Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

LUẬN VĂN: GIỮ GÌN BẢN SẮC DÂN TỘC pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.33 KB, 86 trang )
















LUẬN VĂN:


GIỮ GÌN BẢN SẮC DÂN TỘC























Chương1
NHÂN TỐ CHỦ QUAN
VỚI VIỆC GIỮ GèN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC

1.1. Nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan và bản sắc văn hoá dân
tộc.
1.1.1. Khái niệm: “nhân tố chủ quan”, “điều kiện khách quan”.
“Nhân tố chủ quan” và “điều kiện khách quan” là những khái niệm được
hỡnh thành và phát triển trong quá trỡnh nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con
người. Đây là những khái niệm chủ yếu khái quát mối quan hệ giữa hoạt động
nhận thức và hoạt động cải tạo giới tự nhiên của con người. Trong quá trỡnh hoạt
động, tác động và cải tạo giới tự nhiên; con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể
cải tạo hoàn cảnh. Do vậy, việc xác định cái gỡ là ĐKKQ, cái gỡ là NTCQ chỉ
mang tính chất tương đối, và nhất thiết phải tỡm hiểu các khái niệm liên quan tới
hoạt động của con người, như khái niệm “chủ thể”, “khách thể”, “chủ quan”,
“khách quan”.
** Về khái niệm: “chủ thể”, “khách thể”.
Trong quá trỡnh nghiên cứu, các nhà khoa học đó đưa rất nhiều cách hiểu và
định nghĩa khác nhau về hai phạm trù này:
Có quan điểm cho rằng: “Chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm) tiến

hành hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn” [65, tr.92].
Hoặc: “Chủ thể là con người có ý thức, ý chí, và đối lập với khách thể bên
ngoài” [66, tr.192].
Con người với tư cách là chủ thể, là con người thực tiễn, con người hành
động, với đặc trưng cơ bản là năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo khách thể
(tự nhiên, xó hội) và chỉ trong quá trỡnh nhận thức, cải tạo giới tự nhiên và cải tạo
đời sống xó hội thỡ con người mới bộc lộ mỡnh với tư cách là chủ thể của lịch sử.
Khi nói tới khái niệm “chủ thể”, V.I.Lênin viết:
“Khái niệm ấy (= con người) là khuynh hướng tự mỡnh thực hiện mỡnh, tự
cho mỡnh, qua bản thân mỡnh, một tính khách quan trong thế giới khách quan và
tự hoàn thiện (tự thực hiện) mỡnh” [29, tr.288].


Từ các quan niệm đó nêu ở trên, có thể hiểu: Chủ thể - đó là con người với
những cấp độ khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) đó và đang thực hiện một quỏ
trỡnh hoạt động nhằm cải tạo khách thể tương ứng.
Với cách hiểu khái niệm “chủ thể”như vậy thỡ chỉ có thể quan niệm: Khách
thể là tất cả những gỡ mà chủ thể hướng vào nhằm nhận thức và cải tạo nó.
Như vậy, không phải tất cả hiện thực khách quan đều là khách thể mà chỉ có
những hiện thực khách quan mà con người hướng tới nhận thức và cải tạo mới trở
thành khách thể; tuỳ mức độ xác định chủ thể nhận thức, cải tạo thế giới khách
quan là ai mới có thể xác định được khách thể tương ứng. Khách thể có thể là
những hiện tượng, quá trỡnh thuộc giới tự nhiên, cũng có thể là những gỡ do con
người tạo ra nhờ hoạt động lao động sản xuất vật chất, là những yếu tố xó hội,
những quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị - xó hội v.v…
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau,
mặt này là tiền đề tương tác của mặt kia, và con người chỉ trở thành chủ thể khi
hoạt động tác động vào thế giới khách quan, biến thế giới khách quan ấy thành
khách thể của quá trỡnh hoạt động thực tiễn của mỡnh. Chủ thể nhận thức và cải
tạo một cách chủ động sáng tạo khách thể theo mục đích của mỡnh; nhưng chính

khách thể bị tác động lại quy định chủ thể. Bởi lẽ, khách thể tồn tại độc lập với chủ
thể và luôn vận động theo những quy luật vốn có của nó, chỉ khi nào chủ thể nhận
thức, hành động phù hợp với quy luật vận động của khách thể, khi đó hoạt động
của chủ thể mới đem lại hiệu quả tích cực.
** Về khái niệm: “cái chủ quan”, “cái khách quan”.
Đây là hai khái niệm nói lên những thuộc tính chung của chủ thể và khách
thể được bộc lộ trong quá trỡnh hoạt động thực tiễn của con người. Những thuộc
tính, tính chất, yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, phụ thuộc vào chủ thể là cái chủ quan;
những tính chất, yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào chủ thể là cái
khách quan; nhưng giữa cái khách quan và cái chủ quan luôn tồn tại mối quan hệ
biện chứng, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau. Vỡ vậy, khi nói về khái niệm
“cái chủ quan” có học giả cho rằng: “Chủ quan là ý thức của chủ thể” [29, tr.92].
Hoặc: “Chủ quan là những gỡ thuộc về chỉ đạo hoạt động của chủ thể” [48,
tr.192].


Chúng tôi đồng ý kiến với quan điểm thứ 2. Tuy nhiên, khi xem xét toàn bộ
hoạt động của con người và những sản phẩm của hoạt động đó thỡ thấy rằng:
chúng bao giờ cũng chứa đựng những dấu ấn của cái chủ quan; nhưng không thể
coi tất cả những cái mang dấu ấn chủ quan (nhất là những dấu ấn thuộc những sản
phẩm nằm ngoài chủ thể) là thuộc về cái chủ quan. Hơn nữa, cái chủ quan cũng
không đơn thuần chỉ là ý thức như một số học giả quan niệm, mà cái chủ quan cũn
bao gồm cả yếu tố thể lực, yếu tố tinh thần như: tri thức, tỡnh cảm, ý chí v.v…của
con người, và chính cả bản thân hoạt động của họ. Như vậy, có thể nói: cỏi chủ
quan là tất cả những gỡ thuộc về chủ thể và phụ thuộc vào chủ thể.
Trong những hoạt động cụ thể, khi chủ thể tác động lên khách thể và biến đổi
nó theo mục đích của mỡnh không phải lúc nào chủ thể hoạt động cũng dùng tất cả
những năng lực, phẩm chất, yếu tố vốn có của mỡnh, mà có thể chỉ huy động một
phần, một bộ phận các yếu tố tạo thành cái chủ quan trong quá trỡnh tương tác với
khách thể, cái đó gọi là nhân tố chủ quan.

Nói cách khác, nhân tố chủ quan là những gỡ thuộc về chủ thể, tham gia trực
tiếp vào quỏ trỡnh hoạt động của chủ thể, cũng như bản thân hoạt động đó.
Do vậy, sẽ là sai lầm nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với tất cả các yếu tố tạo
thành cái chủ quan, hoặc đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức của chủ thể. Vỡ
“yếu tố” là khái niệm chỉ các bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng, cũn “nhân tố”
là khái niệm chỉ cái trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ thể; NTCQ chỉ là
một bộ phận của cái chủ quan được chủ thể huy động sử dụng trực tiếp trong quá
trỡnh tác động lên khách thể cụ thể. Cho nên, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với
cái chủ quan, hoặc với ý thức của chủ thể sẽ là không đầy đủ và không làm rừ
được đặc trưng của nhân tố chủ quan như là những gỡ thuộc về hoạt động của chủ
thể, NTCQ không phải là ý thức nói chung của chủ thể, mà là ý thức trực tiếp chỉ
đạo hoạt động của chủ thể. Ngoài các yếu tố của chủ thể như năng lực thể chất, ý
thức chỉ đạo và định hướng hoạt động thực tiễn, thỡ NTCQ cũn bao hàm cả bản
thân hoạt động đó nữa, nếu thiếu hoạt động của con người thỡ không thể thay đổi
hiện thực và không thể trở thành NTCQ. Đề cập đến vấn đề này, C.Mác viết:
“Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gỡ hết. Muốn thực hiện được tư
tưởng cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [37, tr.12].


Khái niệm NTCQ cũng không đồng nhất với khái niệm nhân tố con người.
Nhân tố con người là tất cả những gỡ thuộc về con người (mọi mặt của con người)
trong hoạt động cải tạo thế giới (tự nhiên, xó hội và cả bản thân con người).
NTCQ có phạm vi xem xét hẹp hơn nhân tố con người, vỡ nó chỉ thể hiện vai trũ
của chủ thể trong một hoạt động xác định.
Các nguyên lý triết học mác xít chỉ rừ con người vừa là sản phẩm của hoàn
cảnh nhưng đồng thời cũng là chủ thể của hoàn cảnh. Do đó, khi đặt trong mối
quan hệ chung nhất, đối diện với tự nhiên chúng ta có khái niệm con người. Khi
đặt con người trong trạng thái tích cực hoạt động trước một đối tượng cần nhận
thức và cải tạo theo mục đích nhất định, lúc đó có khái niệm chủ thể và đối lập với
nó là khái niệm khách thể.

Về phạm trù cái khách quan, cũng có rất nhiều cách hiểu và quan điểm khác
nhau, có ý kiến quy phạm trù khách quan về phạm trù vật chất, có ý kiến cho rằng
cái khách quan bao hàm cả hiện tượng ý thức…Trên thực tế, muốn khẳng định cái
gỡ là khách quan phải đặt nó trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Không
thể đồng nhất cái khách quan với hiện thực khách quan hay thế giới vật chất, vỡ
chỉ có những hiện tượng ý thức tồn tại bên ngoài ý thức và ý chí của chủ thể, bị
chủ thể tác động biến đổi, thỡ ý thức ấy đóng vai trũ là khách thể.
Như vậy: Cỏi khỏch quan là tất cả những gỡ tồn tại ngoài chủ thể và khụng
phụ thuộc vào ý thức, ý chớ của chủ thể.
Cái khách quan bao gồm cả những yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần. Nhưng
trong hoạt động thực tiễn của chủ thể không phải toàn bộ cái khách quan đều đóng
vai trũ là khách thể, mà chỉ có một bộ phận của cái khách quan tham gia vào hoạt
động của chủ thể, trở thành khách thể chịu tác động của chủ thể trong một thời
điểm, hoàn cảnh nhất định. Một bộ phận ấy (có thể là những yếu tố vật chất như:
môi trường tự nhiên, là quan hệ chính trị- xó hội, hoặc là yếu tố tinh thần như: ý
thức xó hội lạc hậu cần cải tạo…). Đó chính là điều kiện khách quan.
Khi nói tới khái niệm ĐKKQ, các học giả cũng đưa ra rất nhiều cách tiếp cận
khác nhau như: “Là những gỡ tạo nên một hoàn cảnh hiện thực…”, “Là một phần
của cái khách quan…”, nhưng tất cả những quan điểm đó đều thống nhất cơ bản ở


một điểm, đó là: “tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể và chi phối
hoạt động của chủ thể” [dẫn theo 60, tr.12].
Có thể nói: ĐKKQ là tổng thể những mặt, những nhân tố tạo nên hoàn cảnh
hiện thực.Trong đó chủ thể sống và thực hiện mọi hoạt động ở những thời điểm
nhất định.
ĐKKQ luôn mang tính cụ thể, bao gồm: những yếu tố vật chất, tinh thần,
những quy luật khách quan, những khả năng khách quan (khả năng tiềm ẩn có thể
sảy ra trong tương lai). Những yếu tố ấy sẽ là những điều kiện cụ thể tạo nên hoàn
cảnh, môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của chủ thể tại một thời điểm

lịch sử nhất định, nó quyết định hoạt động của chủ thể, vỡ những hoạt động của
chủ thể chỉ được thực hiện trong những điều kiện nhất định. Việc lựa chọn nắm
bắt hoàn cảnh như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại
trong hoạt động thực tiễn của chủ thể.
** Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Thứ nhất, ĐKKQ quy định vai trũ của NTCQ.
Phương pháp luận mác xít luôn khẳng định: ĐKKQ đóng vai trũ quan trọng
và quy định NTCQ. Tính quy định của ĐKKQ đối với NTCQ được thể hiện ở chỗ:
trong hoạt động thực tiễn, những dự định mà con người đặt ra phải dựa trên cơ sở
hiện thực khách quan, nếu chỉ căn cứ vào ý muốn chủ quan, thoát ly cơ sở hiện
thực thỡ hoạt động của con người sẽ không thể thành công.
“Thật ra mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy
thế giới khách quan làm tiền đề” [29, tr.201].
ĐKKQ quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể, nó là yếu tố chi phối, quy
định phương pháp, cách thức, phương tiện tác động của chủ thể, mọi hoạt động
của chủ thể phải phù hợp với thực tiễn khách quan.
ĐKKQ quy định sự phát triển của nhân tố khách quan, những phẩm chất, yếu
tố của chủ thể phải tương ứng với ĐKKQ mà trong đó chủ thể hoạt động, khi
ĐKKQ thay đổi thỡ NTCQ cũng phải thay đổi cho phù hợp với ĐKKQ mới.
Thứ hai, NTCQ có vai trũ tác động tích cực đến sự biến đổi của ĐKKQ.
NTCQ là những gỡ thuộc về chủ thể, cho nên NTCQ tuy bị ĐKKQ quy định
nhưng nó không thụ động hoàn toàn mà có tính tích cực sáng tạo, tính độc lập


tương đối so với ĐKKQ. Vai trũ tích cực sáng tạo của NTCQ thể hiện ở chỗ:
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể vận dụng sáng tạo cái chủ quan của mỡnh để
tỡm hiểu, nhận thức quy luật vận động của cái khách quan, khi cả hai tương thích
sẽ tạo nên sự chuyển hoá khả năng thành hiện thực.
Với tư cách là chủ thể hoạt động, con người luôn chủ động lựa chọn những
khả năng tốt nhất, vừa đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của mỡnh vừa không đi

ngược lại tiến trỡnh phát triển của lịch sử. Các quy luật khách quan vận động đan
xen nhau, nhưng chủ thể hoạt động có khả năng dựa trên cơ sở những nhận thức
đúng, phù hợp của mỡnh để điều chỉnh hỡnh thức, trật tự tác động của quy luật
khách quan, có thể tạo ra những yếu tố làm xuất hiện những quy luật khách quan
mới.
Trong quá trỡnh tác động trở lại quy luật khách quan, NTCQ cũng đồng thời
tự nâng cao khả năng nhận thức của mỡnh trong quá trỡnh biến đổi thế giới khách
quan. Tuy nhiên, NTCQ có vai trũ to lớn đến đâu, sức sáng tạo đến thế nào thỡ
trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề vẫn phải xuất phát từ thực tế khách quan
và phải tuân thủ các nguyên tắc khách quan. Hơn nữa, bản thân chủ thể hoạt động
cũng là sản phẩm của thế giới khách quan, có nguồn gốc từ thế giới khách quan,
toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt, lao động, và phát triển của chủ thể đều phản ánh
những điều kiện, quy luật của thế giới khách quan - Mọi sự cố gắng của chủ thể
trong quá trỡnh phản ánh, nhận thức và cải tạo thế giới cũng là để đáp ứng một
cách tốt nhất những mục đích và nhu cầu sống của chính mỡnh (cả vật chất lẫn
tinh thần).
Nói tóm lại, trong mối quan hệ biện chứng giữa NTCQ và ĐKKQ thỡ
ĐKKQ là tính thứ nhất, quy định NTCQ cả về nội dung, phương hướng và tổ chức
hoạt động thực tiễn. Nhưng NTCQ không bị động trước hoàn cảnh khách quan mà
luôn lấy ĐKKQ là điểm xuất phát, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Phát hiện, nắm bắt những khả năng khách quan, tạo ra những tiền đề biến
khả năng khách quan thành hiện thực, làm chủ cái khách quan, biến tính tất yếu
khách quan thành nội dung hoạt động tự do sáng tạo của mỡnh. Tính biện chứng
trong mối quan hệ giữa NTCQ và ĐKKQ cũn thể hiện ở chỗ: để đảm bảo tính hiệu
quả trong hoạt động thực tiễn thỡ bắt buộc NTCQ phải vận động, phát triển, tự


hoàn thiện những phẩm chất, nâng cao nhận thức, khả năng vận dụng, tổ chức hoạt
động thực tiễn của mỡnh cho phù hợp với những quy luật vốn có của thế giới
khách quan. Bất cứ một sự tuỳ tiện, chủ quan, duy ý chí nào cũng sẽ dẫn tới những

hành động vi phạm quy luật khách quan, kỡm hóm sự phát triển của tự nhiên, xó
hội, con người và của chính bản thân chủ thể đang tham gia hoạt động ấy.
Lịch sử xó hội loài người là lịch sử của chính con người. Hành động làm nên
lịch sử đầu tiên của con người, đó là những hoạt động lao động cải tạo tự nhiên để
đáp ứng và thoả món những nhu cầu tồn tại của mỡnh. Từ hoạt động lao động cải
tạo thế giới tự nhiên đó, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với xó hội loài người được thiết lập, các quan hệ xó hội của loài người được
hỡnh thành (tự nhiên và khách quan). Cùng với tự nhiên, giống như tự nhiên, xó
hội loài người cũng không ngừng vận động và phát triển theo những quy luật nhất
định. Trong quá trỡnh đó, cái khách quan và cái chủ quan, những ĐKKQ và
NTCQ bao giờ cũng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng; trong đó
ĐKKQ bao giờ cũng có vai trũ quy định đối với NTCQ. Thực tiễn lịch sử cho
thấy, trong quá trỡnh hoạt động lao động của con người, chỉ khi nào những quan
hệ vật chất cần thiết đó phát triển chín muồi, hoặc ít ra cũng đang trong quá trỡnh
hỡnh thành, thỡ khi đó NTCQ mới có cơ sở khách quan để biến những khả năng
thành hiện thực, công cuộc cải biến xó hội mới thành công.
Khi phân tích tỡnh thế cách mạng ở Nga năm 1917, so sánh tỡnh hỡnh cách
mạng ở Nga khi đó với những tỡnh thế cách mạng trước đó cả ở Nga, ở Đức, và
tất cả các thời kỳ cách mạng Phương Tây trước đó. V.I.Lênin đó khẳng định: Cũng
là những ĐKKQ giống như thế, cũng là sự khủng hoảng chính trị của tầng lớp trên
cùng, quần chúng nhân dân bị áp bức nặng nề, cũng là ý thức muốn vùng lên làm
một cuộc cải biến xó hội… Nhưng các cuộc cách mạng trước đó không thể nổ ra là
vỡ thiếu đi sự chín muồi của NTCQ, của giai cấp cách mạng, tức là thiếu đi khả
năng phát động, tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân tạo sức mạnh tổng hợp của
các giai cấp bị trị trong cuộc đấu tranh cách mạng ấy [28, tr. 268].
Và như vậy, theo V.I.Lênin, nếu không xuất hiện các tỡnh thế cách mạng
(ĐKKQ), hoặc nếu không có sự biến đổi chủ quan của giai cấp cách mạng thỡ


tỡnh thế cách mạng (ĐKKQ) chỉ là khả năng khách quan, mà không thể là hiện

thực.
Trên thực tế, không phải lúc nào các ĐKKQ cũng tự phát (tự nó) hỡnh thành,
mà có lúc các ĐKKQ cũng phải được xúc tiến, nảy sinh thông qua các hoạt động
tích cực của con người. Sự năng động chủ quan của con người phải được đo bằng
hiệu quả vật chất chứ không chỉ là trong lý luận hay tư duy.
Một vấn đề thực tiễn quan trọng trong nghiên cứu mối quan hệ giữa NTCQ
và ĐKKQ là ở chỗ: phát huy vai trũ NTCQ không thể tách rời những ĐKKQ đang
có, không thể hoạt động một cách tuỳ tiện trước quy luật của TN, của XH. Đó phải
là sự biến đổi không ngừng của bản thân chủ thể (từ năng lực, phẩm chất, đạo
đức…đến khả năng thiết kế, tổ chức hoạt động thực tiễn…). Khi đó mới thúc đẩy
được kinh tế – xó hội phát triển, mới cải tạo thế giới khách quan thành công, mới
ngày một nâng cao hơn chất lượng cuộc sống cho con người cả về vật chất lẫn tinh
thần, con người (chủ thể hành động) ngày càng hoàn thiện bản thân mỡnh, trang bị
cho mỡnh đầy đủ các điều kiện để vươn tới cuộc sống đậm chất người hơn.
1.1.2. Văn hoá và bản sắc văn hoá dân tộc.
Văn hóa - Cho đến nay, không phải tất cả mọi người đó đồng ý với nhau về
định nghĩa. Từ cổ chí kim, trong lịch sử loài người, xuất phát từ cách tiếp cận và
nhận thức khác nhau mà hỡnh thành các định nghĩa về văn hoá. Năm 1952, các
nhà dân tộc học người Mỹ đó thống kê được hơn 300 định nghĩa mà các tác giả
thuộc nhiều nước khác nhau đó phát biểu về văn hoá, các định nghĩa ấy đó khai
thác vấn đề văn hoá dưới từng góc độ, từng mặt khác nhau, nhưng ở khía cạnh nào
đó cũng có sự thống nhất hoặc bổ sung cho nhau trong sự nhận thức về văn hoá.
C.Mác và Ph.Ăngghen đó nhỡn nhận văn hoá như là một sản phẩm của lịch
sử, là sản phẩm của quá trỡnh lao động cải tạo tự nhiên của các thế hệ người. Do
vậy, trỡnh độ phát triển của văn hoá phụ thuộc vào trỡnh độ nhận thức và sức sáng
tạo của con người trong quá trỡnh hoạt động thực tiễn của họ. Nếu tách văn hoá ra
khỏi đời sống của con người và xó hội loài người thỡ văn hoá chẳng cũn ý nghĩa
gỡ cả. C.Mác cho rằng: “con người sản xuất” là một “thực thể song trùng” thống
nhất giữa “cái tự nhiên và cái xó hội”. Trong đó, yếu tố tự nhiên được cấu tạo như
một sinh vật và nó vận động theo quy luật sinh học [36, tr.9]. Nhưng điểm khác



biệt giữa con người với động vật là ở chỗ con người mang bản chất xó hội. Bản
chất của con người thể hiện ra trong mối quan hệ giữa mỗi người với người khác,
giữa mỗi người với cộng đồng xó hội và thể hiện trong kết cấu xó hội hiện thực, ở
một không gian, thời gian xác định. Trong luận cương về Phơbách, C.Mác viết:
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ
xó hội” [38, tr.11].
Con người được sinh ra và sống trong giới tự nhiên. Nhưng con người không
bị hoà tan hay lệ thuộc vào giới tự nhiên mà ngày càng tách mỡnh ra khỏi giới tự
nhiên và rồi quay lại giới tự nhiên, cải tạo nó, làm cho nó trở thành giới tự nhiên
thứ hai, giới tự nhiên của chính mỡnh, đồng thời qua đó cải biến chính bản thân
mỡnh - Đó chính là văn hoá. C.Mác viết:
Cố nhiên, con vật cũng sản xuất…Nhưng súc vật sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách phiến diện, trong
khi con người sản xuất một cách toàn diện; con vật chỉ sản xuất vỡ bị chi
phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, cũn con người sản xuất ngay cả khi không
bị nhu cầu thể xác ràng buộc, và chỉ khi không bị nhu cầu đó ràng buộc thỡ
con người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của từ đó; Con vật chỉ tái
sản xuất ra bản thân nó, cũn con người thỡ tái sản xuất ra toàn bộ giới tự
nhiên [40, tr.137].
Con người là một thực thể có ý thức, sống, hoạt động trên cơ sở hiểu rừ bản
thân, hiểu rừ đối tượng định tác động, từ đó tự chịu trách nhiệm về mục tiêu, thái
độ, hành vi, phương hướng tác động đến đối tượng. Sự tự ý thức của con người
được thể hiện rừ nét trong đời sống tinh thần, trong sáng tạo nghệ thuật, họ sản
xuất và xây dựng “theo các quy luật cái đẹp” [40, tr.137], điều đó thể hiện rừ đầu
óc chiến lược, năng lực phân tích, tổng kết, dự báo, gắn với tầm nhỡn và nhón
quan văn hoá của chủ thể hành động.
Trong thế giới tự nhiên chỉ có duy nhất con người sống và hoạt động với tư
cách là chủ thể của bản thân mỡnh, làm chủ giới tự nhiên, hoà vào giới tự nhiên

nguyên sơ, để tạo nên một “thiên nhiên thứ hai” nhằm thỏa món những nhu cầu,
ham muốn chinh phục tự nhiên, xó hội …của bản thân con người - Đó là văn hoá.
C.Mác cho rằng, xét đến cùng, văn hoá có nguồn gốc từ lao động. Bởi lẽ, mọi hoạt


động sáng tạo của con người nhằm cải biến tự nhiên và xó hội đều bắt đầu từ lao
động. Chính lao động đó sáng tạo ra con người và xó hội loài người, làm cho con
người ngày càng thoát ra khỏi bản năng động vật, tiến dần đến trỡnh độ trưởng
thành về nhân cách, trỡnh độ trưởng thành về văn hoá của mỗi cá nhân.
Trong quá trỡnh lao động, con người đó in dấu mỡnh vào trong từng khâu,
từng yếu tố, từng mặt, từng bộ phận…của thành quả lao động, làm cho tự nhiên tự
hiện hỡnh trong hoạt động của con người.
C.Mác viết: “…Bằng thực tiễn, bằng con đường cách mạng; họ sẽ làm cho
“tồn tại” của mỡnh phù hợp với bản chất của mỡnh” [40, tr.507].
Như vậy, theo C.Mác, văn hoá được hỡnh thành và phát triển trên cơ sở sự
hỡnh thành và phát triển con người. Thước đo của sự tiến bộ và phát triển này
chính là mức độ hỡnh thành và phát triển bản chất người trong quá trỡnh con
người chinh phục và biến đổi tự nhiên, trong mối quan hệ giữa con người với cộng
đồng, mà bao trùm là quan hệ giữa đời sống tinh thần và không gian sống vật chất
của con người và của xó hội loài người. Nếu môi trường đầu tiên cho con người sự
hỡnh thành và phát triển, quyết định sự tồn tại của con người là sản xuất vật chất,
thỡ môi trường thứ hai cho con người bộc lộ, phát huy những năng lực và bản chất
người trong các hoạt động sống, đó chính là sản xuất văn hoá.
Quan niệm của V.I.Lênin về văn hoá khá rộng và bao quát. Từ cách tiếp cận
hỡnh thái kinh tế - xó hội, V.I.Lênin cho rằng: Sự phát triển của văn hoá gắn liền
với sự phát triển của các hỡnh thái kinh tế - xó hội, mỗi một hỡnh thái kinh tế - xó
hội có một nền văn hoá tinh thần đặc trưng (như một giá trị lịch sử), khi hỡnh thái
kinh tế - xó hội thay đổi, thỡ nền văn hoá tương ứng với nó cũng có sự thay đổi
nhất định. Đây không có nghĩa là sự đứt đoạn hay đoạn tuyệt với các giá trị văn
hoá truyền thống, mà trong quá trỡnh chuyển hoá, nền văn hoá mới luôn kế thừa

những di sản, thành tựu của nền văn hoá trước đó, đồng thời bổ xung những yếu tố
mới phù hợp với những đặc điểm và quan hệ của hỡnh thái kinh tế – xó hội mới.
V.I.Lênin khẳng định: Ở đâu có hoạt động của con người thỡ ở đó có văn hoá và
văn hoá không chỉ dừng lại ở văn hoá tinh thần mà cũn bao hàm cả văn hoá vật
chất. Người coi văn hoá là phương tiện quan trọng nhất trong tất cả các loại hỡnh
hoạt động của con người và là kết quả của quá trỡnh hoạt động đó. Vỡ vậy, trong


quá trỡnh xây dựng nền văn hoá mới, V.I.Lênin nhấn mạnh nguyên tắc tính đảng,
tính nhân dân, tính dân tộc, tính nhân loại trong văn hoá, cách mạng văn hoá, trước
hết là cách mạng trong trí tuệ, trong ý thức của quần chúng. Người khẳng định:
hoạt động văn hoá và sản phẩm văn hoá phải là “của” nhân dân, chứ không phải
“cho” nhân dân. Người viết: “Chủ nghĩa xó hội được xây dựng không phải bằng
mệnh lệnh từ trên. Tinh thần của nó xa lạ với bộ máy nhà nước quan liêu; Chủ
nghĩa xó hội sinh động, sáng tạo, tức là sáng tạo của chính quần chúng” [27,
tr.464].
Sáng kiến của Người đó khơi dậy tiềm năng, tính chủ động sáng tạo của quần
chúng nhân dân, mở ra hướng đi và nhiệm vụ mới cho cách mạng vô sản - cách
mạng văn hoá. Đó là cuộc cách mạng giải phóng triệt để con người và xó hội loài
người khỏi những áp bức bất công cả trong lao động cũng như trong mọi hoạt
động sáng tạo của họ.
Theo V.I. Lênin, muốn xây dựng một nền văn hoá mới, nền văn hoá vô sản
có khả năng phát triển toàn diện năng lực và bản chất người, cần phải kế thừa có
phê phán các giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại, đồng thời phát triển nó lên
một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hoá và bản chất người. Người nói rằng:
Nền văn hoá vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải là
do những người tự cho mỡnh là chuyên gia về văn hoá vô sản bịa đặt ra…
văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài
người đó tạo ra dưới ách áp bức của xó hội Tư bản, địa chủ và của xó hội
quan liêu [27, tr.402].

Người cũng chỉ ra rằng, chỉ có xây dựng thành công CNXH, CNCS thỡ con
người mới có điều kiện thể hiện đầy đủ năng lực sáng tạo, trỡnh độ làm chủ của
mỡnh trước tự nhiên, xó hội và ngay cả trước bản thân mỡnh. Từ đó, con người và
xó hội loài người mới có điều kiện xây dựng và phát triển sự công bằng, bỡnh
đẳng, tự do cho bản thân, các tiêu chí: chân, thiện, mỹ…mới được xác lập và hoàn
thiện, hoạt động sáng tạo của con người mới có đầy đủ điều kiện đạt tới trỡnh độ
nhân văn đích thực.
Cũng như các bậc tiền bối của chủ nghĩa Mác, quan niệm về văn hoá của nhà
văn hoá lớn Hồ Chí Minh cũng rất rộng; xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ


truyền thống văn hiến ngàn đời của dân tộc Việt Nam, với tầm nhỡn bao quát,
Người đưa ra khái niệm về văn hoá như sau:
Vỡ lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đó sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đũi hỏi của sự sinh tồn [41, tr.431].
Quan điểm trên của Người đó khái quát được nội dung rộng nhất của phạm
trù văn hoá. Chỉ ra văn hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con
người mà cũn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Người cũng chỉ ra
nguồn gốc sâu xa của văn hoá đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người, với tư
cách là chủ thể hoạt động của đời sống xó hội. Nó biểu hiện sự thống nhất của yếu
tố tự nhiên, yếu tố xó hội trong con người, biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của
con người. Nghĩa văn hoá mà nhà văn hoá lớn Hồ Chí Minh đề cập được trải rộng
trên cả hai lĩnh vực văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, nhưng việc phân định
hai lĩnh vực văn hoá như trên chỉ có tính chất tương đối, vỡ trên thực tế mỗi kết
quả của hoạt động lao động của con người đều bao hàm trong đó cả hai giá trị vật

chất và tinh thần.
Là ngưũi anh hùng giải phóng dân tộc, là Danh nhân văn hoá thế giới. Trong
hoạt động văn hoá Hồ Chí Minh rất chú ý đến con người. Trong hành động cách
mạng cũng như trong đối nhân xử thế Người luôn hết lũng hết sức phục vụ nhân
dân, yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, Người biến tỡnh
cảm đó thành phương châm sống của chính mỡnh một cách rất tự nhiên, ở mọi lúc,
mọi nơi. Khi cũn hoạt động ở Pháp người đó kịch liệt lên án chính sách ngu dân
của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa; để thực hiện mong
muốn của mỡnh, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đó chủ trương
và thực hiện đồng thời chiến dịch chống giặc đói và chiến dịch chống giặc dốt.
Người cho rằng: văn hoá là tinh hoa của dân tộc, văn hoá phải góp phần khẳng
định vị thế của dân tộc và một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Cho nên: “Phải triệt


để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc. Đồng
thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những
cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có
tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng” [43, tr.173].
Quan điểm coi trọng truyền thống văn hoá dân tộc, giữ gỡn những tinh hoa,
những yếu tố tích cực trong kho tàng văn hoá của cha ông cũng nói rừ quan điểm
bảo tồn bản sắc văn hoá của Danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh; Những điều mà
Người nói, Người viết rất giản dị, mộc mạc, nhưng mang ý nghĩa giáo dục và nhân
văn sâu sắc: cái gỡ cũ mà xấu thỡ phải bỏ…cái gỡ cũ mà không xấu, nhưng phiền
phức thỡ phải sửa đổi lại cho hợp lý…cái gỡ cũ mà tốt, thỡ phải phát triển
thêm…Người cũng nhấn mạnh nguyên tắc kế thừa và phát triển trong quan điểm
về bảo tồn văn hoá; văn hoá phải thoát khỏi mọi biểu hiện kỳ thị chủng tộc, tránh
xu hướng độc tôn, tránh phục cổ một cách máy móc, kế thừa phải đi đôi với sự
tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại. Đồng thời, trong quá trỡnh
giao lưu quốc tế, đũi hỏi mỗi quốc gia phải nghiên cứu kỹ, toàn diện văn hoá của
các dân tộc khác, học lấy những gỡ tốt đẹp, làm giàu hơn cho văn hoá của chính

mỡnh, có như thế văn hoá Việt Nam mới thật có tinh thần thuần tuý Việt Nam,
mới đủ sức mạnh “soi đường cho quốc dân đi”.
Hồ Chí Minh đó để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng vô cùng to lớn
trong nhiều lĩnh vực, mà văn hoá là một trong những lĩnh vực ấy. Những quan
điểm của Người về văn hoá, về giữ gỡn, bảo tồn văn hoá dân tộc đó trở thành
phương châm hành động của Đảng, của Nhà nước, của Nhân dân ta, đặc biệt là các
nhà văn hoá.
Thấm nhuần lý luận Mỏc – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng và Nhà nước
ta đó có sự đổi mới nhận thức về văn hoá trên mọi phương diện. Nghị quyết 4 Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII); và đặc biệt, đến nghị quyết Trung ương
năm (khoá VIII) đó đề cập đến toàn bộ các vấn đề văn hoá liên quan đến quốc tế
dân sinh, đến xây dựng đời sống tinh thần cho con người. Trong năm quan điểm
chỉ đạo cơ bản của nghị quyết, quan điểm thứ nhất đó khẳng định: “Văn hoá là nền
tảng tinh thần của xó hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xó hội” [17, tr.55], cho thấy: chính sách kinh tế trong văn hoá mà Nghị


quyết Trung ương năm (khoá VIII) đó đề cập nhằm mục đích gắn văn hoá với hoạt
động kinh tế, khai thác các tiềm năng kinh tế hỗ trợ cho các hoạt động phát triển
văn hoá và đồng thời cũng đảm bảo được các yêu cầu về chính trị, tư tưởng của
hoạt động văn hoá, giữ gỡn bản sắc văn hoá dân tộc. Khi đề cập đến vấn đề “bản
sắc văn hoá dân tộc”, Đảng ta khẳng định:
Bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lũng yêu nước nồng nàn,
ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân
- gia đỡnh - làng xó - Tổ quốc; lũng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tỡnh,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính
giản dị trong lối sống… bản sắc văn hoá cũn đậm nét cả trong các hỡnh thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [17, tr.56].

Kế thừa những quan điểm nêu trên, có thể khái quát về văn hoá và bản sắc
văn hoá dân tộc như sau: Văn hoá là sự phản ánh tổng thể những năng lực bản
chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị
(cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần) do con người sáng tạo ra trong quá trỡnh
hoạt động thực tiễn lịch sử xó hội của mỡnh.
Với cách hiểu văn hoá như vậy, chúng ta có thể thấy: Văn hoá là một hệ
thống tổng thể quy định đời sống của một dân tộc, nó gắn với các biểu hiện
phương thức tồn tại người, là sự thể hiện đầy đủ bản chất của con người trong tất
cả mọi dạng hoạt động, bao gồm hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận thức và hoạt
động giao tiếp v.v Hệ thống này bao gồm toàn bộ những gỡ thuộc về tư duy, tín
ngưỡng, phong tục tập quán…, những gỡ thuộc về cơ tầng xó hội như hôn nhân,
gia đỡnh…, những gỡ thuộc về môi trường sinh thái, đảm bảo cho cuộc sống, sự
tồn tại và phát triển của một dân tộc. Điều đó cũng có nghĩa tất cả những yếu tố có
liên quan đến con người với tư cách là con người cá nhân, con người xó hội, liên
quan đến mọi cách thức tồn tại của con người và cộng đồng người đều liên quan
đến văn hoá - Văn hoá chính là sự phát triển, là sự thể hiện lực lượng vật chất,
năng lực tinh thần của con người trong các lĩnh vực sản xuất vật chất, sản xuất tinh
thần. Tuy nhiên, không thể phân chia văn hoá một cách rạch rũi thành “văn hoá


vật chất” hay “văn hoá tinh thần”. Bởi vỡ, cái gọi là “văn hoá vật chất” thực chất
chỉ là sự “vật chất hoá” các giá trị tinh thần, bản thân các giá trị tinh thần cũng
hiếm khi tồn tại dưới dạng tinh thần thuần tuý, mà nó thường được “vật thể hoá”
trong các dạng tồn tại của vật chất. Ngay cả các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng
phi vật thể nhưng vẫn mang tính vật chất khách quan như văn hoá trong các lĩnh
vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán… khi tiếp cận vấn đề
văn hoá cần phải xét văn hoá dưới dạng cấu trúc hoàn chỉnh và các chức năng
tương ứng với cấu trúc ấy, trong đó chức năng vận hành đóng vai trũ quyết định.
Trong văn hoá: chức năng là cơ chế vận hành của cấu trúc, nếu không có chức
năng thỡ cấu trúc không vận hành, nếu cấu trúc văn hoá có bị phá huỷ hay mai

một vỡ nguyên nhân nào đó nhưng chức năng vận hành vẫn cũn thỡ cấu trúc sẽ
được phục hồi và vấn đề chỉ là thời gian.
Nói tóm lại: Văn hoá gắn với toàn bộ hoạt động sống của con người, là
“thiên nhiên thứ hai” với tư cách là sản phẩm mang tính tộc loại của con người.
Văn hoá, về bản chất thường hướng tới mục tiêu “nhân đạo hoá” con người, hướng
tới sự phát triển và giải phóng những năng lực bản chất của con người, nhằm phát
triển toàn diện con người, hoàn thiện xó hội loài người. Cho nên, trong quá trỡnh
phát triển của lịch sử, bên cạnh sự hội nhập, cố gắng phấn đấu để có thể ngang
bằng nhau về kinh tế, mức sống, kỹ thuật, văn minh thỡ vấn đề giữ gỡn, tôn vinh
và phát huy những tinh hoa văn hoá sẽ làm nên sự khác biệt, sự độc đáo giữa các
dân tộc về lối sống, phương thức sống và giá trị cuộc sống.
Vấn đề bản sắc văn hoá dân tộc được rất nhiều quốc gia trên thể giới quan
tâm (đặc biệt là các nước đang phát triển). Trong “thập kỷ thế giới văn hoá phát
triển” (1988 – 1997) UNESCO ghi rừ:
Mối quan tâm lớn của những xó hội đương thời là việc giữ gỡn những
nét độc đáo trong bản sắc văn hoá của dân tộc mỡnh và ngăn chặn sự sói
mũn những giá trị văn hoá do sự biến đổi của thị hiếu, lối sống, ảnh hưởng
của nước ngoài [dẫn theo 61, tr.79].
Văn hoá do con người sáng tạo ra, nhưng văn hoá không mất đi cùng với thế
hệ người tạo ra nó, mà văn hoá tồn tại trong những lớp trầm tích các di sản, được


bổ xung những cái tiên tiến, tạo nên dấu ấn riêng biệt cho mỗi dân tộc, đó chính là
bản sắc văn hoá dân tộc.
Như vậy, có thể nói: Bản sắc văn hoá dân tộc chính là căn tính của dân tộc
đó, là cái không hề trộn lẫn của dân tộc này v
ới dân tộc khác.
Đối với mỗi dân tộc, văn hoá là căn cước, là chứng chỉ, nó chỉ rừ anh là ai,
thiếu nó anh không tồn tại như một giá trị. Bản sắc dân tộc bao gồm cả hai mặt:
Một mặt, nó là cái cốt lừi bên trong, cái sức mạnh tiềm tàng, bền vững, nó chi phối

tư tưởng, hành vi của dân tộc. Mặt khác, nó là biểu hiện ra bên ngoài thành những
phong tục, tập quán trong sinh hoạt, thường được gọi là hỡnh thức, màu sắc, hay
sắc thái dân tộc. Về mặt lịch sử, cái “tự nhiên thứ hai”, cái tự nhiên rất người, hay
văn hoá không phải được tạo ra một lần và tồn tại mói mói, mà ở các cộng đồng
người khác nhau, không gian và phương thức sống khác nhau thỡ văn hoá sẽ mang
những diện mạo khác nhau (đó là bản sắc).
Bản sắc văn hoá dân tộc là hệ giá trị các di sản văn hoá, là những kinh
nghiệm được con người tích luỹ trong quá trỡnh thích ứng với tự nhiên, với môi
trường mà họ đang sinh sống; là những chuẩn mực trong ứng xử giữa cá nhân với
nhau, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác. Đó là
những thói quen trong nếp nghĩ, là những tri thức đó tích luỹ được, là biểu tượng,
là niềm tin trong thế giới tinh thần…được trải nghiệm trong lịch sử, được chuyển
giao một cách rất tự nhiên giữa các thế hệ người (trong hệ thống cấu trúc tạo thành
bản sắc văn hoá dân tộc không ngoại trừ văn hoá các dân tộc thiểu số - văn hoá tộc
người).
Văn hoá dân tộc thiểu số là tổng thể các yếu tố: Tiếng nói, chữ viết, lối sống,
phong cách sống, cách ứng xử với môi trường tự nhiên; các mối quan hệ xó hội,
các sắc thái tâm lý, tỡnh cảm, những tập quán trong sinh hoạt đời thường, trong
phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng; trong chu kỳ sống của đời người, trong quan niệm
về vũ trụ nhân sinh…Những yếu tố này được hỡnh thành trong lịch sử, nó có tính
đặc thù, đặc trưng, bền vững và ổn định, được chuyển giao và phát triển không
ngừng từ thế hệ này qua thế hệ khác, được hoàn thiện dần cùng với sự phát triển
của tộc người [10, tr.39].


Nói cách khác: Văn hoá tộc người là tổng thể những giá trị văn hoá vật chất
và tinh thần của một dân tộc - tộc người cụ thể, được hỡnh thành và phát triển
cùng với quá trỡnh phát triển tộc người, trong quan hệ giao lưu và tiếp thu tinh
hoa văn hoá các dân tộc khác, góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hoá của
cả cộng đồng.

Trong quá trỡnh giao lưu văn hoá, những yếu tố đặc trưng cốt lừi của mỗi
dân tộc vẫn được giữ lại, duy trỡ và phát huy, nó làm nên những sắc thái văn hoá
độc đáo không trộn lẫn với dân tộc khác. Trong thực tiễn, ý thức tộc người được
nảy sinh từ văn hoá tộc người, nếu văn hoá tộc người bị mai một thỡ ý thức tộc
người đó cũng sẽ mất dần, bản thân tộc người cũng sẽ tàn lụi và thậm chí không
cũn cả tên gọi; nói cách khác, nếu dân tộc nào tự đánh mất những sắc thái văn hoá
mang tính bản sắc thỡ cũng chính là đánh mất mỡnh. Để bảo tồn và phát triển văn
hoá tộc người không chỉ nói tới các yếu tố cụ thể của văn hoá dân tộc đó mà cũn
phải chú ý tới những con người, chủ thể sáng tạo ra nền văn hoá ấy; tức là, song
hành giữa yếu tố văn hoá cụ thể cần bảo tồn, bảo vệ và những con người cụ thể đó
tạo ra sắc thái văn hoá của họ.
1.2. Vai trũ nhân tố chủ quan với việc giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hoá
dân tộc.
1.2.1. Những điều kiện khách quan tác động đến vai trũ giữ gỡn, phỏt huy
bản sắc văn hoá dân tộc của nhân tố chủ quan trong giai đoạn hiện nay.
Mỗi nền văn hoá đều là sản phẩm của một cộng đồng người, trong mối quan
hệ giữa con người với môi trường tự nhiên, môi trường xó hội; trong các mối quan
hệ ấy con người đó sáng tạo ra các giá trị văn hoá, các hệ thống chuẩn mực: Chân,
thiện, mỹ và các quan hệ nhân văn. Chính vỡ thế, môi trường sống, hoàn cảnh hiện
thực mà chủ thể sáng tạo văn hoá đang sống và hoạt động (ĐKKQ) là yếu tố quy
định sự hỡnh thành các giá trị văn hoá, đến quá trỡnh bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hoá đó. Khi nói đến văn hoá là nói đến giá trị, nhưng giá trị văn hoá không tồn
tại một cách đơn lẻ, nhất thời, mà được tập hợp trong một môi trường nhất định,
cụ thể, sinh động, với những con người, những chủ thể sáng tạo, giữ gỡn, phát huy
các giá trị văn hoá đó.


Triết học Mác – Lê nin chỉ rừ, trong mối quan hệ giữa môi trường, hoàn cảnh
và con người, giữa ĐKKQ và NTCQ… thỡ môi trường hoàn cảnh, hay ĐKKQ giữ
vị trí chi phối chủ yếu đến mọi hoạt động của chủ thể, quyết định vai trũ của

NTCQ. Quy luật hỡnh thành và phát triển văn hoá thông qua mối tương quan giữa
văn hoá với các phương diện khác của đời sống xó hội chính là sự khẳng định vai
trũ của con người trong quá trỡnh chắt lọc những tinh hoa văn hoá tạo nên sự
phong phú cho đời sống vật chất và tinh thần của mỡnh. Những mặt, những nhân
tố (mang tính cụ thể) tạo nên hoàn cảnh hiện thực (có tính thời điểm) ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của con người, đến sự sáng tạo, giữ gỡn và phát triển văn
hoá như: yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị - xó hội, xu hướng biến đổi đạo đức, lối
sống và nhu cầu hưởng thụ văn hoá
Thứ nhất, những tác động của môi trường kinh tế:
Văn hoá và môi trường kinh tế là những phương diện khác nhau của đời sống
xó hội, nhưng giữa chúng tồn tại mối quan hệ biện chứng; trong mối quan hệ đó,
cơ sở kinh tế sẽ quyết định nội dung, tích chất, hỡnh thức biểu hiện của văn hoá.
Đánh giá về vấn đề này Ph. Ăngghen từng nói: Sự phát triển về chính trị,
pháp luật, triết học, tôn giáo, văn hoá và nghệ thuật đều dựa vào phát triển kinh tế,
nhưng tất cả các lĩnh vực đó cũng ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở
kinh tế. Cách tiếp cận văn hoá dưới góc độ kinh tế chính trị học của C.Mác và
Ph.Ăngghen đó chỉ rừ nguồn gốc phát sinh của văn hoá là từ cơ sở kinh tế, từ một
nền kinh tế nhất định, nền kinh tế như thế nào sẽ sản sinh và quy định bộ mặt tinh
thần, sắc thái văn hoá của xó hội như thế ấy. Nói về điều này, Nghị quyết Trung
ương năm (khoá VIII) Đảng cộng sản Việt Nam viết:
Văn hoá là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển
kinh tế. Các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động
xó hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xó hội, luật pháp, kỷ
cương…biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển [17,
tr.55].
Trong thời đại ngày nay, trước tác động của quốc tế hoá kinh tế, văn hoá và
bản sắc văn hoá dân tộc chắc chắn sẽ có những biến đổi.


Một mặt, về kinh tế, khi hội nhập quốc tế sẽ đem lại những ý nghĩa về hạnh

phúc, về sự tiến bộ xó hội đích thực cho nhân loại, nó đó trực tiếp thúc đẩy quá
trỡnh phân công lao động và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh sự chuyên môn hoá trong
sản xuất của các quốc gia và trong các quốc gia. Làm cho nền kinh tế mỗi nước
không chỉ gói gọn trong phạm vi quốc gia thuần tuý. Các vấn đề liên quan đến đời
sống con người như: nhu cầu ăn, uống, lao động, thông tin…được đáp ứng trên
phạm vi toàn cầu, chất lượng cuộc sống của người dân, sự thịnh vượng về kinh tế
của các quốc gia được nâng cao rừ rệt, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại
trong văn hoá được khẳng định. Sự tiếp thu khoa học và công nghệ hiện đại đó tạo
ra những điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá, lưu giữ, phát triển những giá trị
văn hoá đặc sắc của dân tộc, tạo cơ hội giao lưu, tỡm hiểu, tiếp thu những tinh hoa
văn hoá của nhân loại, làm giàu thêm những giá trị văn hoá truyền thống.
Mặt khác, khi hội nhập kinh tế quốc tế cũng có thể hướng con người đến lối
sống thực dụng, cá nhân, ích kỷ, mê đắm lợi ích vật chất và xu hướng làm giàu
không lành mạnh…Điều này dẫn tới phân hoá giàu nghèo, suy thoái đạo đức cá
nhân và gia đỡnh. Một số người do kiếm được đồng tiền một cách dễ dàng, phi
pháp nên có lối sống trác táng, góp phần làm tăng các tệ nạn xó hội, sói mũn văn
hoá truyền thống. Hơn nữa, trong quá trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế, một số các
quốc gia kém phát triển bị phụ thuộc vào các nước giàu, dẫn tới nguy cơ bị đồng
hoá, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, làm suy giảm sức mạnh dân tộc và có thể
dẫn đến mất chủ quyền quốc gia. Văn hoá các dân tộc thiểu số vùng cao cũng bị
tác động và ảnh hưởng tương tự: Điện khí hoá toàn quốc đó làm cho cuộc sống
mọi mặt của đồng bào được nâng lên rừ rệt, nhưng cũng có một thực tế là lưới
điện quốc gia phát triển đến đâu thỡ cối xay tay, cối gió gạo nước, đuống gỗ (một
loại cối gió gạo của người Mường)… vắng bóng đến đó. Cơ chế thị trường, kinh tế
hàng hoá, sản xuất công nghiệp phát triển thỡ nhà sàn, khung cửi, quần áo dân
tộc…cũng mai một dần; sự mở rộng của thị trường băng đĩa đó làm cho nhu cầu
thưởng thức các loại hỡnh nghệ thuật dân gian của giới trẻ giảm đi và đang có
nguy cơ mất hẳn.
Nhưng cho dù nhỡn nhận quá trỡnh tác động của quốc tế hoá kinh tế dưới
góc độ tích cực hay tiêu cực, thỡ chúng ta vẫn phải khẳng định: quốc tế hoá kinh tế



mà đỉnh cao của nó là toàn cầu hoá là một xu thế khách quan không thể đảo
ngược, nó đó, đang và sẽ tiếp tục phát triển. Vấn đề là ở chỗ, xu thế khách quan
này được diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người (chủ thể kinh tế).
Nên đối với mỗi quốc gia, để không bị tụt hậu về kinh tế trên trường quốc tế, cần
chuẩn bị tốt nội lực, sáng suốt trong lựa chọn đường đi nước bước, nhận thức đúng
bản chất thời đại, để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực và hội
nhập thành công.
Thứ hai, những tác động của lĩnh vực chính trị - tư tưởng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế
như hiện nay, ngoài những tác động tích cực thỡ quốc tế hoá kinh tế cũng sẽ tạo cơ
hội để các thế lực thù địch thông qua những tác động của tư tưởng chính trị để
tuyên truyền những quan điểm sai trái, các chiêu bài tự do, dân chủ…nhằm công
kích đường lối lónh đạo của một số quốc gia, lôi kéo quần chúng nhân dân vào
những hoạt động chống lại lợi ích của chính quốc gia mỡnh. Qua đó, nhằm phá vỡ
khối đại đoàn kết dân tộc, xoá bỏ sự thống nhất trong nền văn hoá của chính quốc
gia đó.
Với chiến lược “diễn biến hoà bỡnh”, các thế lực phản cách mạng dùng nhiều
hỡnh thức truyền thông, quảng bá và đặc biệt với sự hỗ trợ của hệ thống khoa học
công nghệ cao như: mạng Internét, phát thanh truyền hỡnh bằng vệ tinh toàn cầu
công xuất lớn…nhằm tấn công vào hệ tư tưởng và văn hoá XHCN từ bên trong,
xoá nhũa bản sắc văn hóa của các dân tộc, nhằm mục đích cuối cùng là đồng hoá
văn hoá toàn thế giới.
Quá trỡnh hợp tác và giao lưu văn hoá thế giới, đó tạo cho chúng ta cơ hội
mở rộng khả năng tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho đời sống vật
chất và tinh thần của con người được nâng cao. Nhưng vấn đề sàng lọc những yếu
tố độc hại, phản cách mạng là hết sức khó khăn. Cuộc sống công nghiệp hiện đại,
năng động vốn rất được giới trẻ ưa chuộng lại dường như mâu thuẫn với những giá
trị văn hoá dân gian mà muốn hưởng thụ nó đũi hỏi phải có thời gian và sự thư

thái…Những yếu tố tưởng như rất nhỏ đó lại dễ dẫn tới tỡnh trạng mâu thuẫn thế
hệ trong xó hội và phân hoá nội bộ trong các quốc gia.


Tất nhiên, việc xem xét, nhỡn nhận những tác động như đó nêu là tích cực
hay tiêu cực, để có thể vừa hội nhập thành công, vừa đảm bảo được sự ổn định
trong tư tưởng và chính trị, không bị đồng hoá, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc,
kết tinh được tinh hoa văn hoá tiên tiến của thời đại…cũn tuỳ thuộc vào điều kiện
lịch sử, vào chính sách của mỗi quốc gia, và trong công cuộc cách mạng ấy vấn đề
hết sức quan trọng đó là vai trũ của NTCQ, của con người.
Trong Nghị quyết Trung ương năm (khoá VIII) Đảng ta đó khẳng định 5
quan điểm chỉ đạo của mỡnh trong tiến trỡnh hội nhập văn hoá thế giới và giữ
gỡn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong đó, hai quan điểm 4 và 5 đó khẳng
định vai trũ NTCQ và những điều kiện then chốt để có thể xây dựng thành công
nền văn hoá mới, đó là:
Quan điểm 4: “Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lónh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trũ quan trọng”.
Quan điểm 5: “Văn hoá là một mặt trận; Xây dựng và phát triển văn hoá là
một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đũi hỏi phải có ý trí cách mạng và sự kiên trỡ
thận trọng” [17, tr.57,58].
Sau 20 năm đổi mới, và sau 8 năm thực hiện tinh thần của Nghị quyết Trung
ương năm (khoáVIII), chúng ta vẫn khẳng định được bản lĩnh chính trị, hội nhập
và phát triển kinh tế thành công; bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hoá ngàn
năm của dân tộc. Điều đó khẳng định con đường mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân
ta đó chọn là đúng đắn, phù hợp và đó cũng là con đường duy nhất để tự khẳng
định mỡnh, để chiến thắng âm mưu “diễn biến hoà bỡnh” của các thế lực thù địch.
Thứ ba: Những tác động của ý thức xó hội như đạo đức, lối sống, nhu cầu
hưởng thụ văn hoá…đến vấn đề giữ gỡn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Cũng cần nói rừ rằng, những yếu tố như đạo đức, lối sống, nhu cầu hưởng
thụ văn hoá…mà chúng ta đề cập thuộc tầng ý thức xó hội, nó tồn tại trong môi

trường và thời điểm lịch sử mà con người đang sống, hoạt động; có ý nghĩa là bộ
phận, là giá trị cốt lừi của văn hoá dân tộc. Về thực chất, những yếu tố đạo đức, lối
sống hay nhu cầu hưởng thụ văn hoá… cũng là hệ quả của quá trỡnh phát triển và
tác động của kinh tế đến đời sống xó hội và cộng đồng. Không phải là nguyên
nhân trực tiếp, nhưng những yếu tố được coi như là những chuẩn mực trong ứng


xử, là những quy tắc và cam kết không thành văn giữa những con người với nhau
trong xó hội, lại ảnh hưởng rất lớn đến sự hưng thịnh về mọi mặt từ kinh tế, chính
trị, đến văn hoá của các quốc gia. Tuy nhiên, những yếu tố đó phụ thuộc rất nhiều
vào môi trường xó hội, vào nguyên nhân kinh tế và điều kiện lịch sử, nên không
thể tránh khỏi sự đan xen, thậm trí đấu tranh giữa hai yếu tố mới và cũ, giữa những
biểu hiện tích cực và tiêu cực trong văn hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, các quốc gia đang phát triển
luôn quan tâm đến chính sách điều chỉnh những biến đổi trong đời sống tinh thần
của xó hội, đó là chiều hướng gia tăng những biểu hiện tiêu cực theo lối sống cá
nhân chủ nghĩa, chạy theo đồng tiền, lợi dụng chức quyền để tham ô tư túi, lối
sống sa đoạ, sùng ngoại, bài xích văn hoá truyền thống. Một bộ phận thanh niên từ
tư tưởng sùng ngoại, dẫn tới lối sống gấp, buông thả, coi thường nề nếp gia phong,
làm biến dạng những giá trị: chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, những tập tục lạc hậu phổ
biến trong xó hội cũ vẫn tồn tại dai dẳng trong từng nếp nghĩ của những tầng lớp
người trong xó hội. Một số người, một số địa phương đó biến chính sách bảo tồn
văn hoá thành xu hướng phục cổ tràn lan, mượn di tích, lễ hội thành nơi hành nghề
mê tín v.v…Tất cả những biểu hiện phi thuần phong mỹ tục đó trở thành sức nặng
kỡm nén, níu kéo quá trỡnh tham gia hội nhập kinh tế, văn hoá với thế giới của các
quốc gia. Bàn về vấn đề này, C.Mác viết: “Truyền thống của tất cả các thế hệ đó
chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống…” [39, tr.145].
Những biến động nhiều chiều của đạo đức, tư tưởng, lối sống và nhu cầu
hưởng thụ văn hoá của những tầng lớp người trong xó hội đó ảnh hưởng không
nhỏ đến những giá trị, bản sắc văn hoá lâu đời của dân tộc, làm chậm lại quá trỡnh

phát triển kinh tế - xó hội, cản trở sự hợp tác quốc tế, đe doạ sự tồn vong của các
quốc gia.
Ngoài những yếu tố cơ bản được đề cập trên đây, cũn một số các phương
diện xó hội khác như: pháp luật, tôn giáo…cũng tác động không nhỏ đến vấn đề
giữ gỡn, phát huy bản sắc văn hoá. Do vậy, để vừa giữ gỡn, phát huy được bản sắc
văn hoá dân tộc, vừa đảm bảo phát triển mọi mặt của đời sống xó hội đũi hỏi sự
phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của NTCQ trong hoạt động thực tiễn.


1.2.2 .Vai trũ biến đổi điều kiện khách quan của nhân tố chủ quan trong
giữ gỡn và phỏt huy bản sắc văn hoá dân tộc.
1.2.2.1. Vai trũ của nhân tố chủ quan trong việc phối hợp lónh, chỉ đạo vấn
đề xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện việc giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hoá
dân tộc.
Thứ nhất, vai trũ nhân tố chủ quan giữ gỡn phỏt huy bản sắc văn hoá dân tộc
được thể hiện trong chủ trương đường lối, chính sách của Đảng.
Trong Nghị quyết Trung ương năm (khoá VIII) Đảng cộng sản Việt Nam ghi
rừ: “Công nhân, nông dân, trí thức, là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là
nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lónh đạo của Đảng,
quản lý của nhà nước” [17, tr.57].
Như vậy, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn
dân, trong đó tổ chức đảng với vai trũ lónh đạo chủ chốt vạch ra phương hướng,
chiến lược, nhiệm vụ và các giải pháp lớn để lónh đạo, thực hiện thành công các
nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hoá theo đúng định hướng xây dựng và phát
triển đất nước. Các hoạt động liên quan tới văn hoá hết sức đa dạng và phức tạp,
đũi hỏi sự phối hợp, thống nhất chặt chẽ của các tổ chức, đũi hỏi chủ thể lónh đạo
phải có phẩm chất đạo đức, tâm huyết, tri thức, trỡnh độ bao quát, hiểu biết sâu
rộng mọi mặt của đời sống xó hội, có khả năng tuyên truyền, vận động, tổ chức
các lực lượng xó hội tạo sức mạnh tổng hợp. Các quyết sách phải đảm bảo sự hài
hoà, biện chứng giữa các yếu tố Chính trị - Văn hoá, Kinh tế - Văn hoá, Đạo đức -

Văn hoá Trên thực tế chúng ta thường thấy, một số những tồn tại như: đường lối,
chủ trương, nghị quyết đúng nhưng khâu tổ chức thực hiện lại yếu kém. Trỡnh độ
của các cấp uỷ đảng, ban ngành, đoàn thể chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển của
văn hoá, cũng như việc giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh giữa chủ trương và
thực tiễn quản lý đời sống văn hoá dân gian ở các địa phương. Do vậy, vai trũ lónh
đạo, chỉ đạo của Đảng và nhà nước được thể hiện trước hết ở sự đồng bộ và tính
khả thi của các thiết chế xó hội. Các chính sách của nhà nước phải gắn với các cơ
quan công quyền ở địa phương, phải bám sát thực tiễn. Vỡ hơn ai hết họ là những
người am hiểu về hoàn cảnh, con người, phong tục tập quán ở địa phương, từ đó
có những phương pháp và cách giải quyết phù hợp. Bất cứ sự “thương mại hoá


văn hoá” hay “hành chính hoá văn hoá” đều dẫn tới hậu quả không có lợi cho sự
sáng tạo văn hoá. Ngoài vấn đề hoạch định chính sách, chủ thể lónh đạo, chỉ đạo
cũn có vai trũ lựa chọn, bồi dưỡng năng lực cán bộ, và hỡnh thành cơ chế phối
hợp, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành theo quan hệ hàng dọc, hoặc hàng
ngang từ trung ương đến địa phương đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ và hiệu
quả.
Thứ hai, vai trũ nhân tố chủ quan giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hoá dân tộc
thể hiện trong quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp.
Hoạt động phối hợp quản lý, điều hành của Nhà nước và các cấp chính quyền
từ Trung ương đến địa phương trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xó hội, đặc
biệt là kế hoạch đầu tư, phát triển kinh tế - xó hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá. Chủ thể quản lý và năng lực điều hành của
họ sử dụng những lực lượng vật chất và tinh thần sẵn có để tác động biến đổi tự
nhiên và xó hội theo mục đích nhất định có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc
xây dựng một môi trường văn hoá với hệ thống giá trị chân, thiện, mỹ, đảm bảo
tính sáng tạo, tính hiệu quả cao trong tất cả các quá trỡnh từ quản lý, tổ chức, điều
hành các hoạt động kinh tế, hoạt động chính trị, điều chỉnh quan hệ xó hội, chuẩn
mực đạo đức và một số phương diện xó hội khác theo tiêu chuẩn nhân văn với quy

mô từ tổ chức gia đỡnh tới cộng đồng quốc gia dân tộc.
Trong thực tế, tất cả các phương diện của đời sống xó hội đều nảy sinh
những yếu tố văn hoá, đến khi những giá trị văn hoá hỡnh thành và phát triển sẽ lại
tác động tới những phương diện xó hội theo những mức độ nhất định. Do vậy, vai
trũ của chủ thể sẽ làm cho sự tương tác giữa văn hoá với các phương diện xó hội
có xu hướng cùng chiều, vừa có tác dụng làm giàu thêm các giá trị văn hoá, vừa
từng bước hoàn thiện các phương diện xó hội ấy theo các tiêu chuẩn tiến bộ cho
con người và vỡ con người. Hơn nữa, trong quá trỡnh phối hợp hoạt động, chủ thể
quản lý điều hành cũng có điều kiện bồi dưỡng năng lực cho bản thân, nâng cao
vai trũ NTCQ, đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của chủ thể trước những đũi
hỏi khách quan.
Thứ ba, vai trũ nhân tố chủ quan giữ gỡn, phỏt huy bản sắc văn hoá dân tộc
thể hiện trong hoạt động phối hợp của các tổ chức đoàn thể nhân dân.

×