tập qn cư trú… vẫn cịn tồn tại đến ngày nay. Nếu

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

như nhà ở của người Chăm Bầu Trúc hiện nay hầu hết đã mang dáng dấp của hàng triệu ngôi nhà khác ở thành thị thì bên cạnh đó vẫn cịn những cơng trình thấp thống nét đặc trưng của người Chăm, mặc dù đã được Việt hóa. Điển hình như:

Nhà quản lý, biểu diễn và trưng bày gốm nằm trên con đường thuận lợi của thị trấn Phước Dân, ngay trung tâm làng Bầu Trúc, là công trình ln được sự quan tâm của khách du lịch tìm hiểu về nét độc đáo của làng nghề. Cơng trình kiến trúc này mang kiểu thức của văn hóa Chăm kết hợp phong cách hiện đại. Hình thức kiến trúc với các đường nét trang trí xuất phát từ các mơtíp của đền tháp Chăm với mái vịm, sảnh đón xây gạch mộc trên nền tường trắng. Sự tương phản tuy khá mạnh nhưng lại mang đến sự vững chắc cho cơng trình. Mặt bằng cơng trình được phân chia làm hai khu chức năng chính là phịng trưng bày, biểu diễn và khu quản lý. Tuy nhiên, chỉ mới đi vào hoạt động vài năm nhưng một số nơi trong cơng trình đã hư hỏng và bị bỏ hoang. Khu trưng bày, biểu diễn trước đây được bố trí khá sơ xài, khơng hề có minh họa và giới thiệu, thiếu vắng những hình ảnh về lịch sử làng nghề. Dù hiện nay tình trạng này đã được cải thiện nhưng không đáng kể và cần có sự quan tâm, nâng cấp để cơng trình đi vào hoạt động theo đúng nghĩa (Hình1.12a, 1.12b).

Đền thờ Po Klong Chan được xây dựng trên một cánh đồng cách làng khoảng 1km về phía Tây Bắc. Trước kia đền chỉ là một ngôi nhà tạm bợ bằng tre, lợp tranh. Đến năm 1967, người dân góp tiền và thuê thợ người Kinh xây dựng lại theo lối kiến trúc đình làng của người Việt với tường gạch, mái ngói, trên nóc mái trang trí hình lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh được bao bọc bởi tường thành và cửa mở về hướng Đông. Đền có diện tích 10x8m, với hệ kết cấu 3 vì kèo tạo thành hai gian. Gian bên trong để thờ tự, rộng 3x8m, với bệ thờ Linga – Yoni bằng đá cao 0,5m. Nhìn từ ngồi vào thì bên trái bệ thờ có phiến đá cao 0,4m, có tên thần Nai Li Lang Bang Tamưh (tên nữ thần Po Nai trong truyền thuyết Chăm). Bên phải ngôi đền, ngay trước cửa ra vào là tượng bò thần Nadin bằng đá (vật cưỡi của thần Siva). Gian còn lại bên cạnh gian thờ tự được để trống, là nơi dân làng ngồi dâng lễ cúng cho các vị thần làng

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

.Vào năm 2010, đền được chính quyền địa phương tu sửa lại, phá bỏ tường thành bao quanh, mái lợp ngói xây trên tường gạch, nền được ốp gạch bơng, cửa chính mở về hướng Đông và 1 cửa phụ ở hướng Nam, không gian bên trong vẫn được tổ chức theo đúng chức năng vốn có của nó( Hình1.13).

Đền làng Bầu Trúc được xây dựng trên một khuôn viên rộng khoảng 10x20m có tường bao quanh, nằm ngay trục đường chính vào làng với hai cơng trình chính là đền thờ mái dốc, lợp tôn và kho đồ cúng, bếp mái dốc lợp ngói trên tường gạch. Cửa của khuôn viên và đền thờ đều mở về hướng Đông (Hình 1.14).

Cổng làng gốm Bầu Trúc được xây dựng tại vị trí tiếp giáp với quốc lộ 1A với cách sử dụng mơtíp trang trí xuất phát từ đền tháp Chăm (Hình 1.15).

<b>1.2.3.3. Kiến trúc nhà ở </b>

Khn viên nhà truyền thống của người Chăm có vị trí và hướng nhất định, được quy định chặt chẽ bởi phong tục truyền thống. Họ chọn đất và có các nghi thức cúng tế rất kỹ càng. Tất cả các loại nhà trong khuôn viên truyền thống của người Chăm không nhất thiết phải đầy đủ mà tùy thuộc vào kinh tế, điều kiện của từng gia đình để xây dựng phù hợp. Tuy nhiên, vị trí nhà vẫn khơng thay đổi và tránh xây dựng trên điểm hỏa của khuôn viên (Hình 1.11).

Do nhiều nguyên nhân cả về khách quan lẫn chủ quan, nhất là sự phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua đã làm cho kiến trúc và khuôn viên nhà ở của người Chăm Bầu Trúc nói riêng và cộng đồng Chăm Ninh Thuận nói chung có nhiều biến đổi đáng kể. Nếu như trước đây, gỗ, tre, nứa… là những vật liệu quan trọng để xây dựng ngơi nhà truyền thống, thì ngày nay cùng với sự giao lưu, tiếp biến văn hóa với người Việt là sự ra đời của nhiều nguyên vật liệu mới đã làm thay đổi dần thị hiếu của người Chăm làng Bầu Trúc. Từ ngôi nhà sàn theo kiểu truyền thống, ngày nay họ đã đẩy

<i>nhanh quá trình “trệt hóa”. Một số nhà kinh tế cịn khó khăn thì dỡ bỏ sàn của nhà cũ, </i>

đắp đất, đôn nền rồi láng ximăng hoặc lát gạch; những nhà mới xây sau này thì làm luôn nền trệt. Sự ra đời của những vật liệu mới đã kéo theo cả sự thay đổi tường vách,

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

mái lợp, kết cấu bộ khung nhà và lẽ dĩ nhiên là hình thức kiến trúc cũng thay đổi theo. Một vài ngôi nhà trong làng hiện nay vẫn còn kiểu vách đất, dùng phên tre làm xương, rơm trộn bùn đất trát lên làm vách, đây là hình thức kiến trúc còn lại của những hộ

<i>nghèo…Q trình “ngói hóa” cũng diễn ra khá nhanh chóng, từ lợp cỏ tranh, cỏ cú, </i>

rạ… họ đã chuyển sang lợp ngói, các loại tơn kẽm hay tơn nhựa hiện đại, thậm chí có nhà đổ mái bằng, lát gạch để chống nóng, chống thấm. Về cơ bản thì vị trí cổng ngõ của các khuôn viên không thay đổi nhiều so với trước đây nhưng do nhu cầu đi lại và kinh doanh nên nhiều gia đình mở thêm cổng thơng ra mặt đường; sân cũng tráng xi măng, lát gạch thay cho sân đất nện, trãi cát như trước.(Hình1.16)

Trong nhiều trường hợp, tường xây của người Chăm thay thế cho cột phụ (cột hạng nhì – ageng tamaih), cột hiên và cột chái (cột hạng ba – ageng cac), thậm chí thay thế cho cả cột chính (cột hạng nhất – ageng padeng), giúp mở rộng lịng nhà, tạo khơng gian rộng và thống đãng cho người dân. Những ngơi nhà xây mới nhất là nhà cao tầng, nhà mái bằng của người Chăm hiện nay khơng khác gì các ngôi nhà ở thành thị [10],(Hình 1.17).

Kiến trúc nhà ở dân gian của người Chăm làng Bầu Trúc hiện nay khơng cịn nữa, chúng đã có một sự biến đổi rất lớn. Chức năng cũng như mặt bằng sinh hoạt hiện nay của các ngôi nhà trong khuôn viên truyền thống xưa kia dần ít đi và có nhiều biến đổi với nhiều công năng sử dụng hơn để đáp ứng điều kiện sống của nền kinh tế - xã hội hiện đại. Trong mỗi gia đình đều có nơi nghỉ ngơi của các thành viên, không gian tiếp khách, khơng gian sản xuất, nhà kho,… nhà bếp ngồi chức năng nấu ăn, nếu đủ

<i>rộng có thể làm phịng ăn… Thậm chí ngơi nhà tục (sangye) với chức năng để tổ chức </i>

các nghi lễ trong gia đình thì ngày nay cũng khơng cịn quan trọng nữa. Tiêu biểu là nhà bà Đàng Thị Phan – một nghệ nhân gốm Chăm làng Bầu Trúc, đám cưới, tang ma… có

<i>thể tổ chức ở bất cứ nơi nào thuận tiện, miễn có đủ diện tích. Nhà tục (sangye) trước kia </i>

do quan niệm của người Chăm nên không được mở cửa sổ, ngày nay họ thường mở nhiều cửa cho ngôi nhà được thống mát. Hiện nay, hầu như người chăm khơng dựng

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<i>nhà tục (sangye) nữa vì quy mơ của nó khơng đáp ứng đủ nhu cầu chỗ ở và những kiêng kỵ phức tạp. Nhà ngang (sangen) gần như bị dỡ bỏ hồn tồn và hai loại nhà cịn </i>

phổ biến ngày nay là nhà song/nhà kề hoặc nhà cao cẳng hoặc nhà lẫm hoặc nhà bếp. Về mặt bằng sinh hoạt, đặc điểm chung là ngày một mở rộng với các xu hướng :

<i>− Phía ngồi hiên của các ngơi nhà lẫm, nhà song/ nhà kề trước được lắp bằng </i>

hàng song gỗ nay được xây tường bao, chỉ để lại một vài ô cửa ra vào. Khoảng không gian này thường được sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt thường ngày.

− Giản lược về số cột, nhất là cột phụ; thậm chí có những gia đình làm kiểu nhà gác tường (vì kèo gác lên tường, khơng có cột) giống như người Việt, tạo cho lịng thống và rộng hơn .

− Khơng gian sinh hoạt của người Chăm trước đây chủ yếu phát triển theo chiều rộng nay chuyển sang chiều cao. Ở làng Chăm hiện nay đã xuất hiện các nhà lầu.[10]

Nhìn chung, nhà ở của người Chăm hiện nay đã có sự biến đổi rất lớn về kiến trúc và kết cấu cũng như phương hướng, chức năng của ngôi nhà do thị hiếu và nhu cầu của cuộc sống hiện đại. (Hình 1.18a, 1.18b, 1.18c)

<i>Về cấu trúc nhà ở trong làng nghề hiện nay tồn tại dưới 4 hình thức như sau: </i>

− Nhà ở kết hợp với sản xuất thủ công.

− Nhà ở kết hợp sản xuất thủ công và nông nghiệp (rất phổ biến). − Nhà ở kết hợp với sản xuất thủ công và buôn bán, dịch vụ. − Nhà ở kết hợp với sản xuất nông nghiệp.

<b>1.2.3.4. Không gian sản xuất </b>

Ngoại trừ khoảng 20% các hộ trong làng tham gia vào sản xuất nông nghiệp, phần lớn không gian sản xuất thủ công làng Bầu Trúc được tổ chức ngay trong khuôn viên nhà, bao gồm cả khu trưng bày, sản xuất chính, khu phụ trợ và kho bãi. Các công đoạn sản xuất gốm đều làm bằng tay nên tương đối phức tạp và cơng phu, địi hỏi phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

có khơng gian riêng. Khơng gian sản xuất của các hộ gia đình phần lớn mang tính lắp ghép, tạm bợ, tận dụng từ mọi khơng gian dư thừa trong nhà, theo ý thích của chủ hộ gây nên sự đơn điệu, thiếu chuyên nghiệp với điều kiện vệ sinh môi trường không cao, mặt bằng sản xuất chật hẹp, chủ yếu sử dụng ánh sáng tự nhiên, dây chuyền không hợp lý, kho bãi mang tính chất tạm bợ,…. Do đó, khơng gian làm việc không thoải mái, dây chuyền sản xuất chồng chéo, môi trường khơng đảm bảo.(Hình1.18a, 1.18b, 1.18c)

Nhìn chung, khơng gian sản xuất của các hộ trong làng nghề còn mang tính tự phát, chưa đáp ứng được điều kiện sản xuất cũng như gây trở ngại trong việc tham quan, học tập hay du lịch.

<i><b>1.3. Những giá trị đặc trưng của làng nghề gốm Bầu Trúc </b></i>

<b>1.3.1. Giá trị lịch sử </b>

Mỗi một làng nghề đều có lịch sử hình thành và phát triển riêng của nó. Theo tài liệu của ngành khảo cổ học, nghề làm gốm của người Chăm có cách đây từ 3.500 - 4.000 năm, ứng với mỗi giai đoạn lịch sử thì gốm Chăm có những đặc điểm khác nhau, do quá trình vận động phát triển và sự tác động của nhiều yếu tố bên ngồi mang lại. Chính nhờ những đặc trưng của chúng trong từng thời kỳ lịch sử là cơ sở vững chắc nhất để các nhà khảo cổ khi khai quật sẽ có căn cứ xác định niên đại và dấu ấn của một nền văn minh đã đi qua. Nghề và làng nghề gốm Bầu Trúc đã thể hiện quá khứ, bề dày văn hóa của một dân tộc với những con người tài hoa và giàu truyền thống cùng những sản phẩm gốm mang nguyên vẹn giá trị đến hôm nay. Bên cạnh đó, tập quán cư trú cùng phong tục tập quán, lễ hội và ngay cả cách làm gốm thủ công truyền thống được các nghệ nhân làng nghề lưu giữ đến ngày nay ít nhiều cũng phản ánh chân dung của một giai đoạn lịch sử nhất định. Bởi, những yếu tố đó là minh chứng, là biểu hiện tổng hợp của cách ứng xử, quan niệm cũng như thẫm mỹ của con người đối với tự nhiên.

Mặc dù có trải qua bao thăng trầm của lịch sử, làng nghề có lúc thịnh lúc suy nhưng những sản phẩm vật chất và tinh thần của làng gốm Bầu Trúc nói riêng và các làng nghề truyền thống của nước ta nói chung là minh chứng rõ ràng nhất, là dấu ấn của

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

lịch sử còn tồn tại và phát triển đến ngày nay, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc góp phần làm rạng rỡ văn hóa Việt trong khu vực và trên thế giới.

<b>1.3.2. Giá trị nghệ thuật </b>

Gốm Bầu Trúc được làm hồn tồn bằng tay, thơ sơ đến mức tối giản, khơng có bàn xoay, nung thủ công bằng rơm. Để làm các đồ gốm dạng tròn, hầu như tất cả các nơi trên thế giới đều dùng bàn xoay nhưng ở làng Bầu Trúc, khối đất sét được đặt lên hòn kê và nghệ nhân đi xoay trịn giật lùi để làm gốm. Sau cơng đoạn tạo hình, gốm được đem phơi nắng và đốt lộ thiên. Khi nung khoảng vài giờ, gốm được lấy ra, phun màu, rồi tiếp tục cho vào nung tiếp. Kết quả của việc tạo màu là gốm sẽ có những màu đặc trưng như vàng đỏ, đỏ hồng, đen xám, nâu... nên mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, không cái nào giống cái nào[21].

Gốm Bầu Trúc tuy không tinh xảo như gốm Bát Tràng, kiểu dáng không đa dạng như gốm Bình Dương mà ngay cả vẻ thơ mộc cũng khác với gốm Phù Lãng, nhưng những sản phẩm gốm với lớp men nướng hòa quyện giữa hai màu nâu đen và đỏ vàng, không đều một cách tự nhiên nhưng tượng trưng cho sự kết nối giữa đất và lửa, mang nhiều ý nghĩa về tâm linh, nét đẹp tinh thần của người dân Chăm, đó cũng chính là yếu tố mang lại tính nghệ thuật cao cho gốm Chăm Bầu Trúc mà ta cần bảo lưu và phát huy trong thời kỳ mới. Tuy khơng sử dụng máy móc hiện đại, nhưng gốm Bàu Trúc nổi tiếng dẻo, bền, đẹp, bề mặt láng mịn, đặc biệt tốt khi đựng thức ăn, nước uống.. Những đường nét hoa văn được thể hiện trên mỗi sản phẩm gốm không phải lúc nào cũng theo một khuôn khổ giống nhau mà chúng xuất phát từ cảm xúc, tâm trạng buồn vui của mỗi nghệ nhân trong q trình chế tác. Do đó, mỗi một sản phẩm gốm ra đời mang dấu ấn của nghệ nhân làm ra chúng, cũng là hoa văn vỏ sị, móng tay, khắc vạch, sóng nước, răng cưa… nhưng khơng cái nào giống cái nào và điều đó sẽ giải thích tại sao các nghệ nhân có thể nhận ra được sản phẩm do chính tay họ làm ra sau khi đã bán đi nhiều năm. Ngày nay, với cơ chế thị trường phát triển đòi hỏi các sản phẩm ra đời phải có giá trị nghệ thuật, tính thẩm mĩ cao, do đó những nghệ nhân làng gốm Bầu Trúc ln tìm kiếm cách thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

hiện mới trên những tác phẩm của mình từ kiểu dáng đến đường nét hoa văn để phù hợp với nhu cầu ngày một cao của người tiêu dùng.

<b>1.3.3. Giá trị kiến trúc </b>

Nói đến kiến trúc làng gốm của người Chăm Bầu Trúc, người ta sẽ nghĩ ngay đến những cơng trình kiến trúc truyền thống như cổng làng, đền thờ, nhà ở truyền thống của dân tộc này. Tuy nhiên, sau trận lũ năm 1964 làng này đã dời đến vị trí mới và trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương đã quan tâm quy

<i>hoạch, cải tạo làng gốm thành khu phố 7, điều này làm cho cơ cấu làng gốm cổ truyền </i>

của người Chăm Bầu Trúc cùng với diện mạo kiến trúc nghề cũng có phần thay đổi đáng kể. Những ngôi nhà với lối kiến trúc truyền thống ngày nay khơng cịn nữa, thay vào đó là những mẫu nhà khơng khác gì của các tộc người khác. Sự mất dần đi các ngôi nhà truyền thống của người Chăm đã kéo theo nhiều hệ lụy về thói quen trong sinh hoạt cũng như phong tục tập quán đã giản lượt bớt để thích nghi với mơi trường sống mới[10]. Q trình đơ thị hóa là tất yếu và nhu cầu về đời sống của người dân sẽ ngày càng cao hơn; lẽ dĩ nhiên không ai muốn mình phải sống trong những ngơi nhà tranh, vách đất trong khi họ có điều kiện xây dựng những ngôi nhà khang trang hơn, hiện đại hơn thay thế dần những ngơi nhà truyền thống. Tuy nhiên, nếu nhìn ở góc độ khác thì ngơi nhà vẫn là khơng gian cư trú của gia đình mẫu hệ, nơi ở và thờ cúng tổ tiên, sinh hoạt văn hóa, sản xuất gốm truyền thống,…nó tốt lên cái hồn, cái tinh thần của đại gia đình mẫu hệ nói riêng và của cộng đồng Chăm làng Bầu Trúc nói chung cho dù nó khơng còn đầy đủ thành phần và kết cấu nhà truyền thống như xưa.

<b>1.3.4. Giá trị văn hóa – xã hội </b>

Nghề và làng nghề gốm truyền thống của người Chăm Bầu Trúc khơng chỉ có ý nghĩa thơng thường về mặt kinh tế mà nó cịn bao gồm các giá trị văn hóa của cả dân tộc. Các sản phẩm gốm ra đời là kết tinh của trí thông minh, đôi bàn tay khéo léo, kỹ thuật tinh xảo của các nghệ nhân, được lưu truyền qua hàng ngàn năm lịch sử, đang được kế thừa, khôi phục, phát huy. Chúng không chỉ là những sản phẩm hàng hóa thơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

thường mà còn là nơi gửi gắm tâm hồn, tài năng, khiếu thẩm mỹ, sự sáng tạo, tinh thần lao động của nghệ nhân và thậm chí chúng cịn khốc lên mình dấu ấn của thời đại. Những tác phẩm gốm của người Chăm Bầu Trúc tuy mộc mạc, đơn sơ nhưng chứa đựng cả tinh hoa truyền thống của dân tộc ấy.

Làng nghề Bầu Trúc là nơi lưu giữ kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể vơ cùng phong phú, đó là những tác phẩm gốm cùng với hoa văn trang trí, những nghi lễ và tập tục trong đời sống thường ngày. Hơn thế nữa, làng nghề Bầu Trúc còn là một lực lượng, một cộng đồng có sự liên kết bền chặt bởi những mối quan hệ gắn bó trong nhiều mặt như lãnh thổ, tơn giáo, văn hóa và tâm linh, dòng họ, hoạt động kinh tế…Mối liên hệ đó như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, gắn kết họ thành một cộng đồng đoàn kết, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Giá trị văn hóa – xã hội của làng nghề Bầu Trúc còn được thể hiện qua nghệ nhân, những con người không ngừng sáng tạo để cho ra đời nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, lại vừa phù hợp với điều kiện mới; họ còn là người lưu giữ tinh hoa văn hóa dân tộc trong mỗi sản phẩm làng nghề, là người giữ vai trò chủ chốt trong việc truyền nghề cho đời sau. Những con người đó ln gắn bó với làng xóm, khơng chỉ vì yếu tố kinh tế mà còn do yếu tố tâm linh, hình thành một

<i>cộng đồng gắn kết với nhau qua nhiều đời, đó chính là “vốn xã hội” của cộng đồng </i>

người Chăm làng Bầu Trúc nói riêng và các làng nghề nước ta nói chung.

Mỗi một làng nghề đều có đặc trưng văn hóa riêng của nó với việc tơn thờ và cúng tế các vị tổ nghề; Bầu Trúc cũng vậy, người Chăm trong làng tổ chức các nghi lễ cúng tế, tơn vinh Po Klong Chan bằng lịng biết ơn sâu sắc, đó chính là biểu hiện cho

<i>truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của Việt Nam ta. Tất cả những giá trị văn hóa – </i>

xã hội của làng nghề nói trên rất cần được gìn giữ, phát huy trước tác động của CNH – HĐH.

<i><b>1.4. Kết luận chươngI </b></i>

Trải qua quá trình lịch sử lâu dài gắn với sự hình thành và phát triển, làng nghề

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

gốm truyền thống Bầu Trúc của người Chăm Ninh thuận đã tự sản sinh ra các giá trị đặc sắc, được bảo lưu, gìn giữ, chuyển giao qua nhiều thế hệ. Khơng chỉ là nơi hội tụ của những đôi bàn tay, khối óc tài hoa của người nghệ nhân mà làng nghề còn là nơi chứa đựng các giá trị lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, văn hóa – xã hội lâu đời, biểu hiện cụ thể, sinh động bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc Chăm. Hơn thế nữa, đó khơng chỉ là nơi tạo ra một loại hàng hóa tiêu dùng thơng thường mà nó cịn là nơi hội tụ giữa

<i>hai yếu tố “làng” và “nghề”, hàm chứa những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể cùng </i>

những ký ức về làng nghề gốm hưng thịnh một thời. Dấu ấn văn hố truyền thống đó ngày nay vẫn còn in đậm trong lòng mỗi người Chăm làng Bầu Trúc qua mỗi tác phẩm gốm, các hoạt động lễ hội, tập quán cư trú,…và là chất kết dính cộng đồng dân cư trong cùng một làng, hình thành nên những nét đẹp trong sinh hoạt, ứng xử. Đó là di sản văn hóa của dân tộc Chăm mà cả cộng đồng phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy.

Cùng với những biến động của lịch sử, xã hội, sự phát triển kinh tế cùng q trình đơ thị hoá, khung cảnh cùng kiến trúc làng nghề Bầu Trúc đang có sự thay đổi với tốc độ nhanh chóng. Sự phát triển là tất yếu và là quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người nhưng mặt trái của nó là làm mất dần đi các giá trị văn hoá, kiến trúc nhà ở truyền thống dân gian đầy bản sắc của làng Chăm Bầu Trúc nói riêng và kiến trúc nhà ở nơng thơn của Việt Nam nói chung.

Với những giá trị mà làng nghề đang gìn giữ, nó xứng đáng được nhìn nhận một

<i>cách cởi mở và mềm mỏng như một làng di sản vì tổng thể những giá trị của làng nghề </i>

phản ánh được quá trình quần cư lâu dài, văn hóa cũng như sự sáng tạo của cộng đồng Chăm trong quá khứ, các mối lo toan về thực tại và tương lai. Mọi sự tồn tại của làng nghề truyền thống Bầu Trúc ngày nay phải có mục đích và phải tạo ra những đóng góp tích cực cho Ninh Thuận nói riêng và cho xã hội nói chung. Vì vậy, động thái bảo tồn, cải tạo, phát triển làng nghề với các giá trị của nó khơng chỉ mang lại của cải vật chất cho người Chăm Bầu Trúc, góp phần cho chiến lược xây dựng NTM tỉnh Ninh Thuận mà còn giúp làng nghề tìm được vị trí vững chắc trong thời đại mới.

</div>

×