Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

LUẬN VĂN:Phương thức giáo dục tư tưởng Chí Minh cho thanh, thiếu niên pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 182 trang )



1







LUẬN VĂN:

Phương thức giáo dục tư tưởng Chí Minh
cho thanh, thiếu niên







mở đầu






2
1- Tính cấp thiết của đề tài:
1.1- Tư tưởng cách mạng có trở thành hiện thực hay không, không chỉ phụ thuộc


vào nội dung khoa học của nó mà còn bị chi phối bởi phương thức truyền bá tư tưởng đó
vào cuộc sống.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
làm nên những chiến thắng kỳ diệu trong cách mạng giải phóng và ngày nay đang tiếp
tục giành được nhiều thành tựu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đó là thắng lợi của niềm tin khoa học đã trở thành hành động cách mạng tích cực của
các thế hệ người Việt Nam, trong đó có thanh, thiếu niên, được giáo dục bằng tư tưởng
Hồ Chí Minh. Làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành niềm tin khoa học và biến
thành hành động cách mạng của nhân dân, của mọi thế hệ thanh, thiếu niên để đem lại
thắng lợi trong cách mạng là do Đảng ta đã sử dụng những phương thức giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh khoa học, phù hợp với đối tượng và điều kiện lịch sử nên đã đáp
ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta ở mỗi thời kì. Phương thức giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhân tố đưa tới thành công của tư tưởng cách mạng Hồ
Chí Minh trong thời gian qua.
1.2- Tuy nhiên, ngày nay, những điều kiện khách quan, chủ quan có những vận
động và biến đổi sâu sắc đã tác động mạnh đến phương thức và hiệu quả giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên.
Có thể thấy, trước hết là yêu cầu mới của nhiệm vụ giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thanh, thiếu niên không chỉ dừng lại trên ý nghĩa chung là “bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau” mà phải đạt đến tầm mức khoa học cao hơn, sâu sắc hơn, đó là
làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh phải trở thành “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động” của lớp lớp thanh, thiếu niên- những người kế tục sự nghiệp của Đảng, đưa ngọn
cờ Hồ Chí Minh tới đích thắng lợi. Mặt khác, do những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
đã được nghiên cứu đầy đủ và thấu đáo hơn trước đây cũng đòi hỏi phải đổi mới phương
thức giáo dục cho thanh, thiếu niên để phù hợp với nội dung đó.
Bước sang thế kỷ XXI, xu hướng hoà bình, hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực
và trên toàn thế giới, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế quốc tế diễn ra rất nhanh chóng


3

nhưng cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng không vì vậy có xu hướng giảm đi mà
còn diễn ra gay gắt hơn dưới nhiều hình thức và làm cho tình hình thế giới hàng ngày,
hàng giờ có những diễn biến rất phức tạp. Tình hình đó đã tác động ngày càng trực tiếp
đối với thế hệ thanh, thiếu niên trên cả hai mặt sáng và tối. Lợi dụng sự sụp đổ của hệ
thống xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc đã tăng cường việc chống phá trên mặt trận
tư tưởng, xuyên tạc, bôi nhọ hòng làm mất niềm tin của thế hệ trẻ đối với chế độ xã hội
chủ nghĩa, đối với đảng và các lãnh tụ cộng sản. Bằng nhiều phương thức, thủ đoạn
thâm độc, thông qua các phương tiện truyền thông hiện đại, các thế lực đế quốc mưu
toan làm mất vai trò chủ đạo của thanh, thiếu niên trong việc kế tục sự nghiệp của Đảng.
Đây thực sự là một mặt trận đấu tranh phức tạp, không chỉ đơn thuần là nội dung tuyên
truyền, giáo dục mà còn là cả bằng phương thức giáo dục với những phương pháp, hình
thức và biện pháp mới để đấu tranh giành trái tim và khối óc của thanh, thiếu niên. Đó là
một đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Mặt khác, nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường được xây
dựng ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế, bên cạnh mặt tích cực đã bộc lộ rõ mặt
trái hàng ngày hàng giờ tác động trực tiếp tới thế hệ trẻ. Lợi nhuận và đồng tiền trong
nền kinh tế thị trường là mảnh đất màu mỡ để chủ nghĩa cá nhân nảy nở và phát triển.
Tệ quan liêu, tham nhũng, phai nhạt lí tưởng, niềm tin đổ vỡ trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên đã tác động mạnh tới thanh, thiếu niên. Trong sự tác động tiêu
cực đa chiều đó, những phương pháp, hình thức và biện pháp giáo dục đối với thanh,
thiếu niên được thực hiện có hiệu quả trước đây trong một nền kinh tế thuần nhất không
còn thích hợp trước những sự vận động và biến đổi không ngừng của những điều kiện
kinh tế, văn hoá, xã hội trong cơ chế thị trường.
Cùng với những biến đổi trên, sự phát triển bùng nổ của của kĩ thuật truyền thông
đã làm phong phú và đa dạng các hình thức thức thông tin. Một mặt, nó làm tăng khả
năng tạo ra nhiều phương pháp, hình thức và biện pháp trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhưng mặt khác, những tiến bộ của khoa học - công nghệ đó lại có sức cuốn hút
và thậm chí lấn át sự chú ý của thanh, thiếu niên đối với việc giáo dục lí tưởng, đạo đức.
Bởi vậy, có những phương thức có thể phát huy lợi thế và khắc chế những tác động tiêu



4
cực của sự phát triển kỹ thuật trong giáo dục, tuyên truyền là yêu cầu của thực tế hiện
nay.
1.3- Trong những năm qua, công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng,
Nhà nước và các cơ quan hữu quan rất quan tâm và bước đầu đạt được kết quả đáng ghi
nhận. Kể từ sau Đại hội IX, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh việc tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Thực hiện Chỉ
thị 23 (3-2003) của Ban Bí thư Trung ương Đảng, công tác này trở thành một sinh hoạt
chính trị lớn của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương trong toàn quốc. Các cuộc thi
tìm hiểu về cuộc đời sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh, thi tuyên truyền viên tư tưởng
Hồ Chí Minh và từ năm học 2003-2004 đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức
đưa tư tưởng Hồ Chí Minh là môn học chính khoá cho tất cả các trường Đại học và Cao
đẳng trong toàn quốc là một bước tiến mới trong việc tìm tòi phương thức giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh. Từ đầu năm 2006, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động cũng có ý nghĩa to lớn trong trong lộ trình
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh đối với xã hội nói chung và thanh, thiếu niên nói riêng.
Điều đó đã nói lên việc tìm tòi phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh đã được
Đảng ta chú ý giải quyết trên thực tiễn và đã đạt được những kết quả khích lệ.
Tuy nhiên, những kết quả đó chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của thực
tiễn cách mạng. Những hiện tượng phai nhạt lí tưởng, suy giảm đạo đức trong một bộ
phận không nhỏ thanh, thiêu niên cũng một phần là do tư tưởng Hồ Chí Minh chậm đi
vào thhế hệ trẻ. Một trong những nguyên nhân của tình hình đó là vấn đề phương thức
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên còn có những bất cập. Bởi vậy,
việc nghiên cứu, tìm ra phương thức với những phương pháp, hình thức, biện pháp,
giải pháp mới phù hợp để công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu
niên đạt hiệu quả cao nhất có ý nghĩa thiết thực đối với thắng lợi của công cuộc đổi
mới cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng ta hiện
nay vàtrong tương lai.
Tóm lại, trước những biến đổi toàn diện của tình thế giới, trong nước, trước

những đòi hỏi trước mắt và lâu dài của nhiệm vụ cách mạng đối với thanh, thiếu niên,
trước những yêu cầu mới về mục tiêu giáo dục với việc ngày càng hoàn thiện nội dung


5
tư tưởng Hồ Chí Minh và trước sự vận động mới của đối tượng được giáo dục là thanh,
thiếu niên, yêu cầu khách quan là phải xây dựng phương thức giáo dục cho phù hợp
với những biến đổi đó nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh cho thanh, thiếu niên. Việc xây dựng phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh cho thanh, thiếu niên còn là tiếp tục thực hiện yêu cầu ngày càng cao của nhiệm
vụ bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, là tìm phương thức khoa học cho việc xác
lập vị trí nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của tư tưởng Hồ Chí Minh,
theo chủ trương của Đảng, đối với thanh, thiếu niên ở nước ta.
Do vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Phương thức giáo dục tư tưởng Chí Minh cho
thanh, thiếu niên” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đế đề tài
Công tác nghiên cứu phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu
niên đã sớm được Đảng, Nhà nước, các tổ chức và các nhà nghiên cứu khoa học quan
tâm và thực hiện. Đặc biệt, từ Đại hội VII của Đảng (1991), trên cơ sở khẳng định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng, nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống được đẩy mạnh thì
việc nghiên cứu phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho các tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là cho thanh, thiếu niên được thúc đẩy ngày càng mạnh mẽ hơn. Điều đó
được thể hiện theo các hướng như sau:
2.1- Trong các văn kiện chính thống của Đảng, Nhà nước.
- Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đại hội VII, Đảng ta đã ra Nghị quyết 01-
NQ/TW (1992) về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay và Nghị quyết 09-
NQ/TW, ngày 18-2-1995 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay nhấn mạnh vai trò nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, trong
Nghị quyết 01-NQ/TW (1992), Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu “đổi mới chương trình, nội

dung, phương pháp giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ thống tư tưởng chỉ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội ta, nâng cao giác ngộ lý tưởng và niềm tin cho đảng
viên, đoàn viên thanh niên và nhân dân”.


6
- Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (7-1996) về định
hướng phát triển giáo dục và đào tạo, Đảng ta nhấn mạnh phải “tăng cường giáo dục
công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
giáo dục đạo đức và nhân văn” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương
Đảng khóa VIII (12-1996) về Định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong
thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 chỉ rõ việc đưa tư
tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy trong nhà trường như một môn học và “tăng cường
giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin,
đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và với
từng bậc học”.
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001), tiếp tục khẳng định
nội dung của các nghị quyết trên và nhấn mạnh nội dung giáo dục “chăm lo bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau”.
- Tháng 6-2002, Thủ tướng chính phủ ra Quyết định số 494/QĐ-TTg phê duyệt
đề án Một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập các bộ
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng,
môn chính trị trong trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đề án chỉ rõ công
tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh là môn học bắt buộc trong chương trình học, theo
đó quy định việc biên soạn bộ giáo trình quốc gia tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở để
biên soạn các chương trình, giáo trình phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, nội dung,
phương pháp tổ chức đào tạo ở các trường đại học và cao đẳng khác nhau. Đối với các
trường lớp đào tạo cử nhân chuyên ngành tư tưởng Hồ Chí Minh thì sử dụng trực tiếp
giáo trình quốc gia tư tưởng Hồ Chí Minh để dạy và học tập, đồng thời quy định rõ việc

chỉ đạo, quản lý giảng dạy bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh và đào tạo, bồi dưỡng, chế
độ chính sách đối với đội ngũ giảng viên, giáo viên bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tháng 3-2003, Ban Bí thư ra Chỉ thị 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu,
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, chỉ rõ nội dung
tuyên truyền, giáo dục, nhiệm vụ của công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhấn mạnh công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường bằng các
phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, coi trọng việc tuyên
truyền, giáo dục đối với cán bộ, lãnh đạo các cấp, đội ngũ đảng viên, thanh, thiếu niên


7
và chỉ ra các hoạt động phối hợp cụ thể của các cấp, các ngành trong khi tổ chức thực
hiện.
- Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo có
Công văn số 39990/CV-BGDĐT (5-2003) về kế hoạch tổ chức triển khai Chỉ thị 23
hướng dẫn môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng. Tiếp
đó, là Quyết định số 35/2003QĐ-BGDĐT (7-2003) về việc ban hành đề cương môn
học tư tưởng Hồ Chí Minh trình độ đại học, cao đẳng và Công văn số
6766/CVBGDĐT (8-2003) về hướng dẫn giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh,
quy định cụ thể nội dung môn tư tưởng Hồ Chí Minh (gồm 6 bài). Thông tư liên bộ số
42/2003TTLBGDĐT-BTC (8-2003) Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính
hướng dẫn Một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập các
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng,
môn chính trị trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Lấy đối tượng là
sinh viên, học viên tất cả các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, Thông tư quy
định rõ những nội dung về chương trình, giáo trình, triển khai công tác chỉ đạo, quản lý
giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở Nghị quyết 14/2005/NQ-CP (11-2005)
của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn
2006-2020” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khoá X, Bộ Giáo
dục và Đào tạo ra Quyết định số 2194/QĐ-BGDĐT về việc xây dựng đề tài “Đổi mới

kết cấu nội dung chương trình, giáo trình các môn học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trình độ đại học và cao đẳng” xác định giữ nguyên thời lượng giảng dạy của môn
học nhưng có đổi mới trong nội dung giáo trình.
- Thực hiện Chỉ thị 23, Ban Bí thư TW Đoàn TNCS Hồ Chí Minh triển khai Kế
hoạch số 24-KH/TƯĐTN (3-2003) về thực hiện cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam
sống, chiến đấu, lao động và học tập, hành động theo gương Bác Hồ vĩ đại” và Kế
hoạch số 25-KH/TƯĐTN (7-2003) tổ chức sinh hoạt chính trị “Tuổi trẻ với tư tưởng
Hồ Chí Minh”; tiếp đó là Hướng dẫn số 31/HD-TƯĐTN (6-2004) về việc tổ chức Hội
thi “Đội tuyên truyền thanh niên về tư tưởng Hồ Chí Minh”. Bên cạnh đó, trong các tổ
chức Hội sinh viên các cấp tổ chức các cuộc thi “Tư tưởng Hồ Chí Minh-Hành trang
sinh viên Việt Nam thế kỷ XXI”; Olympic các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh;


8
- Chỉ thị số 06-CT/TƯ của Bộ Chính trị (11-2006) về tổ chức cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Chỉ thị nêu rõ mục đích, yêu
cầu, nội dung tổ chức nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
trong các tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Di
chúc và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; bắt đầu tổ chức thực hiện từ ngày 3-2-2007
đến 3-2-2011.
- Đại hội Đại biểu toàn quốc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ VIII (2002), IX
(2007) xác định mục tiêu của công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu niên là “Tăng
cường bồi dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị cho thanh, thiếu niên,
chăm lo quyền, lợi ích chính đáng của thanh niên”, đặc biệt là Đại hội Đoàn lần thứ IX
(nhiệm kỳ 2007-2012) đề ra một trong những giải pháp quan trọng cơ bản về giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh là “triển khai thực hiện có hiệu quả cuộc vận động Tuổi trẻ Việt
Nam học tập và làm theo lời Bác, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về đạo đức, lối sống,
nhằm hình thành những phẩm chất tốt đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam”.
2.2- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng tư tưởng Hồ

Chí Minh vào công tác giáo dục trong sự nghiệp đổi mới có một số công trình nghiên
cứu, bài viết tiêu biểu như:
Năm 1985, NXB Thanh niên xuất bản cuốn sách Bác Hồ với sự nghiệp bồi
dưỡng thế hệ trẻ gồm 16 bản báo cáo khoa học (được tập tợp từ 100 báo cáo tại Hội
thảo khoa học do Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh và Trung ương Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh đồng tổ chức) chỉ rõ những quan điểm chiến lược của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và bước đầu nêu lên những giải pháp góp phần cải tiến và nâng cao chất
lượng công tác, giáo dục và bồi dưỡng thế hệ trẻ trong giai đoạn cách mạng mới.
- Sách Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới do
TS.Nguyễn Văn Sáu chủ biên (2005) là kết quả của một đề tài khoa học tổng kết công
tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh (chủ yếu là ở các trường thuộc hệ
thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; trong các Học viện, nhà trường thuộc
lực lượng vũ trang nhân dân, một số trường đại học và trường đoàn thể) và trên cơ sở
đó nêu ra phương hướng, giải pháp đẩy mạnh công tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới.


9
- Sách Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống do PGS.TS. Lê Văn Tích chủ
biên (2006) cũng là kết quả của đề tài khoa học. Từ những vấn đề chiến lược về xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trên cơ sở phân tích
thực trạng công tác tổ chức, giáo dục tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh (qua 5 nhóm
đối tượng: công nhân, nông dân, lực lượng vũ trang, thanh niên, học sinh sinh viên) các
tác giả đã nêu lên cơ sở lý luận của việc xây dựng phương pháp và chỉ ra các hình thức,
biện pháp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, trong đó có đối tượng là thanh
niên, học sinh sinh viên.
- Các công trình khác như: Hồ Chí Minh về giáo dục của GS.TS. Phan Ngọc
Liên (2007) và Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục của Đặng Quốc Bảo (2008) là hai
công trình chuyên sâu trình bày tư tưởng của Người qua các bài viết, nói và tập hợp
một số bài viết nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục của một số nhà

nghiên cứu giáo dục.
2.3- Nghiên cứu giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên, đặc biệt
là cho thanh niên có một số đề tài khoa học, công trình sách, bài viết sau:
- Thanh, thiếu niên học sinh với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước của Nguyễn Phương Hồng (1997); Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
thanh niên của Nguyễn Văn Tùng (1999); Những vấn đề nghiên cứu thanh thiếu nhi
trong thời kỳ đổi mới (Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Viện Nghiên cứu Thanh niên-
1999); Giáo dục, rèn luyện thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Hữu Đức làm chủ biên (2000); Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục thanh niên của Đoàn Nam Đàn (2002); Thanh niên học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Dương Tự Đam (2003); “Giáo dục thanh niên về tư
tưởng, văn hóa Hồ Chí Minh” của Dương Tự Đam, Tạp chí Tư tưởng Văn hóa, (Số 3-
2004); Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên trong cách mạng Việt Nam của
Trần Qui Nhơn (2004); 6 bài học lý luận chính trị cho đoàn viên thanh niên của Trung
ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2004); Về giáo dục thanh niên của Hồ Chí Minh do
Đào Dậu tuyển chọn (2004); Cơ sở lý luận của chiến lược phát triển thanh niên của
Chu Xuân Việt (2005); Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào
thanh thiếu nhi nửa nhiệm kỳ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII (2002-2005) do
Nguyễn Huy Lộc làm chủ biên (2006); Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công


10
tác thanh niên (2006) và Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và giáo dục thanh niên của
Văn Tùng (2008).
Bên cạnh đó, có rất nhiều công trình bài viết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
nhằm giáo dục truyền thống đạo đức, lý tưởng cách mạng cho thanh, thiếu niên trong
giai đoạn mới, có thể nêu một số công trình sau: Giáo dục đạo đức cho thanh niên học
sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay của Trần Minh Đoàn-Luận án TS
Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2002); Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý
tưởng cách mạng cho thanh niên và việc vận dụng trong thực tiễn cách mạng hiện nay

(Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ-Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Văn Hải-2007); Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ (trong cuốn:
Hồ Chí Minh về giáo dục, 2007, tr.621-630) của Nguyễn Thị Côi; “Chủ tịch Hồ Chí
Minh với vận động giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên” của Thái Bình
Dương, Tạp chí Giáo dục lý luận (Số 9-2005); Học Hồ Chủ tịch Hồ Chí Minh-chúng ta
học gì? của Phạm Văn Đồng (2008).
Ngoài ra, xuất phát từ quan điểm giáo dục cho thanh, thiếu niên bên cạnh việc
dạy tri thức, phải chú trọng giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Về đề tài
này, có một số công trình nghiên cứu như: Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức
cách mạng của PGS.TS Lê Văn Tích (1986); Bài viết “Giáo dục rèn luyện đạo đức
cách mạng cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Đinh Ngọc Quý, Tạp chí
Thanh niên (số 17-2006)…Đặc biệt, hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng phát động, có nhiều công trình nghiên cứu
về đề tài này, trong số đó, nổi bật và đáng chú ý có tài liệu Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh của Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương (2007).
2.4- Về vấn đề giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh, sinh viên, học viên
trong hệ thống giáo dục quốc dân
Đối với học sinh THCS, THPT: nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh được lồng ghép
trong nội dung môn học Lịch sử, trong sách Lịch sử, sách Giáo dục công dân (từ lớp 6
đến lớp 12) - sử dụng cho năm học 2003-2004, 2004-2005, 2005-2006 và 2006-2007
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Giáo dục.


11
Đối với sinh viên, học viên: giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua nội dung
của Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng trong các trường đại học và cao đẳng) của
Bộ Giáo dục và Đào tạo do PGS.TS. Mạch Quang Thắng làm chủ biên (2005, 2006),
được biên soạn dựa trên giáo trình chuẩn quốc gia: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB CTQG, 2003, nhằm phục vụ công tác giảng dạy,

học tập trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng và Giáo trình chính trị (dùng trong
các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) của Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB
Giáo dục, 2005, 2006. Trong các giáo trình, bên cạnh việc trình bày hệ thống nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh là một số vấn đề về vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thời kỳ mới.
Ngoài ra, các sách giáo trình, các chuyên đề học tập tư tưởng Hồ Chí Minh được
các trường, cá nhân tự biên soạn nhằm phục vụ công tác giảng dạy và học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình đào tạo bậc đại học trong các nhà
trường quân đội của Lê Phước Thảo, Nguyễn Đình Lễ (1996); Giáo trình Tư tưởng Hồ
Chí Minh do GS. Đặng Xuân Kỳ làm chủ biên (2003, 2007); Tư tưởng Hồ Chí Minh-
Tập bài giảng của trường Đại học KHXH&NV-ĐHQG Hà Nội (2001); Giáo trình
Chính trị. Dùng trong các trường trung cấp chuyên nghiệp hệ tuyển sinh tốt nghiệp
THPT do Lê Thế Lạng làm chủ biên (2008); Những bài giảng về tư tưởng Hồ Chí
Minh. Sách dùng cho hệ đào tạo từ xa do Nguyễn Khánh Bật làm chủ biên, Đại học Sư
phạm, 2008…
Về giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên, học viên, đáng chú ý có một số bài
viết “Sinh viên với việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ đức và tài” của
PGS.TS. Nguyễn Khánh Bật, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp (Số 5-1996);
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức với việc giáo dục đào tạo cho sinh viên trong tình
hình hiện nay” của Bùi Đình Phong, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia, (Số 2-
2003)…
2.5- Vấn đề giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên có các công
trình, bài viết sau:
- Giáo trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên tư tưởng Hồ Chí Minh cho ngành giáo
dục-đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (các hệ lý luận trung cấp, cao cấp, cử


12
nhân khoa học chính trị) của Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
(2004, 2006, 2007).

- Sử dụng tài liệu Hồ Chí Minh trong nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, Chuyên
khảo của trường ĐH Sư phạm Hà Nội, 2002.
- Tư tưởng tự học Hồ Chí Minh và biện pháp nâng cao việc tự học cho sinh viên
đại học sư phạm của Vũ Văn Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008.
- Các bài viết: “Về nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh” của Bùi Đình
Phong, Tạp chí Công tác tư tưởng và văn hóa (Số 5-1995); “Một số ý kiến về đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh” của Nguyễn Khánh Bật,
Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp (số 3-2000); “Mấy ý kiến về việc giảng
dạy Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học và cao đẳng” của Nguyễn
Thái Bình, Tạp chí Giáo dục (Số 78-2004); “Giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy
tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển giáo dục (Số 4-2004); “Nâng cao hiệu quả
giờ thảo luận các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại
học và cao đẳng” của Nguyễn Thị Hiền, Tạp chí Giáo dục, (Số 87-2004); “Giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh cho tuổi trẻ. Thực trạng và giải pháp” của Dương Quốc Hưng, Tạp
chí Giáo dục lý luận (Số 3 (34)-2004); “Mấy ý kiến về dạy tư tưởng Hồ Chí Minh
trong trường đại học”, Tạp chí Giáo dục (Số 78-2004); “Nhận thức và quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong học tập, nghiên cứu-Một nhân tố có ý nghĩa
quyết định để nâng cao chất lượng giáo dục” của Nghiêm Đình Vỳ, Tạp chí Giáo dục
(Số76-2004); “Nghiên cứu, tuyên truyền giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo
dục hiện nay” của Nguyễn Viết Thông, Tạp chí Cộng sản (Số 12-2004); “Các hình
thức tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (Số 5-
2004); “Mấy vấn đề về đối tượng và phương pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh” của
Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, (Số 2-2005); “Một số yêu cầu đổi mới
phương pháp giáo dục các môn lý luận” của Đinh Xuân Khuê, Tạp chí Phát triển giáo
dục (Số 7-2005); “Học, làm, sống-3 trong 1 và xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng
Hồ Chí Minh” của Nguyễn Kỳ, Tạp chí Phát triển giáo dục, (Số 6-2005); “Mấy suy
nghĩ về nghiên cứu, giảng dạy và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Thế Lạng,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (Số 2-2005); “Nâng cao chất lượng dạy học tư tưởng Hồ Chí
Minh” của Đặng Thị Bích Liên, Tạp chí Giáo dục, (Số 108-2005); “Giáo dục lý luận



13
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên
nghiệp” của Nguyễn Mạnh Tiến, Tạp chí Xây dựng Đảng (Số 11-2005); “Về đổi mới
nội dung, phương pháp giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” của Vũ Văn Hậu, Tạp
chí Tư tưởng văn hóa (Số 6-2006); “Dạy và học tư tưởng Hồ Chí Minh tại các trường
đại học, cao đẳng” của Thuỷ Anh, Tạp chí Xây dựng Đảng, (Số 7- 2006); “Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phương pháp dạy học của người thầy”, Tạp chí Giáo
dục lý luận, (Số 1+2-2007); “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng
đội ngũ nhà giáo Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước (Giai đoạn
2003-2010)” của Đặng Huỳnh Mai (trong cuốn: Hồ Chí Minh về giáo dục, NXB Từ
điển Bách khoa, Hà Nội, 2007); “Tài liệu về Hồ Chí Minh với việc xây dựng câu hỏi,
bài tập kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử ở trường THPT” của Trần Quốc Tuấn,
Tạp chí Giáo dục, (Số 194, Kỳ 2-7/2008).
Hầu hết, các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều khẳng định tầm quan trọng
của việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên, cung cấp cho thế hệ trẻ
cơ sở khoa học nhận thức xã hội, bồi dưỡng tư tưởng chính trị, nhân cách sống đúng
đắn, hướng tới phát triển toàn diện về nhân cách đúng dắn hướng tới sự phát triển toàn
diện về nhân cách. Vấn đề quan trọng hơn là, từ việc nêu và phân tích thực trạng giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong những năm gần đây, đặc biệt là thực trạng giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống trường học - nơi mà tỉ lệ thanh, thiếu niên chiếm đa
số và cũng là môi trường quan trọng nhất trong giáo dục, đào tạo thế hệ cách mạng cho
đời sau - các bài viết đã đề cập đến một số vấn đề như: kiến nghị về đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng nội dung chương
trình, phương pháp giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, chất lượng giáo trình giảng dạy
về tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc xây dựng nội dung cụ thể giáo dục về tư tưởng Hồ Chí
Minh trong các trường phổ thông
Qua khảo sát một số công trình nghiên cứu có nội dung liên quan đến đề tài trên
đây, có thể thấy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề đổi mới phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên

nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình
hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp nhiều tư liệu, đề xuất


14
nhiều gợi ý khoa học và là cơ sở quan trọng để tác giả tham khảo, kế thừa và phát triển,
đi sâu nghiên cứu đề tài.
3. Mục tiêu của đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lí luận về phương thức giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh, nghiên cứu về sự vận động của các điều kiện lịch sử và con người ở
nước ta cũng như thực trạng và hiệu quả phương pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
cho thanh, thiếu niên thời gian gần đây, đề tài chỉ rõ những căn cứ, nguyên tắc, nội
dung và đề xuất một số kiến nghị để đổi mới phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh cho thanh, thiếu niên nhằm khắc phục những yếu kém và nâng cao chất lượng
trong công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên nước ta.
4. Nội dung nghiên cứu:
Mở Đầu
Chương I
Phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
cho thanh, thiếu niên - một số vấn đề lý luận
I. Quan niệm về giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên
II. Nhận thức chung về phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho
thanh, thiếu niên
Chương II
về Thực trạng phương thức giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên trong những năm đổi mới ở nước ta
I- Điều kiện kịch sử hình thành phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh cho thanh, thiếu niên.
II- Tình hình thực hiện phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho
thanh, thiếu niên

Chương III
phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
cho thanh, thiếu niên trong điều kiện hiện nay


15
ở nước ta trong điều kiện hiện nay
I. Những đòi hỏi khách quan của việc đổi mới phương thức giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên.
II. Nội dung phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu
niên.
Kết luận
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Nắm chắc những quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận trong di sản lí luận
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về phương thức giáo dục đối
với với thanh, thiếu niên.
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là phương pháp lô gíc
kết hợp với lịch sử, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học và tổng kết thực tiễn nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra trong mục tiêu.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
- Từ những vấn đề lí luận cơ bản của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo
dục tư tưởng, góp phần làm rõ những vấn đề lí luận về phương thức giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh trong nhiệm vụ bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, đặc biệt là đối
với thanh, thiếu niên nước ta.
- Góp phần chỉ ra những nguyên tắc và nội dung đổi mới phương thức giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên ở nước
ta trong điều kiện hiện nay.






16
Chương I
Phương thức giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên – một số vấn
đề lý luận
I- Quan niệm về giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên
Để nhận thức rõ quan niệm về giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu
niên trong bối cảnh hiện nay, trước hết phải tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh,
thiếu niên, cũng như ý kiến của Người trong việc giáo dục, rèn luyện cho thanh, thiếu
niên. Đây là một nội dung hết sức quan trọng, phản ảnh sự cần thiết và mục tiêu giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên. Bởi lẽ, như Người nhiều lần nói:
“Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy
một phần lớn là do các thanh niên”
1
; “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”
2
.
Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến thanh, thiếu niên mà Người
còn luôn coi việc giáo dục, rèn luyện cho thanh, thiếu niên là một nhiệm vụ gắn liền
với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng ở mỗi thời kỳ cũng như vị thế của Việt Nam
trên quốc tế.
Đó là nói về mục đích, chủ thể về quan niệm giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
cho thanh, thiếu niên. Mặt khác, còn phải thấy đối tượng, mặt khách thể của việc giáo
dục là thanh, thiếu niên hiện nay như thế nào.
Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước ta đã hội nhập với quốc tế toàn cầu hóa
và bước sang giai đoạn cách mạng mới, cần phải thấy thanh, thiếu niên ngày nay khác
với thanh, thiếu niên ngày trước. Từ đó, mục tiêu và nhất là phương thức giáo dục tư

tưởng Hồ Chí Minh cho thanh, thiếu niên ngày nay chắc chắn không giống với mục
tiêu và phương thức giáo dục thanh, thiếu niên ngày trước. Hơn thế nữa, ở đây không
chỉ nói đến giáo dục đơn thuần mà là nói đến việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau đối với thanh, thiếu niên, lại càng là một nhiệm vụ không đơn giản,
dễ dàng, nếu không nói là cực kỳ khó khăn trong bối cảnh phức tạp hiện nay.

1
Hồ Chí Minh – Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T. 5, tr. 185.
2
Hồ Chí Minh – Toàn tập, Sdd, T.4, tr. 33.


17
Chính vì thế, sau khi tìm hiểu quan điểm Hồ Chí Minh về thanh, thiếu niên và
việc giáo dục cho thanh, thiếu niên, cần phải tìm hiểu thực trạng, nhất là những suy
nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của thanh, thiếu niên ngày nay xem họ khác với thanh, thiếu
niên ngày trước như thế nào.
Đây là hai mặt của một vấn đề:
Một mặt, đó là mục tiêu và chủ thể của giáo dục, thuộc lĩnh vực lý luận cơ bản;
và mặt khác, đó là đối tượng, động lực, khách thể của giáo dục, thuộc lĩnh vực thực
tiễn đối với thanh, thiếu niên ngày nay.
Hai mặt ấy đương nhiên có quan hệ hữu cơ với nhau không thể tách rời, cũng
như không thể xem nhẹ mặt nào, nhưng nó sẽ gắn kết với nhau như thế nào, bằng cách
nào, là điều phải tìm hiểu, nghiên cứu, cả về lý luận và thực tế. Về lý luận, đó là quan
điểm giáo dục nói chung trong đó có quan điểm giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho
thanh, thiếu niên; Về thực tế, đó là thực trạng thanh, thiếu niên ngày nay, cả mặt mạnh
và mặt yếu, cả những tác động của thực tế trong nước và tác động của thực tế bên
ngoài vào họ từng ngày từng giờ, nghĩa là phải nhìn nhận thanh, thiếu niên ngày nay
trong quan hệ vận động với nhiều mặt, nhiều chiều.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh, thiếu niên và việc giáo dục thanh, thiếu

niên trở thành “thế hệ cách mạng cho đời sau”
Có thể nói, vấn đề thanh, thiếu niên và việc giáo dục, rèn luyện cho thanh, thiếu
niên là một trong những nội dung cơ bản của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, hầu như không một lúc nào Người
không nghĩ đến việc giáo dục cho thanh, thiếu niên. Từ trước năm 1925, chúng ta thấy
Hồ Chí Minh đã đưa vấn đề thức tỉnh cách mạng cho thanh, thiếu niên với niềm
tin:“Người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi”
“Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ ấn Độ chiến
đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương”
1
.
Sau đó, đến Đại hội Quốc tế thanh niên cộng sản lần thứ IV, Hồ Chí Minh đã
viết văn kiện nổi tiếng về chủ trương xây dựng Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,

1
Hồ Chí Minh – Toàn tập, Sdd, T. 1, tr. 28.


18
một tổ chức bao gồm thanh, thiếu niên, ra đời trước khi thành lập Đảng và là tiền thân
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ trước cách mạng tháng Tám 1945, Người coi thanh, thiếu niên không chỉ là
người chủ tương lai của đất nước, của dân tộc mà còn là lực lượng nòng cốt trong mỗi
cuộc vận động cứu nước. Kể lại niềm tự hào và vui sướng nhất của mình trong việc
thực hiện tư tưởng cách mạng có ý nghĩa chiến lược đó, năm 1961, tại Đại hội lần thứ
ba của đoàn Thanh niên lao động Việt Nam, Người kể lại rằng:
“Từ năm 1925, ngay từ khi mới thành lập, Hội Thanh niên cách mạng đồng
chí đã lo đặt viên đá đầu tiên để chuẩn bị cho tổ chức thanh niên sau này” “Từ
chỗ chỉ có một Lý Tự Trọng đến ngày nay chúng ta đã có 78 vạn đoàn viên
Đoàn thanh niên Lao động hăng hái ra sức giúp Đảng xây dựng chủ nghĩa xã

hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Tiến bộ đó làm cho Bác rất vui sướng và
trẻ lại. Nó làm cho lòng Bác phơi phới như hoa nở trong mùa xuân”.
Trong nhiều bài nói và viết sau Cách mạng tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh luôn
luôn căn dặn cán bộ, đảng viên và toàn Đảng phải xem trọng và có trách nhiệm trong
việc đào tạo thế hệ tương lai của đất nước. Với Người, đó không chỉ là nhiệm vụ cách
mạng trong mỗi giai đoạn mà còn là việc thực hiện một nguyên tắc cách mạng cơ bản
nhất nhằm tạo ra những thế hệ cách mạng mới liên tục nối tiếp cho đất nước.
Thể hiện rõ một cách súc tích toàn bộ tư tưởng mang tính quy luật đó, từ năm
1958, nói chuyện tại lớp học chính trị của các giáo viên cấp II, III toàn miền Bắc,
Người nói một câu nổi tiếng như một cương lĩnh hành động cho toàn Đảng, toàn dân
tộc, như sau: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người”. Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, không chỉ đơn thuần là vấn đề giáo dục
thanh, thiếu niên, mà là vấn đề “trồng người”, một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, mang
tính chiến lược lâu dài của toàn Đảng, toàn dân tộc ta, như một chân lý tất yếu của sự
nghiệp cách mạng.
Trong thực tế, Tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội ra đời trước Đảng
Cộng sản Việt Nam và là một tổ chức đầu tiên của thanh niên bao gồm những người
chí cốt nhất để hình thành đội ngũ cán bộ cách mạng đầu tiên của đất nước. Cho đến
khi Đảng ra đời thì tổ chức thanh niên vẫn luôn bên cạnh tổ chức Đảng và là cánh tay
phải của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ tổ chức thanh niên này, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đào tạo cả đội ngũ cán bộ cốt cán của Đảng và Nhà nước ta trong suốt cả sự


19
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cho đến hôm nay khi đất nước đã trải qua những
thử thách quan trọng trong chiến đấu và xây dựng đất nước vì mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Lo lắng đến tiền đồ và tương lai của Đảng và đất nước, Hồ Chí Minh luôn nghĩ
đến vị trí, vai trò của thanh, thiếu niên. Trong bản Di chúc của Người, lời căn dặn đối
với thanh, thiếu niên vẫn là những lời chí cốt nhất, ân cần nhất, tâm huyết nhất. Người

căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung
phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng“ vừa “chuyên“.
Phải chăng vì nghĩ rằng nói như trên vẫn chưa đủ tầm quan trọng đối với thanh,
thiếu niên, cho nên Người phải nhấn mạnh thêm bằng câu:
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết“.
Từ những nội dung nêu trên, chúng ta thấy Hồ Chí Minh không chỉ coi thanh
niên là tương lai của đất nước mà còn đặt vấn đề giáo dục, đào tạo thanh, thiếu niên
thành người chủ xứng đáng với đất nước như là một nhiệm vụ hàng đầu rất quan trọng
và rất cần thiết. Hai chữ rất trong một câu văn chưa đầy 20 từ không phải là thừa mà
chỉ thể hiện một chủ ý của Người coi việc giáo dục thanh, thiếu niên là rất rất hệ trọng
đối với sự nghiệp cách mạng. Bởi lẽ, vấn đề không chỉ ở chỗ thanh, thiếu niên là lực
lượng trẻ mà còn ở chỗ lực lượng trẻ ấy có nối nghiệp được các thế hệ cách mạng để
đưa đất nước Việt Nam trở thành một đất nước giàu mạnh theo mục tiêu xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội hay không, đó mới thực sự là sự quan tâm hàng đầu của
Hồ Chí Minh đối với thanh, thiếu niên, người chủ tương lai của đất nước. Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau cũng có nghĩa là bồi dưỡng lớp người thừa kế sự nghiệp
cách mạng mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khai sinh và nâng tầm vóc
dân tộc lên tầm cao mới của thời đại. Vậy, vì sao Hồ Chí Minh lại quan tâm đặc biệt
đến việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau như thế.


20
Trước hết, cần tìm hiểu những quan điểm lý luận mang tính nguyên tắc của việc
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đối với thanh, thiếu niên trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
a)- Quan niệm về việc “trồng người” hay chiến lược con người của Hồ Chí
Minh đối với thanh, thiếu niên.

Nhận thức rõ bản chất con người nói chung, bản chất con người của mỗi xã hội
nói riêng, Hồ Chí Minh luôn ý thức được rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh và
mỗi xã hội cụ thể. Điều đó có nghĩa là không có con người trừu tượng, chung chung,
mà chỉ có con người cụ thể, con người này, sống và trưởng thành ở xã hội này. Xã hội
như thế nào sẽ tạo ra con người như thế; hoặc có thể nói, muốn xây dựng xã hội như
thế nào, sẽ đòi hỏi những con người như thế.
Nước ta muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đương nhiên, phải có
những con người mới xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã khẳng định một cách rõ ràng,
nhất quán rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ
nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có
tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”
1
, bởi “chủ nghĩa cá
nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt
nó”
2
.
Điều đó cũng có nghĩa là nếu không xây dựng được con người mới xã hội chủ
nghĩa thì sẽ không bao giờ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bởi lẽ,
khác với các xã hội cũ, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mới có trình độ cao, đòi
hỏi công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, do đó nó yêu cầu con người
phải có ý thức xây dựng nên chứ không phải tự nhiên nó đến. Đó là điều đã được học
thuyết Mác-Lênin khẳng định, Hồ Chí Minh chỉ thực hiện cái chân lý đó một cách sáng
tạo trên cơ sở một dân tộc chủ yếu là nông nghiệp, nông dân, còn lạc hậu, chưa qua
giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản như Việt Nam.
Nói đến việc cần thiết phải xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trước khi
xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa, cần phải nhắc lại những quan điểm cơ bản đã

1
Hồ Chí Minh – Toàn tập, Sdd, T. 9, tr. 303.

2
Hồ Chí Minh – Toàn tập, Sdd, T.9, tr. 292


21
được học thuyết Mác khẳng định. Đây cũng là một dự báo hết sức sáng suốt mang tính
nguyên lý của học thuyết Mác khi các nhà kinh điển nói đến việc ra đời một xã hội mới
ngày càng văn minh, con người bước vào thiên niên kỷ mới ngày càng ý thức được vận
mệnh của mình trước một thế giới với vô vàn những vấn đề đặt ra khiến cho con người
đứng trước những mâu thuẫn to lớn và hết sức gay gắt.
Nói lại điều dự báo đó, chính Ăngghen đã nhắc lại một nhận định thật chí lý của
Morgan về thời đại văn minh như sau:
“Trí tuệ của loài người hoang mang và bối rối trước vật sáng tạo của chính
mình. Nhưng tuy vậy, cũng sẽ đến ngày mà lý trí của loài người sẽ đủ mạnh để chi
phối của cải, mà lý trí của loài người sẽ quy định những quan hệ giữa nhà nước và
tài sản mà nó bảo hộ, cũng như sẽ quy định những giới hạn cho các quyền của
những người sở hữu. Lợi ích của xã hội phải tuyệt đối cao hơn lợi ích cá nhân và
cần phải tạo ra những mối quan hệ công bằng và hài hòa giữa hai lợi ích đó. Song,
nếu như sự tiến bộ vẫn là quy luật của tương lai, cũng như nó đã từng là quy luật
của quá khứ thì việc chỉ đơn thuần tìm kiếm của cải không phải là mục đích cuối
cùng của nhân loại Sự diệt vong của xã hội đang đứng sừng sững trước mặt
chúng ta một cách đe dọa như là sự kết thúc của một quá trình lịch sử mà của cải
là mục đích cuối cùng và duy nhất, vì một quá trình phát triển như vậy đang chứa
đựng những yếu tố làm cho chính nó bị tiêu diệt. Dân chủ trong công việc quản lý,
hữu ái trong xã hội, bình đẳng về quyền lợi, giáo dục phổ thông, tất cả những thứ
đó sẽ thần thánh hóa giai đoạn cao sắp tới của xã hội, mà kinh nghiệm, lý trí và
khoa học đang không ngừng vươn tới”
1
.
Điều Ăngghen nói về xã hội phát triển trong tương lai cần những con người mới

có ý thức về mình không chỉ là điều dự báo mà còn là lời cảnh báo về sự tan ra của một
xã hội mà ở đó quá trình phát triển không vì mục tiêu con người mà xem của cải là
mục đích cuối cùng và duy nhất. Bởi lẽ, như Ăngghen nói “một quá trình phát triển
như vậy đang chứa đựng những yếu tố làm cho chính nó bị tiêu diệt”.
Ngày nay, với trình độ phát triển của nền văn minh mới trong thời đại phát triển
chủ nghĩa tư bản, chúng ta thấy rõ điều Ăngghen nói không còn là dự báo mà đã trở
thành hiện thực. Trước sự phát triển như vũ bảo của khoa học và công nghệ, chủ nghĩa
tư bản đã có vai trò nổi bật trong tổ chức quá trình đổi mới kỹ thuật, tạo ra năng xuất
cao, của cải dồi dào. Rõ ràng, điều đó ai cũng thấy, ai cũng cảm nhận được những
thành tựu do chủ nghĩa tư bản mang lại. Đó là kết quả của xã hội đại công nghiệp mà
chính Mác, Ăngghen đã dự báo.

1
Mác và Ăngghen – Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, T. 21, tr. 264-265.


22
Xã hội công nghiệp trong bối cảnh phát triển chủ nghĩa tư bản đang chứa đựng
nguy cơ bùng nổ do có những hiện tượng nghịch lý và mâu thuẫn, như cách nhìn nhận
của một đại diện người Chilê tại Liên Hiệp Quốc: “Chúng ta đang vận động không theo
hướng tạo ra sự bình đẳng về khả năng cho những tầng lớp nghèo đói của xã hội, mà
theo hướng tạo ra ngày càng nhiều khả năng hơn cho người giàu”
1
. Giải thích về hiện
tượng nghịch lý và mâu thuẫn trên thế giới, nhiều người đã đi đến kết luận là nhất định
sẽ xảy ra khủng hoảng, không chỉ khủng hoảng kinh tế tài chính mà còn khủng hoảng
về lý tưởng, lẽ sống của từng cá nhân trước những thay đổi của thế giới. Do đó, chúng
ta cần phải đi sâu phân tích hiện tượng nghịch lý và mâu thuẫn đó trong bối cảnh xã
hội hiện nay.
Với cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra hiện nay, không phải ai khác mà

chính các chuyên gia trí thức tư sản đã thấy sự không ổn của một quá trình sản xuất
không vì mục tiêu con người mà xem của cải là mục đích cuối cùng và duy nhất. Hơn
bao giờ hết, chính trong lúc toàn cầu hóa đã đến mức cao này người ta mới thấy một
quá trình phát triển như vậy đang chứa đựng những yếu tố làm cho chính nó bị tiêu diệt
như điều dự báo của Ăngghen. Cũng không chỉ những nhà lý luận mác-xít thấy trước
điều này, mà gần đây nhiều trí thức tư sản đã nhắc đến Mác, chính là vì thấy Mác phê
phán chủ nghĩa tư bản trong Tư bản luận là rất đúng.
Thấy rõ Các Mác nhà tiên tri vĩ đại, giáo sư Leo Panitch ở trường Đại học York
tại Toronto, Canada vừa có bài viết đăng trên tạp chí Mỹ Chính sách ngoại giao
(Foreign Policy) số 5-6 năm 2009 dưới đầu đề Mác hoàn toàn hiện đại (Thoroughly
Modern Marx), đã viết:
“Mác đi trước thời đại của mình rất xa, ông đã dự đoán được sự toàn cầu hoá
thành công của chủ nghĩa tư bản trong mấy chục năm gần đây. Mác dự đoán chính
xác một số yếu tố quan trọng gây ra cuộc khủng hoảng hiện nay: Trong một thế
giới gồm các thị trường cạnh tranh nhau, nền sản xuất hàng hoá và sự đầu cơ tài
chính tiền tệ, những gì ông gọi là “mâu thuẫn” chính là thứ cố hữu bẩm sinh của
thế giới đó” “Nếu Mác nhìn thấy sự suy thoái kinh tế hiện nay, nhất định ông sẽ
muốn trình bày nguyên lý các khiếm khuyết bẩm sinh của chủ nghĩa tư bản là
nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng hiện nay” “Đúng như Mác nói, hành vi lý
tính vi mô sẽ gây ra kết quả xấu nhất cho nền kinh tế vĩ mô. Giờ đây chúng ta đã

1
Xem Sự kết thúc của lịch sử hay là tìm một con đường mới ?, Tài liệu phục vụ nghiên cứu TN 98-19, Viện
TTKHXH, 1998.


23
thấy là việc coi nhẹ (lý luận của) Mác mà chỉ tin vào “bàn tay vô hình” của Adam
Smith, sẽ đưa người ta đến tình huống khó khăn như thế nào”
1

.
Thấy rõ Mác nói về lực lượng huỷ diệt của chủ nghĩa tư bản, mới đây, một trí
thức Đông Âu, ông Kornai János, cũng đã nói:
“Chúng ta nghĩ đến các nhà kinh doanh, các nghiệp chủ, những người tổ
chức việc đưa ra các sản phẩm mới, các công nghệ mới, phương thức quản lý mới,
chiếm lĩnh các thị trường mới. Và bên cạnh đó chúng ta nghĩ đến sự phát triển tư
bản chủ nghĩa do Schumpeter mô tả, nó phá hủy thế giới cũ, tạo ra thế giới của
riêng nó, phương thức sản xuất của riêng nó thế vào đó, áp đặt chúng lên xã hội.
Tuy nhiên, chúng ta phải nói ngay, Marx và Engels đã mô tả quá trình này, lực
lượng tạo ra và lực lượng hủy diệt của chủ nghĩa tư bản, trước rất lâu rồi, trong
những dòng đầu tiên đầy quyến rũ của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
2
.
Phân tích sự phát triển của xã hội đại công nghiệp và sự khủng hoảng tất yếu
của nó, Ăngghen viết:
“Đại công nghiệp và khả năng mở rộng sản xuất một cách vô hạn do nó tạo
ra, sẽ cho phép xây dựng một chế độ xã hội, trong đó tất cả mọi sản phẩm cần cho
đời sống sẽ được sản xuất ra nhiều đến nỗi mỗi thành viên trong xã hội đều có thể
hoàn toàn tự do phát triển và sử dụng mọi lực lượng và năng lực của mình. Cho
nên, cái tính chất của đại công nghiệp, trong xã hội hiện đại, là đẻ ra mọi sự nghèo
đói và mọi cuộc khủng hoảng thương nghiệp, thì đến một chế độ xã hội khác,
chính tính chất ấy lại trở thành tính chất thủ tiêu sự nghèo khổ đó và những sự
biến động đem lại tai hoạ đó.
Như vậy là, ta có thể chứng minh một cách hoàn toàn rõ ràng rằng:
1. Hiện nay, tất cả mọi tai hoạ chỉ do cái chế độ xã hội không còn phù hợp với
điều kiện của thời đại nữa, gây ra.
2. Người ta đã có phương tiện để thủ tiêu triệt để những tai hoạ đó bằng cách
xây dựng một chế độ xã hội mới”
3
.

Điều đó cho thấy những dự báo của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác về xã hội
văn minh đương nhiên không thể là chủ nghĩa tư bản mà chỉ là một xã hội mới cao hơn
không còn người bóc lột người, đặt mục tiêu phát triển trong mục tiêu phát triển con
người. Đó chính là con người phát triển toàn diện mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.
Đó cũng là một nguyên tắc lý luận cơ bản về giáo dục đối với thế hệ thanh, thiếu niên.
Tựu trung, nói về giáo dục con người lại phải nói đến bản chất chế độ mà chúng
ta đang hướng tới. Cái vĩ đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ở chỗ Người đặt

1
Nguồn: Foreignpolicy.com (Xem www.nhandan.com ngày 14/7/2009)
2
Xem www.chungts.com ngày 20/5/2009.
3
Ăngghen – Tuyển tập Mác, Ăngghen, T. I, Nxb. Sự thật, 1980, tr. 451-452.


24
niềm tin vào con người và khẳng định rằng có con người phát triển toàn diện là có tất
cả. Lấy sức ta mà giải phóng cho ta, chứ không thể tin vào một thế lực siêu nhiên nào
từ bên ngoài là nguyên tắc Người đề ra nhằm mục đích giải phóng dân tộc Việt Nam.
Đó cũng là nguyên tắc giải phóng con người, giải phóng xã hội và loài người nói
chung. Mục tiêu đó do học thuyết Mác đề ra mà Hồ Chí Minh coi là sự nghiệp cách
mạng của chính mình. Đồng thời, Người tìm cách vận dụng sáng tạo những nguyên lý
của học thuyết Mác vào việc giải phóng dân tộc và giải phóng con người Việt Nam
trong bối cảnh một đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, chưa qua giai đoạn phát triển chủ
nghĩa tư bản.
Những điều nêu trên của Mác và Ăngghen như đang nói với chúng ta về mục
tiêu xây dựng xã hội mới, mà ở đó chỉ có con người đủ tư cách, lý trí, năng lực và
phẩm chất mới thực hiện được. Con người như thế không phải tự nhiên mà có. Đó là sự
nghiệp vĩ đại của giáo dục mà chỉ thực hiện được trên cơ sở một kế hoạch nghiêm túc,

khoa học và dũng cảm.
Do đó, kế hoạch “trồng người” là điều tất yếu không thể không đặt ra đối với
xã hội chúng ta khi muốn xây dựng thành công một xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Song, vấn đề đặt ra là liệu chúng ta có thực hiện được chiến lược “trồng người”
hay không, lại là vấn đề khác. Điều đó dĩ nhiên còn tùy thuộc vào nhiều điều kiện, như
bản chất chế độ, thực trạng xã hội và chính sách “trồng người” của Đảng và Nhà nước
ta đối với các thế hệ, đặc biệt là thế hệ thanh, thiếu niên.
Đây là điều rất hệ trọng cũng đã được Hồ Chí Minh nói đến và nói nhiều, nói
mạnh mẽ, nói cho đến cuối đời khi viết bản Di chúc. Bởi lẽ, khi có chiến lược “trồng
người” rồi nhưng thực tế lại không có những chủ thể giáo dục “trồng người” thì cũng
không thể thực hiện được. Chủ thể ấy chính là Đảng cầm quyền, là Nhà nước của dân,
do dân và vì dân, là các đoàn thể đại diện cho nhân dân, và đương nhiên là có vai rò
quyết định của nhân dân. Đây là vấn đề thời sự hết sức cấp bách đang đặt ra hiện nay
khi đất nước tiến hành đổi mới, hội nhập với quốc tế toàn cầu hóa.
Nói đến vấn đề con người phát triển toàn diện không thể không nói đến vị trí,
vai trò vô cùng quan trọng của văn hoá. Nó có quan hệ chặt chẽ với tiến trình phát triển
văn hóa, văn minh, mà hiện nay cả thế giới đều đang đứng trước những phát minh mới


25
về khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Cho nên, trước khi nói đến
những điều kiện chủ quan về vấn đề “trồng người” phải nói đến vị trí, vai trò văn hóa,
vốn có quan hệ hữu cơ với vấn đề con người và là một điều kiện cơ bản có tính quyết
định đến phát triển xã hội mới, con người mới phát triển toàn diện.
Con người phát triển là nhờ văn hóa, cho nên giữa văn hóa và con người có mối
quan hệ khăng khít. Nói đến “trồng người” là nói đến việc con người nắm bắt được giá
trị văn hóa cũng do chính con người tạo ra như Hồ Chí Minh định nghĩa về văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh

đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn”
1
. Như vậy, có thể nói, con người là quy tụ của bản chất văn
hóa và chỉ có văn hóa mới làm cho con người trở nên người thực sự. Con người hoàn
thiện hay chưa hoàn thiện, phát triển toàn diện hay chưa toàn diện, chính là nhờ có văn
hóa và chỉ có văn hóa. Trong những giá trị có liên quan đến văn hóa, Hồ Chí Minh cho
ta thấy giá trị cao nhất của mọi giá trị, chính là con người.
Cho nên, không phải là ngẫu nhiên, càng quan tâm đến con người bao nhiêu, Hồ
Chí Minh càng quan tâm đến văn hóa bấy nhiêu. Người nói: “Với xã hội, văn hóa phải
làm thế nào cho mỗi người Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu
cái nhiệm vụ của mình và biết hưởng cái hạnh phúc của mình nên được hưởng. Số
phận dân ta ở trong tay ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”
2
.
Đương nhiên, phải hiểu văn hóa theo nghĩa rộng. Song, điều cần khẳng định ở
đây là Hồ Chí Minh đặt cao vị trí của văn hóa chính là vì Người thấy quá trình hình
thành và phát triển của con người và xã hội nói chung, chính là ở quá trình phát triển
văn hóa. Khi nói đến mục tiêu xây dựng văn hoá trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, Hồ Chí Minh căn dặn:
“Chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng
ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân

1
Hồ Chí Minh – Toàn tập, Sdd, T.3, tr. 431.
2
Xem : Báo Cứu quốc, ngày 24/11/1946.

×