Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.11 KB, 43 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan quản lý nhà nước về
tiền tệ tại Việt Nam. Đây là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý
tiền tệ và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt
Nam như: phát hành tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự
trữ ngoại tệ, soạn thảo các dự thảo luật về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức
tín dụng, xem xét việc thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng, quản lý các
ngân hàng thương mại nhà nước... Thống đốc hiện nay là ông Nguyễn Văn
Giàu.
Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyết định chính sách tiền tệ, nhằm
mục tiêu ổn định giá trị VND, giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ, có trách nhiệm:
- Chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc giam kế hoạch cung ứng
tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ, để Chính phủ trình Quốc
hội.
- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ( dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thị
trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái), thực hiện việc đưa ra lưu thông, rút tiền tư
lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng đã
được Chính phủ phê duyệt.
Để xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, tăng
cường hơn nữa quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nươc, ngày 26 tháng 12 năm 1997, Nhà nước ban hành Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam( có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1988). Từ
đây, mô hình tổ chức hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được chi
phối bởi Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Hội nhập WTO, vừa là cơ hội, nhưng cũng vừa là thách thức cho Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm của Việt Nam trong
quá trình đàm phán đã diễn ra rất gay go và quyết liệt nhưng cuối cùng cũng đi
1
đến thành công trên khía cạnh phù hợp với chủ trương của chính phủ và các


cam kết của WTO. Về cơ bản Việt Nam cam kết sẽ giành đối xử quốc gia cho
các ngân hàng nước ngoài. Như vậy, các ngân hàng nước ngoài sẽ thâm nhập
vào Việt Nam dưới hai hình thức hiện diện thương mại chính là: Một là thành
lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Hai là, các nhà đầu nước ngoài sẽ mua cổ
phần của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo tỉ lệ cho phép.
Cơ hội:
Hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành và
thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá theo
nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng cường phối hợp
với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi
thông tin và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính
quốc tế và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống
NHTM và thị trường tiền tệ hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho
việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế sẽ
thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực
hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao
cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông
chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ.
Bên cạnh đó cũng là những thách thức
- Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực
mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng
dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài,
nhất là về mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về
đối tượng khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch
vụ ngân hàng, trong khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu kém:
+ Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt
động và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn
kém, vốn nhỏ, năng lực tài chính thấp, chất lượng tài sản chưa cao.
2
+ Hoạt động tín dụng được mở rộng nhanh chóng nhưng rủi ro tín dụng

chưa được kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với chuẩn
mực quốc tế và yêu cầu hội nhập.
+ Sản phẩm và dịch vụ còn đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, chất lượng
dịch vụ thấp. Qui trình quản trị trong các TCTD Việt Nam chưa phù hợp với
các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, tính minh bạch thấp, chưa hình thành
môi trường làm việc và văn hóa kinh doanh lành mạnh do vai trò và trách
nhiệm của các vị trí công tác chưa rõ ràng, hệ thống thông tin quản lý và quản
lý rủi ro chưa hiệu quả.
+ Hạ tầng công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán lạc hậu và có nguy
cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu
phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, năng lực quản lý điều hành của
NHNN và khả năng chống đỡ rủi ro của các NHTM còn nhiều hạn chế.
+ Thể chế của hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, hệ thống pháp luật
về ngân hàng thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu cải cách và lộ trình hội
nhập.
Vì thế, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô,
khách hàng và hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn
chế nêu trên và sự phân biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô
hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại
dịch vụ do các ngân hàng nước ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro
đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tăng lên do các ngân hàng nước
ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính trong nước thông qua hình
thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong
nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và
không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc
tế.
- Mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác
động từ bên ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường
trong nước và thị trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng
3

phải đối mặt với các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng.
Trong trường hợp đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân
hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên.
Bởi vậy, để có thể không ngừng phát triển và vươn lên với các bạn bè trên
khắp thế giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có những chính sách tiền tệ
thích hợp, phù hợp với sự biến động, thay đổi của thị trường như hiện nay.
II. NỘI DUNG
Để có thể hiểu, phân tích và định hướng được đường lối chính sách của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ta phải biết được lịch sử phát triển và những
đóng góp của hệ thống Ngân hàng Việt Nam qua các thời kỳ.
A. Lịch sử phát triển Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Các vị lãnh đạo cao nhất của NHNN Việt Nam qua các thời kỳ:
Đồng chí Nguyễn Lương Bằng
Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam từ 5/1951 đến 4/1952
Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà từ 1969 và mất năm 1979
Đồng chí Lê Viết Lượng
Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam
Từ 5/1952 đến 7/1964- Mất năm 1985
4
Đồng chí Tạ Hoàng Cơ
Tổng giám đốc Ngân hàng từ 8/1964 đến
1974 - Mất năm 1996
Đồng chí Đặng Việt Châu
Phó thủ tướng kiêm Tổng giám đốc Ngân
hàng nhà nước Việt Nam từ 1974 đến 1976 –
Mất năm 1990
Đồng chi Hoàng Anh

Phó Thủ tướng được cử giữ chức Tổng giám
đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam Từ 1976
đến 3/1977
Đồng chí Trần Dương
Tổng giám đốc Ngân hàng nhà nước VN Từ
4/1977 đến 2/1981
Đồng chí Nguyễn Duy Gia
Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam Từ 3/1981 đến 6/1986
Đồng chí Lữ Minh Châu
Tổng giám đốc Ngân hàng nhà nước VN Từ
7/1986 đến 5/1989
5
Đồng chí Cao Sỹ Kiêm
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Từ 6/1989 đến 10/1997
Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Từ 5/1998 đến 12/1999
Đồng chí Lê Đức Thuý
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam Từ 12/1999 đến 8/2007
Đồng chí Nguyễn Văn Giàu
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam Từ 8/2007
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch
sử phát triển của từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa
phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng
ngân hàng được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân hàng

Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng Trung
ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là ngân
hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực chính sách thuộc
địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Vì thế, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng Tháng 8 lúc bấy giờ là phải từng bước
xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập tự chủ. Nhiệm vụ đó đã trở
6
thành hiện thực khi bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp
ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các
chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự chuyển biến của cục diện cách
mạng cũng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển
theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế
mà Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia
Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực
hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản
lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình đấu
tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát
triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Tại Thông
tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia ký
thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi
tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp 1946 của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam giải phóng
1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng
tư bản tư nhân dưới chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất
thể hoá hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động ngân hàng của
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống
nhất về phương diện Nhà nước, nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra

đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào NHNN Việt
Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống
tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở
chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và
các chi điếm ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước.
Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách
mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được
chia làm 4 thời kỳ như sau:
7
1. Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt
Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính,
thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát
hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc
Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân
sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng
cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
2. Thời kỳ 1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ,
miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng
miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu cầu mới.
Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
sau;
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật
giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy
mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và
giải phóng Miền Nam.
3. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến
tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân

hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng
thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền
Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam cộng
hoà (ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước,
phát hành các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền
cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống
Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách,
chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự
thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển dần sang
8
hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những
năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay.
4. Thời kỳ 1986 đến nay: Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện
quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt
Nam thể hiện qua một số "cột môc" có tính đột phá sau đây:
+ Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà
nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân
hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động
ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai pháp lệnh
Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh
Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ
chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong
đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được
luật pháp phân biệt rạch ròi:
+ Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động
kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi
nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát
hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước;
NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ

ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính
sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2.
+ Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do
các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là
quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình
sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng
liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp
tác xã tín dụng, QTDND, công ty tài chính...Trong thời gian này, 4 ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn đã được thành lập gồm: 1) Ngân hàng Nông
9
nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; 3) Ngân hàng
Công thương Việt Nam; 4) Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
+ Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của
Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt
Nam không ngừng đổi mới và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách
của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên
niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình
đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng:
Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền
tệ quốc tế (IMF, WB, ADB)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt
động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ
1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long
(Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997).
Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu

lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP.
Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng -
Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và
đầu ra.
Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với
chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NHCSXH trên cơ
sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách
với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1 Luật
NHNNVN.
10
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy
định tại Nghị định số 86/2002/NĐ - CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 và Nghị
định 52/NĐ-CP ngày 19/5/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và những nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể sau đây:
1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án Luật, Pháp lệnh và dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
2. Trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn năm
năm và hàng năm về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
3. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Ngân hàng Nhà nước
4. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt
và các văn bản pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của ngành; tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về hoạt động ngân hàng
5. Về tiền tệ và hoạt động ngân hàng:
a) Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình
Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; Trình Chính phủ đề
án phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng;
b) Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng,

trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt
động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia,
tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật;
c) Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng; thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý các vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền
11
d) Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định
của Chính phủ
đ) Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế
e) Quản lý ngoại hối, hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động xuất nhập
khẩu vàng
f) Ký kết tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
theo quy định của pháp luật.
g) Đại diện cho Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền
tệ và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính
phủ uỷ quyền;
h) Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng
khoa học và công nghệ ngân hàng,
6. Thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương:
a) Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát
hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền;
b) Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện
thanh toán cho nền kinh tế;
c) Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở;
d) Kiểm soát dự trữ quốc tế, quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước;
đ) Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thanh toán,
quản lý việc cung ứng các phương tiện thanh toán;
e) Làm đại lý và các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc nhà nước
f) Tổ chức hệ thống thông tin và làm các dịch vụ thông tin ngân hàng.

12
7. Thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực
ngân hàng theo quy định của Pháp luật
8. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của
pháp luật
9. Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo việc thực hiện
cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực ngân hàng theo
quy định của pháp luật, quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự
nghiệp thuộc Ngân hàng Nhà nước
10. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền đại diện chủ sở
hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong lĩnh vực
ngân hàng theo quy định của Pháp luật
11. Quản lý nhà nước đối với các hoạt động của Hội và tổ chức phi Chính
phủ trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật
12. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của
Ngân hàng Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành
chính nhà nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
13. Quản lý về tổ chức, bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền
lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ,
công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước
14. Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của Pháp luật
15. Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của Nhà nước.
Trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, Hệ thống ngân hàng ở
nước ta đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu của cuộc cách mạng Việt
Nam qua những chặng đường chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
thắng lợi vẻ vang, góp phần củng cố nền độc lập, tự chủ, phục vụ sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
13
Để ghi nhận những cống hiến to lớn của toàn ngành Ngân hàng trong hai

cuộc kháng chiến với những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã
phong tặng và thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho nhiều tập thể, cá nhân của
ngành. Trong đó, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập, năm 1996 ngành NH đã
vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, 94 đồng
chí được trao tặng các Huân chương công trạng bậc cao từ Huân chương Hồ
Chí Minh đến các Huân chương độc lập hạng nhất, hạng nhì, hạng ba. Tại Đại
Hội thi đua yêu nước ngành Ngân hàng lần thứ IV tháng 9/2000, Đảng Nhà
nước và ngành Ngân hàng đã trao tặng danh hiệu anh hùng lao động và hàng
ngàn Huân, Huy chương, Bằng khen các cấp cho các tập thể và cá nhân của
ngành về những thành tích trong thời kỳ đổi mới.
Cho đến ngày hôm nay, hệ thống ngân hàng vẫn là nhân tố nòng cốt, tích
cực trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, vận hành bằng cơ chế kinh tế thị trường có sự quản
lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền văn minh tiền tệ
Việt Nam đã từng bước được khẳng định thông qua tính ổn định giá trị, tính đa
dạng về phương tiện thanh toán thay tiền mặt và không ngừng hoàn thiện các
công nghệ điều hành cũng như công nghệ kinh doanh hiện đại hướng về các
nhu cầu tiện ích đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Sự lớn mạnh và thay đổi
nhanh chóng theo chiều hướng ngày càng hiện đại phù hợp với tiêu chuẩn quốc
tế cùng với sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của ngành trong hơn nửa thế kỷ
qua chắc chắn Ngân hàng Việt Nam cũng sẽ không phụ lòng tin của Đảng, của
nhân dân và của bạn bè quốc tế. Với nhiệm vụ quan trọng là "một người chiến
sỹ xung kích" trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trước
những thách thức và thời cơ của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá trong giai
đoạn phát triển mới.
B. Khái quát những đóng góp của hệ thống ngân hàng Việt nam nhìn
qua lịch sử sơ lược về tiền tệ Việt Nam.
Có thể tạm phân chia các “Thời đại” tiền tệ của Việt nam ra thành các giai
đoạn gắn với lịch sử kinh tế - Chính trị - Xã hội của đất nước như sau:
14

1.Thời kỳ các triều đại Phong kiến: Hầu hết các triều Vua, Chúa nước ta
đều phát hành tiền bằng hai nguyên liệu chính là đồng và kẽm. Riêng Vua Hồ
Quí Ly cho phát hành tiền giấy và chỉ tồn tại 4 năm từ 1400 đến 1404, đến
1405 lại trở về sử dụng bằng chất liệu tiền đồng và tiền kẽm.
2.Thời kỳ thuộc Pháp: Từ 1858 đến 1875 khi chưa có Ngân hàng Đông
Dương (NHĐD) thì trên đất Việt tiêu đồng thời nhiều loại tiền khác nhau: Tiền
Fran của Pháp, tiền Mêxicô, tiền Trung Quốc...
3.Từ 1875 khi NHĐD thành lập thì dân ta tiêu tiền Đông Dương mang
bản vị bạc. Đến 1880 tiền Đông Dương mang bản vị vàng, tiêu song song với
đồng Fran của Pháp và các loại tiền đồng, tiền kẽm cũ. Từ 1880 đến 1930, tiền
giấy Đông Dương ra đời và mang bản vị bạc, từ 1930 đến 1936 đồng tiền này
mang bản vị vàng. Từ 1936 đến 1954 chế độ bản vị vàng bị sụp đổ và đồng
Đông Dương neo giá trị vào đồng Fran của Pháp - có thể gọi là bản vị Fran
Pháp.
4.Chế độ tiền tệ đa khu vực từ 1945 đến 1975: Thời kỳ kháng chiến chống
xâm lược Pháp 1945 - 1951: Chính quyền cách mạng của chính thể VNDCCH
phải lãnh đạo toàn dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Kháng
chiến và kiến quốc - Trong đó vấn đề tài chính, tiền tệ được đặc biệt quan tâm
và coi đó là một vũ khí sắc bén, trực tiếp của cả 2 nhiệm vụ chiến lược nói trên.
Ngày 1/12/1945, đúng 3 tháng sau ngày thành lập nước VNDCCH – Mở đầu
thời đại Hồ Chí Minh ở Việt nam, đồng tiền tài chính với chất liệu nhôm đầu
tiên lọai hai hào của ta được phát hành, tiếp theo đó ngày 21/1/1946 ta phát
hành đồng tiền nhôm loại năm hào, ngày 31/1/1946 phát hành tiền giấy gọi là
"giấy bạc Việt Nam" đầu tiên ở miền Trung, ngày 13 tháng 8/ 1946 phát hành
giấy bạc trên toàn miền bắc và sau kỳ họp Quốc hội lần thứ 2 vào tháng
11/1946, chính phủ đã cho phép Bộ tài chính tiếp tục phát hành giấy bạc Việt
nam trên phạm vi toàn quốc. Để phù hợp với chủ trương "tự cấp, tự túc, toàn
dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến và địa phương tự lập", Chính phủ đã
cho hình thành một chế độ tiền tệ đặc biệt: vừa tập trung, vừa phi tập trung:
Trên toàn quốc, nơi nào có điều kiện (chủ yếu là vùng tự do) thì lưu hành tiền

tài chính (giấy bạc Việt Nam), nơi nào thuộc vùng địch kiểm soát thì tiêu đồng
15
thời cả tiền Đông dương, cả tiền tài chính địa phương do chính phủ trung ương
uỷ quyền cho chính quyền cách mạng địa phương phát hành và gồm cả "tiền
Việt Nam hoá" bằng cách đóng dấu của Uỷ ban kháng chiến địa phương lên
tiền địch để lưu hành...Đây không chỉ là thời kỳ đấu tranh trên các lĩnh vực
chính trị, quân sự với địch, mà thuật ngữ "đấu tranh tiền tệ với địch" cũng trở
thành một khẩu hiệu hành động trong chỉ đạo chiến lược của Đảng lao động
Việt nam suốt thời kỳ toàn quốc kháng chiến (từ 19/12/1946 đến chiến thắng
Điện biên phủ 1954). Đến 6/ 5/ 1951 tại sắc lệnh số 15/ SL do Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký chuẩn y việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam (NHQG VN)
(để thay thế “Nha ngân khố quốc gia” và “Nha tín dụng sản xuất” trực thuộc Bộ
Tài Chính đã thành lập trước đó trên cơ sở “Việt nam quốc gia Ngân hàng”
thuộc Bộ Tài chính được thiết lập theo sắc lệnh số 86/SL ngày 17/9/1947 của
Chủ tịch Chính phủ dân chủ cộng hoà Việt nam). Ngay khi ra đời, NHQG đã
chính thức phát hành đồng tiền giấy mang tên: "NHQG Việt Nam" thay đồng
tiền Tài chính. Đổi 10 đồng tiền Tài chính ăn 1 đồng tiền NHQG - Một cuộc
đổi tiền diễn ra tới 20 tháng - Dài nhất trong lịch sử đổi tiền của NHVN. Song
vì tiền NHQG đầu tiên được in ra là để đổi đồng Tài chính trước đó nên hầu hết
những người có tiền đổi là thuộc khu vực công chức hưởng lương từ NSNN
nên đến tháng 2 năm 1959 Chính Phủ quyết định phân phối lại thu nhập và đã
đổi tiền lần thứ 2 với tỷ lệ 01 đồng NHQG mới ăn 1000 đồng NHQG cũ. Với
giá trị mới này, vào thời điểm từ tháng 2/1959 đến tháng 10/1960 một đồng
NGQGVN bằng 1,36 Rúp Liên Xô và cũng tương đương 1, 2 USD. Cuộc đổi
tiền năm 1959 được đánh giá là “ ngoạn mục” nhất trong lịch sử tiền tệ Việt
nam. Đến tháng 10/ 1961 đồng tiền NHQG VN ở miền Bắc được đổi tên thành
đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt nam (NHNN VN) với cùng một mệnh giá
để tránh trùng tên với đồng tiền NHQG ở miền Nam của chính phủ nguỵ quyền
Sài gòn.
5.Vào thời kỳ 1965 -1973: Thời kỳ cả nước có chiến tranh, Nhà nước đã

cho phép Quân đội sử dụng đồng “tiền Trường sơn” hay còn gọi là "phiếu bách
hóa" - Một hiện tượng tiền tệ kỳ diệu đã giúp quân đội có một cơ chế "phân
phối" rất linh hoạt: Thay vì bộ đội hậu cần phải chuyển nhu yếu phẩm đến từng
đơn vị đóng quân dọc Trường sơn thì chỉ cần chuyển hàng đến từng binh trạm
16
cố định. Việc phân phối sau đó đã trở nên vô cùng thuận tiện thông qua hình
thức "mua hàng" và thanh toán bằng tiền Trường sơn theo tổng định lượng vật
chất đã được giá trị hoá - Tính vô danh của tiền trong quan hệ phân phối đã
giảm đi một chi phí khổng lồ về thời gian, chứng từ, tem phiếu, sổ theo dõi của
cả hai bên nhập hàng và nhận hàng, đặc biệt là giảm biên chế hậu cần, giảm chi
phí kho lán ở từng đơn vị và do đó cũng hạn chế thương vong xương máu trên
đường đi phân phối nhu yếu phẩm cho từng đơn vị. Còn người “có tiền” thì tuỳ
nghi chủ động đến các binh trạm để “ mua ” hàng cho đơn vị mình đồng thời lại
tạo ra được sự đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau giữa những đơn vị và cá nhân, giữa
Quân đội với Thanh niên xung phong trên toàn tuyến Trường sơn - Thay vì việc
ủng hộ, tương trợ lẫn nhau bằng hiện vật vốn rất khó khăn và bất tiện thì những
người lính dễ dàng ủng hộ nhau dưới hình thức giá trị của định lượng ...
6.Chế độ tiền của chính quyền Ngụy Sài gòn từ 1954 đến 1975: Dưới sự
đô hộ của Đế Quốc Mỹ, cả miền Nam là một thị trường tiêu thụ và cung ứng
nguồn tài nguyên, sức lao động rẻ mạt - Bức tranh kinh tế thời chiến của chính
quyền Sài gòn là một nền kinh tế phồn vinh giả tạo: Thủ công, lắp ráp và tiêu
thụ. Chính quyền Ngụy có luật nghiêm cấm lưu hành đồng tiền miền Bắc và
đồng tiền Đông Dương ở miền Nam. Chúng thành lập Ngân hàng năm 1954 và
cũng lấy tên là NHQG Việt nam, cho phép tiêu song song đồng USD và đồng
tiền Quốc gia với tỷ giá 35đồng Quốc gia ăn 1 đồng USD. Tỷ giá này ổn định
từ năm 1954 đến năm 1960. Từ năm 1960 đến 1965 đồng tiền Ngụy mất giá
dần dần và đến năm 1965 tỷ giá này còn 118đ/USD. Từ năm 1966 đến 1968
sức mua của đồng tiền Ngụy tiếp tục mất giá mạnh xuống còn 250đ/ USD và
đến năm 1973 thì tỷ giá này đã là 500đ/ USD - giảm 14,3 lần so với thời kỳ
những năm 1954 - 1960.

7.Từ năm 1975 đến năm 1984: Trong 3 năm đầu sau ngày miền nam giải
phóng, để có một thời gian đệm cần thiết và quan trọng, hai miền vẫn dùng hai
đồng tiền khác nhau: Miền Bắc vẫn là tiền NHNN VN, miền Nam tiếp tục dùng
tiền của chính quyền cũ. Ngày 3/5/1975 chính quyền cách mạng tiếp quản
NHQG của Nguỵ quyền Sài gòn và vẫn sử dụng đồng tiền của chế độ cũ trong
lưu thông để không gây rối loạn trong lưu thông tiền tệ ở miền nam những ngày
đầu giải phóng. Ngày 6/6/1975 - 5 tuần sau ngày giải phóng, Chính phủ cách
17

×