Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

LUẬN VĂN: Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1997 đến 2004 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.22 MB, 98 trang )










LUẬN VĂN:


Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ
1997 đến 2004













Mở Đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn không
ngừng bổ sung, phát triển và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới. Công cuộc đổi
mới là một cuộc cách mạng mới mẻ, mỗi bước đi là một sự tìm kiếm và khám phá, đổi
mới là phù hợp với xu thế của thời đại và yêu cầu tất yếu của đất nước, đáp ứng đúng
nguyện vọng của nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng KH-CN, kinh tế tri thức, xu thế toàn
cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi dân tộc, quốc gia. ở Việt Nam, Đảng
Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo đất nước thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong đó khẳng định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Coi
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu, và chỉ rõ trọng điểm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là vấn đề cốt lõi, là quy
luật phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời đổi mới, nhằm tiến kịp các nước tiên
tiến trong khu vực và thế giới.
Nền nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới từ năm 1986 đến nay đã
từng bước chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo ra bước phát triển có
tính đột phá trên lĩnh vực sản xuất hàng hóa, tác động mạnh đến phát triển công nghiệp,
các ngành dịch vụ, các lĩnh vực chính trị - xã hội khác. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp đúng hướng đã góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề bước
sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH là yêu cầu không thể thiếu, tạo ra sự ổn định trong
đời sống chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước.
Hải Dương là một tỉnh có tiềm năng to lớn về tài nguyên thiên nhiên, đất đai và
du lịch. Đồng thời, đây còn là mảnh đất "Địa linh nhân kiệt", có nhiều di tích lịch sử,
văn hóa nổi tiếng như: Côn Sơn - Kiếp Bạc, làng nghề truyền thống với những đặc sản
nổi tiếng như bánh đậu xanh ở thành phố Hải Dương, vải thiều Thanh Hà, gốm Cậy -




Bình Giang, gốm Chu Đậu - Nam sách, Hải Dương còn nằm trong khu vực kinh tế
trọng điểm phía Bắc và tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi tái lập tỉnh (tháng 1/1997) đến nay, Đảng
bộ tỉnh Hải Dương đã có quan điểm mới đúng đắn, với tư duy kinh tế năng động, nhằm
phát huy tiềm năng, thế mạnh và truyền thống vẻ vang của quê hương, thu hút mạnh
nguồn vốn từ trong và ngoài nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa
phương theo hướng CNH, HĐH. Hải Dương đang được biết đến như một vùng kinh tế
khởi sắc và hứa hẹn phát triển mạnh mẽ trong tương lai không xa.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông
nghiệp vẫn chưa phát huy hết tiềm năng to lớn đang còn những hạn chế và phải đối mặt
với nhiều vấn đề mới nảy sinh, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
của tỉnh.
Nhằm đánh giá đúng thực trạng và tìm ra những nguyên nhân của mặt mạnh, mặt tồn
tại để từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH ở một địa phương. Do đó tác giả đã chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Hải
Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa từ 1997 đến 2004" làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Tiêu biểu là một số công trình sau:
- GS. Đỗ Đình Giao (1994), "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá nền kinh tế quốc dân", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Đặng Văn Thắng, TS. Phạm Ngọc Dũng (2003), "Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế công, nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng thực trạng và triển vọng", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Sinh Cúc (2003), "Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới",
Nxb Thống kê, Hà Nội.
- PGS. TS Vũ Năng Dũng (chủ biên) (2001), "Nông nghiệp Việt Nam 61 tỉnh và
thành phố", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

- Chu Hữu Quý, Nguyễn Kế Tuấn (đồng chủ biên) (2002), "Con đường công
nghiệp hoá, hiện hoá nông nghiệp và nông thôn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
Nhưng chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu quá trình lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Hải Dương theo hướng CNH, HĐH
trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
+ Góp phần làm rõ đường lối, quan điểm của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH và quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
+ Khẳng định những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và những vấn đề
mới nảy sinh trong quá trình thực hiện. Từ đó, rút ra một số kinh nghiệm, nhằm phát
huy tốt hơn nữa việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương trong
sự nghiệp CNH, HĐH.
+ Cung cấp thêm căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh.
- Nhiệm vụ
+ Trình bày hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương vận dụng quan điểm,
đường lối của Đảng lãnh đạo về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến
2004 theo hướng CNH, HĐH.
+ Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, kết quả của quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2004 theo hướng CNH, HĐH.
+ Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo đường lối của Đảng trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu sự lãnh dạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong việc thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh từ 1997 đến 2004.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận nghiên cứu
Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời có sử dụng kết quả
nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu



+ Dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học mácxít. Luận văn sử dụng phương
pháp lịch sử, phương pháp lô gíc, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận
văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học để trình bày làm
rõ nội dung.
+ Nguồn tư liệu, luận văn chủ yếu dựa vào các văn kiện, nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương và các báo cáo hàng
quý, hàng năm của các Sở, ban, ngành, đặc biệt là của Sở Nông nghiệp và Cục Thống
kê tỉnh Hải Dương.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Trình bày một cách tương đối hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ tỉnh Hải
Dương lãnh đạo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH từ 1997 đến 2004.
- Chỉ rõ thành tựu, hạn chế của quá trình đó, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm
từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các
ngành có liên quan, góp phần tổng kết thực tiễn gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng trên một địa bàn cụ thể, trong một lĩnh vực nhất định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

gồm 2 chương, 5 tiết.




Chương 1
ĐảNG Bộ TỉNH HảI DƯƠNG LãNH ĐạO THựC HIệN
CHUYểN DịCH CƠ CấU KINH Tế NÔNG NGHIệP THEO HƯớNG CÔNG
NGHIệP HOá, HIệN ĐạI HOá Từ 1997 ĐếN 2000

1.1. Một số đặc điểm cơ bản và thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh
Hải Dương trước năm 1997
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
1.1.1.1. Vị trí địa lý - kinh tế của tỉnh
Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Từ ngàn xưa nơi đây đã là
lá chắn cửa ngõ phía Đông của kinh thành Thăng Long. Trải qua bao biến thiên của lịch
sử, đất và người Hải Dương luôn kiên cường trong đấu tranh, cần cù và sáng tạo trong
lao động, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam.
Hải Dương tiếp giáp với 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng
Yên và Hải Phòng. Trên địa bàn, nhiều trục giao thông quốc gia quan trọng chạy qua, với
chất lượng đường tốt như đường 5, đường 18, đường 183 thuận lợi cho việc giao lưu, trao
đổi với bên ngoài. Thành phố Hải Dương, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, KH-KT của
tỉnh nằm trên trục quốc lộ số 5, cách Hải Phòng 45 km về phía Đông và cách Thủ đô Hà Nội
57 km về phía Tây. Phía Bắc của tỉnh có hơn 20km quốc lộ số 18 chạy qua nối sân bay quốc tế
Nội Bài ra biển qua cảng Cái Lân (Quảnh Ninh). Đường sắt Hà Nội-Hải Phòng, Kép-Bãi Cháy
đi qua Hải Dương là cầu nối giữa Thủ đô và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển.
Là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều
hướng tác động mang tính liên vùng, Hải Dương có vai trò quan trọng làm cầu nối Thủ
đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du lịch Hạ Long; cung cấp sản
phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn tham gia quá trình trung chuyển hàng hóa giữa

hệ thống cảng biển và các thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước, do vậy, vừa có cơ
hội đóng vai trò là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách
thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển
vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp,
dịch vụ, thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố lớn và trở
thành một trong các đô thị lớn trong vùng.
Theo kết quả điều tra của Vụ Kinh tế địa phương, Bộ Kế hoạch và đầu tư về một
số chỉ tiêu năm 2004 như sau:



Biểu 1.1: Một số chỉ tiêu so sánh của tỉnh Hải Dương, vùng đồng bằng sông Hồng
và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trong mối quan hệ
với cả nước (cả nước =100%)

Hải Dương Vùng ĐBSH Vùng KTTĐBB
Dân số 2,1 21,9 16,3
GDP, giá HH 1,76 22,5 18,8
GDP/người 85,3 95,9 111,3
Nguồn: Số liệu năm 2004 của Vụ Kinh tế địa phương, Bộ KH&ĐT.
Như vậy, với 2,1% dân số, tổng GDP của Hải Dương mới chỉ đạt 1,76% của cả nước,
do vậy GDP bình quân đầu người của tỉnh thấp hơn mức trung bình của cả nước. Hải
Dương hiện đứng thứ tư trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cả về tổng
GDP và GDP bình quân đầu người. Điều này thể hiện vị thế hiện tại của tỉnh chưa tương
xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển đối với một tỉnh đang ở vị trí cầu nối đối với các
cực phát triển của cả nước.
Biểu 1.2: Tổng GDP và GDP bình quân đầu người các tỉnh vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ năm 2004, tính theo giá hiện hành



Tổng GDP
(tỷ đồng)
Xếp hạng
GDP/người

(triệu
đồng)
Xếp hạng
TP. Hà Nội 50.560 1 16,39 1
TP. Hải Phòng 19.088 2 10,7 2
Hà Tây 11.472 3 5,11 8
Hải Dương 12.116 4 7,15 4
Quảng Ninh 8.764 5 8,18 3
Hưng Yên 7.367 6 6,55 7
Vĩnh Phúc 7.821 7 6,75 5
Bắc Ninh 6.560 8 6,68 6
Nguồn: Số liệu năm 2004 của Vụ Kinh tế địa phương Bộ KH&ĐT.
1.1.1.2. Tiềm năng và khả năng khai thác các nguồn lực tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên vào phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh
Địa hình: Do cấu trúc địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Phía Đông của tỉnh có một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng của thuỷ triều và
bị úng ngập vào mùa mưa.
Toàn tỉnh Hải Dương được chia ra làm hai vùng chính: vùng đồi núi chiếm khoảng
11% diện tích đất tự nhiên, gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã của huyện Kinh
Môn, chủ yếu là đồi, núi thấp phù hợp với xây dựng các cơ sở công nghiệp, du lịch và trồng



cây ăn quả, cây lấy gỗ và các loại cây công nghiệp. Vùng đồng bằng gồm các huyện, xã
còn lại, có độ cao trung bình 3-4m, đất đai bằng phẳng màu mỡ phù hợp với việc trồng cây

lương thực, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Với địa hình này, Hải Dương có
khả năng phát triển mạnh và đa dạng các ngành sản xuất, nhất là sản phẩm nông, lâm
nghiệp.
Khí hậu: Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, được
chia thành 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 23
o
C, thuận lợi cho cây trồng
sinh trưởng. Lượng mưa trung bình hằng năm 1.500-1.700 mm, phân bố không đều, tập
trung vào tháng 6, 7, 8, dễ gây úng lụt, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và dân sinh.
Độ ẩm không khí trung bình cao từ 78-87%, tháng 3- 4 với độ ẩm trung bình từ 90-
92%.
Nhìn chung, điều kiện khí hậu của tỉnh thuận lợi cho sự phát triển hệ sinh thái
động thực vật cũng như các hoạt động sản xuất, dịch vụ và du lịch. Đặc biệt, điều kiện
khí hậu vào mùa đông rất thuận lợi cho việc phát triển cây rau, màu, thực phẩm, nhất là
khả năng trồng rau xuất khẩu.
Tài nguyên đất: Năm 2004, diện tích tự nhiên của tỉnh là 164.837ha, trong đó đất
nông nghiệp chiếm 63,3%; đất lâm nghiệp chiếm 6,08%, đất canh tác 46,2%; đất ở
6,87%; đất chưa sử dụng 7,47%.
Đất đồng bằng chiếm khoảng 89% diện tích đất tự nhiên, chủ yếu là đất phù sa
sông Thái Bình, thuận tiện cho việc thâm canh và sản xuất nhiều loại cây trồng cho
năng suất cao. Trên một số diện tích đất canh tác thuộc các huyện Tứ Kỳ, Gia Lộc, Nam
Sách, Kinh Môn, Kim Thành đã trồng luân canh được 3- 4 vụ trong một năm, do vậy,
nâng hệ số quay vòng đất của tỉnh từ 2- 4 lần hiện nay lên 2,7 - 2,8 lần trong các năm
tới là hướng khai thác có hiệu quả nguồn đất đang sử dụng.
Đồi núi chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên, nằm gọn ở phía Đông Bắc thuộc 2
huyện Chí Linh và Kinh Môn. Nhóm đất này nghèo dinh dưỡng, tầng mặt mỏng, nghèo
mùn, độ phì thấp, chủ yếu phù hợp trồng các loại cây lấy gỗ, cây ăn quả như vải thiều,
dứa, cây công nghiệp như lạc, chè
Tài nguyên nước: Hệ thống sông ngòi khá dầy đặc, bao gồm hệ thống sông Thái
Bình, sông Luộc, các sông trục Bắc Hưng Hải và An Kim Hải, có khả năng bồi đắp phù sa

đồng ruộng, cung cấp nguồn nước cho nhu cầu sản xuất của các ngành, đồng thời cũng là



những tuyến giao thông thuỷ, tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hóa trong tỉnh, cũng như
giữa Hải Dương với các tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sông ngòi nhiều thường gây nên
úng lụt, rất khó khăn trong việc phòng chống lụt và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, đời
sống dân sinh.
Nguồn nước ở Hải Dương khá phong phú trong hệ thống sông ngòi lớn nhỏ, hồ,
đầm và kênh mương phân bố khắp trên địa bàn.
Nguồn nước ngầm: Trữ lượng nước ngầm của Hải Dương khá dồi dào. Lượng
nước ngầm tại các giếng khoan đạt từ 30 - 50m
3
/ngày đêm. Nguồn nước này nằm chủ
yếu trong tầng chứa nước lỗ hổng Pleitôxen, hàm lượng CL<200mg/1. Tầng khai thác
phổ biến ở độ sâu trung bình từ 40 - 120m, ở phía bắc tỉnh có thể khai thác tốt cho nhu
cầu nước sinh hoạt. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh cũng đã phát hiện một số tầng nước
ngầm có độ sâu từ 250-350m, nhiều nơi có chất lượng nước tốt, trữ lượng lớn, là tiềm
năng cung cấp nước ổn định phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Tài nguyên khoáng sản: Không nhiều, nhưng một số loại có trữ lượng lớn, chất
lượng tốt, giá trị kinh tế cao, là nguồn nguyên liệu để phát triển công nghiệp như đá vôi
(trữ lượng khoảng 200 triệu tấn, đủ để sản xuất 4-5 triệu tấn xi măng/1 năm); cao lanh
(40 vạn tấn); sét chịu lửa (khoảng 8 triệu tấn) Ngoài ra, tỉnh còn có tiềm năng về than
đá, than bùn, đất sét, bô xít, thuỷ ngân và nguồn nguyên liệu dồi dào cho sản xuất vật
liệu xây dựng. Nhìn chung, tài nguyên không giàu, điều kiện tự nhiên khá thuận lợi,
nhưng hiệu quả quản lý khai thác chưa tốt, nhất là than, cát và đá.
Tài nguyên phục vụ du lịch trên địa bàn khá phong phú, nhất là trên hai huyện
miền núi phía Đông Bắc tỉnh là Chí Linh và Kinh Môn.
Chí Linh núi đồi trùng điệp, có độ cao trung bình không quá 400m, rừng cây xanh
tốt, cảnh quan đẹp, nhiều hồ nước tự nhiên, nhiều di tích, di chỉ văn hóa: Khu danh

thắng Phượng Hoàng - Kỳ Lân là địa danh thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo
núi, tham quan di tích lịch sử; Khu du lịch danh thắng Côn Sơn là nơi cảnh đẹp thiên
nhiên-tâm linh gắn liền với cuộc đời của Anh hùng dân tộc-danh nhân văn hóa thế giới
Nguyễn Trãi và nhiều danh nhân đất Việt khác như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang,
đồng thời là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn-Yên Tử-Trúc
Lâm).



Kinh Môn thuộc vùng núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú. Nơi đây còn lưu lại
di tích của loài người thời đại đồ đá mới: Núi An Phụ với đền thờ An Sinh Vương Trần
Liễu (thân phụ Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo) trên đỉnh và tượng đài người Anh
hùng dân tộc Trần Hưng Đạo ở chân núi; hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi
Dương Nham gắn liền với những trang sử hào hùng chống quân Nguyên của nhân dân
ta.
Các huyện thuộc vùng đồng bằng cũng có tiềm năng du lịch phong phú nhờ có
cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, làng quê trù phú, mang đậm nét đặc trưng của văn hóa
Bắc Bộ: khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà nổi tiếng với cây vải tổ; làng Cò (Chi Lăng
Nam - Thanh Miện), Văn miếu Mao Điền (huyện Cẩm Giàng), gốm Chu Đậu (huyện
Nam Sách)
Trên địa bàn tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hóa cách mạng, các làng nghề, các lễ
hội truyền thống, ẩm thực, các giá trị truyền thống và hiện đại khác làm phong phú thêm
nguồn tài nguyên du lịch của Hải Dương, tạo tiền đề phát triển ngành du lịch thành một
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong tương lai.
1.1.1.3. Đặc điểm về dân số, dân cư, nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội
Dân số toàn tỉnh năm 2004 là 1.698.262 người; tỷ lệ tăng bình quân là 0,53%, mật
độ dân số trung bình toàn tỉnh là 1.029 người/km
2
. Cơ cấu dân số Hải Dương thể hiện
dân số trẻ, năm 2004 dân số trong độ tuổi lao động (chiếm 55,23% tổng dân số).

Cùng với phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, dân số thành thị tăng nhanh: năm 2004
dân số thành thị gần gấp đôi so với năm 1996. Tỷ trọng dân số đô thị trong tổng số dân
số cao hơn các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (trừ Hà Nội, Hải Phòng). Tuy nhiên, so
với yêu cầu phát triển, khả năng đô thị hoá, tạo việc làm và tổ chức các hoạt động phi
nông nghiệp còn rất chậm.
Đặc điểm dân cư và phân bố dân cư: Dân số nông thôn chiếm tỷ trọng cao (86%
tổng dân số), chủ yếu làm nông nghiệp, giàu truyền thống yêu nước, có bề dày văn hóa,
khéo tay. Ngoài canh tác lúa nước, dân cư Hải Dương còn nổi tiếng với các nghề truyền
thống như kim hoàn, chạm khắc gỗ, chế biến bánh kẹo
Trong bối cảnh phát triển mới, cư dân trong tỉnh vừa cố gắng gìn giữ phát triển
các ngành nghề truyền thống, vừa tiếp thu KH-CN hiện đại. Với óc sáng tạo, năng lực
cải tiến, đã hình thành thêm những ngành nghề mới, tạo ra cục diện mới trong phân



công và sắp xếp lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho chính mình và
toàn cộng đồng.
Nguồn lao động dồi dào nhưng phần lớn là lao động phổ thông, tỷ lệ lao động đào tạo
thấp (23%), năng suất lao động chưa cao: năm 2004 giá trị bình quân GDP thực tế /một lao
động (LĐ) chung toàn nền kinh tế là 12.934.000 đồng/LĐ, (cả nước khoảng 14.300.000
đồng), trong đó nông nghiệp đạt 4.102.000 đồng/LĐ, công nghiệp 39.039.000 đồng/LĐ và
dịch vụ đạt 32.320.000 đồng/ LĐ. Như vậy năng suất lao động chung theo sơ bộ tính toán là
tương đối thấp so với cả nước. Trong các khối năng suất lao động ngành nông - lâm - thuỷ
sản chỉ đạt 38% so với mức trung bình của tỉnh, công nghiệp-xây dựng gấp 3,7 lần và
ngành dịch vụ gấp 3 lần.
Thời gian sử dụng lao động trong nông nghiệp chiếm 78% (năm 2004). Cơ hội
kiếm việc làm có thu nhập cao và điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc còn
nhiều bất cập. Chất lượng lao động nhìn chung còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển: tỷ
lệ được đào tạo thấp, thể lực, trí lực, tính kỷ luật, tác phong còn ảnh hưởng của nền sản
xuất nhỏ.

Lao động có việc làm và đang làm việc ở các ngành trong nền kinh tế quốc dân
tăng khá, song cơ cấu còn bất hợp lý. Số lao động làm việc tại các ngành công nghiệp,
dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp, trong khi số lao động khu vực nông - lâm - thuỷ sản chiếm tỷ
trọng lớn. Sở dĩ có sự bất hợp lý này là do:
- Khả năng thu hút lao động nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp
còn nhiều khó khăn, lao động có tay nghề có kỹ năng, được đào tạo trong các lĩnh vực
còn quá thấp, đặc biệt là khu vực nông thôn, khiến người lao động không hoặc khó có
cơ hội chuyển nghề, tìm việc làm mới hoặc chuyển nghề và phải chấp nhận các công
việc lao động giản đơn, truyền thống dựa hẳn vào đồng ruộng theo kiểu cha truyền con
nối. Theo điều tra năm 2003, lao động có trình độ từ sơ cấp đến công nhân kỹ thuật có
bằng trở lên chiếm 24,5%.
Số lao động hàng năm tăng lên nhanh trung bình khoảng 6.000 người/năm. Nếu
cộng cả số lao động còn dôi dư và thiếu việc làm, thì vấn đề giải quyết việc làm đặt ra là
một bài toán rất khó khăn của địa phương. Trong khi đó các ngành công nghiệp thiên về
các công nghệ hiện đại sử dụng nhiều vốn.



Việc cải thiện bất hợp lý trong chuyển dịch cơ cấu lao động là rất khó khăn vì
trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra cạnh tranh gay gắt. Mặt khác, trong tiến trình
CNH, HĐH, nhu cầu nâng cao năng suất lao động dẫn dến việc đào thải lực lượng lao
động không có kỹ năng và chất lượng thấp, tạo ra thất nghiệp, trong khi khả năng đào
tạo và đào tạo lại kỹ năng cho hàng loạt lao động hiện tại đang còn gặp nhiều khó khăn.
Biểu 1.3: Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực (%)
Cả
nước
ĐBSH
Hải
Dương
So với

cả nước
- Cơ cấu lao động:
Nông - lâm nghiệp
Công nghiệp, xây dựng
Dịch vụ

58,35
16,96
24,96

53,56
22,21
24,23

68,85
16,5
14,6

10,05
- 0,96
- 10
- Trình độ học vấn:
Mù chữ
Chưa tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp trung học

4,2
15
18,37

61,9


0,275
3,3
20
76,37

3,93
11,7
2,63
14,47
- Lao động qua đào tạo
Không có chuyên môn kỹ thuật
Từ sơ cấp, học nghề
Từ bằng trung cấp, cao đẳng trở lên

78,85
9,05
11,83


75,5
7,05
17,45

3,35
- 2
5,62
Nguồn: Điều tra nguồn nhân lực năm 2003 của Tổng cục Thống kê.

Trên đây là một số đặc điểm cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội của tỉnh Hải
Dương, những đặc điểm đó có tác động rất lớn, là cơ sở để Đảng bộ tỉnh hoạch định chủ
trương, chính sách đúng đắn trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch kinh tế nói chung và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng theo hướng CNH, HĐH.
1.1.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương
trước năm 1997
Đây là thời kỳ Hải Dương nằm trong tỉnh Hải Hưng. Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Hải Hưng lần thứ VII (tháng 5/1996) đã đánh giá những thành tựu kinh tế nổi bật
trong 5 năm 1991 - 1995 của Hải Hưng là: đã thoát ra khỏi suy thoái, tuy còn một số
mặt chưa vững chắc. Các chương trình kinh tế - xã hội triển khai sớm và thực hiện có
hiệu quả. Tổng sản phẩm trong tỉnh GDP tăng bình quân 9,3%. Tổng kim ngạch xuất



khẩu đạt 94,78 triệu đô la. Năm 1995 thu nhập bình quân đầu người 256 đô la. Cơ cấu
kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, tỷ trọng nông nghiệp-công
nghiệp, xây dựng-dịch vụ đạt 45% - 25% - 30%. Trong đó nông nghiệp Hải Hưng có
tốc độ tăng 7,43%. Sản lượng lương thực bình quân 1,1 triệu tấn/năm; riêng năm 1995
đạt 1,3 triệu tấn, năng suất lúa đạt 103 tạ/ha, lương thực bình quân đầu người là
485kg/năm. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đã đa dạng và phong phú, giá trị thu nhập
trên một đơn vị diện tích đạt 26 triệu đồng/ha. Tỷ trọng nông nghiệp-lâm nghiệp-thuỷ
sản là 48%-24%-28%, tính đến năm 1996 bình quân quỹ đất nông nghiệp/khẩu nông
nghiệp là 742m
2
, trong đó đất canh tác là 596m
2
/người (khoảng 1,6 sào Bắc Bộ). Quỹ
đất có khả năng mở rộng sản xuất nông nghiệp còn không đáng kể. Đây là một đặc
trưng nổi bật nhất của một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Hướng chính để mở rộng sản xuất
nông nghiệp của Hải Dương là đi sâu vào thâm canh, tăng vụ và tăng chất lượng sản

phẩm nông nghiệp. Trong nhiều năm qua sản xuất nông nghiệp đã giải quyết đủ nhu cầu
lương thực, thực phẩm cho dân cư tại địa phương và có một khối lượng nông sản dư
thừa khá lớn. Nhưng việc tiêu thụ lượng nông sản này đang gặp khó khăn do nhiều
nguyên nhân như:
- Do chất lượng nông sản thấp; chưa tạo được các vùng chuyên canh, tập trung để
đáp ứng cho công nghiệp chế biến.
- Quy mô ruộng đất nhỏ, manh mún, do vậy khi tiến hành CNH, HĐH nông
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.
- Do nhận thức của nhà nông còn hạn chế để phòng ngừa rủi ro và bảo đảm tự túc
lương thực, thực phẩm cho nên họ đã lựa chọn mô hình đa dạng hoá sản xuất.
- Chưa có vùng nguyên liệu đủ tiêu chuẩn dẫn đến chưa có một mạng lưới chế
biến nông sản có công nghệ tiên tiến, hiện đại, đủ sức cạnh tranh với thị trường khu vực
và thế giới.
Từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 8 năm 1988) về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp, giao quyền tự chủ sản xuất cho hộ nông dân, cho lưu thông lương
thực, giải phóng sức sản xuất, giải quyết thoả đáng các mối quan hệ sản xuất và lợi ích
của nông dân, nông nghiệp cả nước nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng đã có bước
phát triển to lớn, bộ mặt nông nghiệp có nhiều thay đổi. Đặc biệt với đường lối Đại hội
VII (1991), cơ chế thị trường đã được khẳng định và đi vào cuộc sống, nhất là sau Nghị
quyết Trung ương 5 khoá VII (6/1993) "Về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội



nông thôn" và Luật Đất đai năm 1993 thì xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng
được mở rộng rất đa dạng, phong phú.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương cũng chuyển dịch từ độc canh lương
thực sang nền nông nghiệp hàng hóa đa canh phù hợp với đặc điểm từng vùng.
Đối với vùng ven đô, ven thị: Từ ngày hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh
tế tự chủ, được giao quyền sử dụng lâu dài, họ đã thực sự yên tâm, phấn khởi sản xuất,
tìm tòi và áp dụng nhiều biện pháp thâm canh mới, điều kiện thời tiết lại tương đối

thuận lợi, do đó Hải Dương được mùa liên tiếp, lương thực vượt "cửa ải" 1 triệu tấn,
năm 1993 đạt 1,25 triệu tấn và năm 1995 đạt 1,31 triệu tấn, giải quyết được vấn đề
lương thực, người nông dân không còn lo nghĩ thiếu đói, họ nghĩ ngay đến việc sản xuất
lương thực hàng hóa cung cấp cho thị trường. Xu hướng là thu hẹp diện tích gieo trồng
lương thực chuyển sang cơ cấu mới: Cây ăn quả, cây dược liệu, cây cảnh và chăn nuôi
như nuôi lợn, gà công nghiệp Đối với thuỷ sản phát triển nuôi cá, ba ba Điển hình
của loại hình này là xã Mễ Sở (Châu Giang) bình quân ruộng đất chỉ đạt 396m
2
/người,
năm 1989 tổng diện tích trần lúa là 194 ha nhưng đến năm 1993 chỉ còn 12 ha trồng lúa,
72 ha ngô, còn đại bộ phận diện tích đất trồng lúa đã chuyển đổi sang trồng hoa và cây
cảnh. Với cách làm trên, xã Mễ Sở đã tạo ra bước phát triển mới đưa giá trị thu nhập
trên 1 ha đất từ 5-7 triệu đồng/năm lên đến 30-50 triệu đồng/năm, từ chỗ thừa lao động
đến thiếu lao động và sử dụng lao động nơi khác đến, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân ngày càng nâng cao.
Đối với vùng đất trũng: với cơ cấu 2 vụ lúa bấp bênh, năng suất thấp, được nông
dân đầu tư công sức cải tạo đất, đào ao, lập vườn hình thành cơ cấu mới: vải thiều-chuối-
nuôi cá-nuôi ong. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng này được mở rộng ở các huyện Cẩm
Bình, Nam Thanh, Tứ Lộc Việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng mới có tác dụng hình
thành một mô hình canh tác nông nghiệp mới, hạn chế yếu tố bất lợi, khai thác lợi thế,
nâng cao hiệu quả kinh tế.
Đặc biệt sự chuyển dịch hệ thống cây trồng đối với vùng đất trũng tại xã Thanh
Thuỷ-Nam Thanh đã đạt hiệu quả kinh tế cao, tính đến cuối năm 1993 toàn bộ đất vườn
của xã là 56,6 ha giữa các hộ, có hộ có tới 7-9 sào vườn, nhưng có hộ lại không có,
vùng đất này có thể trồng nhiều loại cây như cam, quất, táo, hồng xiêm, chanh. Nhưng
thời kỳ này cây vải thiều chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, cây vải thiều có ở vùng đất



này từ lâu. Do trước đây thiếu lương thực và việc giao lưu nông sản phẩm gặp khó khăn

nên nông dân đã phá một số vườn vải thiều để cấy lúa, đặc biệt thời tiết vụ đông xuân
trời âm u, mưa phùn nhiều, cây vải thiều rụng hoa nhiều mà đậu ít. Nông dân cho rằng
"Trời sinh, trời dưỡng" chủ yếu tập trung vào trồng ra hạt lúa, củ khoai, nên một thời
gian dài cây vải thiều đã bị bỏ quên. Do chủ trương đổi mới đúng đắn, một cơ chế đúng
đã thức dậy bao tiềm năng. Hàng hoá nông sản được giao lưu tự do, đặc biệt là áp dụng
KH-KT vào thâm canh vườn, phun thuốc đậu quả cho cây nên vải thiều đã thực sự
thành cây trồng đặc sản trong vườn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân Thanh
Thuỷ. Vải thiều có thể dùng ăn tươi hoặc sấy khô, 1 kg vải thiều lúc thu hoạch rộ là
6.000-7.000 đồng. Lúc cuối vụ tới 25.000 đến 30.000 đồng, nếu được sấy khô thì càng
có giá trị cao hơn. Bằng kết quả thực tế: 1 sào vải thiều lúc khép tán sau 15 năm trồng
có 5 đến 6 cây. Chỉ tính là 2 năm được mùa 1 lần do hiện tượng "1 năm ăn quả, 1 năm
trả cành" thì 1 cây cho thu hoạch từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng. Như vậy 1 sào vải
sẽ cho thu nhập gấp nhiều lần cấy lúa. Nông dân lập vườn bằng cách đào đất hai bên
đắp vào giữa thành luống, bề mặt luống rộng khoảng 3 mét và cao hơn mặt ruộng
khoảng 0,5 đến 0,7 mét. Mối sào (360m
2
) thì trồng từ 5-6 cây. Xen kẽ giữa các luống là
những rãnh sâu thành ao để thá cá. Cây vải được trồng vào giữa luống. Lúc cây vải chưa
khép tán, trồng xen các cây như: quất, chuối, cam Với phương châm lấy ngắn nuôi
dài, dưới rãnh sẽ thả cá. Đây là mô hình có sức thu hút lới với đa số nông dân ở Thanh
Thuỷ nói riêng và Nam Thanh nói chung.
Theo tính toán của người dân có kinh nghiệm cho biết:
Đầu tư vốn cố định (Thời giá năm 1993)
Lập vồng: 600.000 đồng/sào.
Giống cây vải: 50.000 đồng/sào.
Tổng chi: 650.000 đồng/sào.
Đầu tư vốn lưu động trong ba năm đầu.
Cá giống: 45.000đ x 3 năm = 135.000đ/3 năm.
Chi khác cho nuôi cá: 10.000đ x 3 năm = 30.000đ/3 năm.
Phân bón cho cây vải: 20.000đ x 3 năm = 60.000đ/3 năm.

Trồng xen: 18.000đ x 3 năm = 54.000đ/3 năm.
Tổng chi: 279.000đ



Đầu tư vốn lưu động trong 7 năm tiếp theo
Chi nuôi cá: 55.000đ x 7 = 385.000đ.
Chi phân bón cây vải: 20.000 x7 = 140.000đ.
Tổng chi: 525.000đ
- Chi giao nộp trong 10 năm
- Thuế: 20 kg thóc x 1.100đ/kg = 220.000.
Tổng chi 10 năm:
650.000đ + 279.000đ + 525.000đ + 220.000đ = 1.674.000đ.
Bình quân 1 năm là 167.400đ.
Thu:
Quả vải: 5 cây x 40kg x 5.000đ x 7 năm = 7.000.000đ.
Thu trồng xen 3 năm đầu: = 420.000đ.
Thu về cá: 50kg x 5.000đ x 10 năm = 2.500.000đ.
Tổng thu 10 năm: = 9.920.000đ
Tổng thu 1 năm = 992.000đ.
Kết quả: Lãi 1 năm 992.000-167.400 = 824.600đ/năm.
1 đồng vốn bỏ ra 1 năm thu được 6 đồng. So với trồng lúa thì 1 sào vải thiều thu
gấp 6,3 lần so với 1 sào lúa.
Như vậy, hướng chuyển đổi từ ruộng trũng cấy lúa bấp bênh năng suất thấp sang
thành vườn cây đặc sản và ao cá thực sự có hiệu quả, đồng thời tạo môi trường sinh thái
tốt. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng hộ mà tính toán cho phù hợp
hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng tạo ra bước ổn định và vững chắc, đồng thời phải
phù hợp với chủ trương an toàn lương thực quốc gia.
Đối với vùng đất trồng lúa: Xu hướng diễn ra theo nhu cầu thị trường, bố trí lại cơ
cấu giống lúa, chọn giống có chất lượng, năng suất cao và được thị trường chấp nhận, một

số huyện đã cấy lúa nếp hoa vàng, tám thơm bán ra thị trường với giá từ 5.000-7.000
đồng/1kg gạo, cao gấp hai lần giá gạo thường như huyện Kinh Môn, Cẩm Giàng Nhiều
nơi nông dân đã thay đổi hình thức luân canh trên một đơn vị diện tích để tìm kiếm lợi
nhuận, trước kia đầu tư luân canh hai vụ lúa chỉ cho giá trị từ 12 - 15 triệu đồng/ha. Cho
nên một số hộ nông dân ở xã Toàn Thắng (Gia Lộc) với công thức lúa + đậu tương + 2 vụ



bắp cải cho giá trị 55-57 triệu đồng/ha, xã Thạch Khôi (Gia Lộc) với cách chuyển đổi 3 vụ
rau giống + 2 vụ bắp cải + 1 vụ lúa xuân cho giá trị 100-105 triệu đồng/ha.
Về thuỷ sản: Hầu hết diện tích mặt nước trước đây nuôi cá quảng canh, thả rau
bèo hoặc bỏ hoang đã được các hộ thuê và đầu tư nuôi cá hoặc một số ruộng quá trũng,
trồng lúa thu hoạch bấp bênh, lỗ vốn, các địa phương đã cho thuê cải tạo thành ao thả
cá, trên bờ trồng cây ăn quả: chuối, chanh, vải, cam đã cho thu nhập từ 20 - 40 triệu
đồng/ha, cao gấp nhiều lần trồng lúa.
Chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi: Thực tiễn ở Hải Dương cho thấy được mùa
lương thực thì cũng kéo theo chăn nuôi cũng phát triển, đàn lợn, trâu, bò, gia cầm đều
tăng. Chuyển dịch cơ cấu trong chăn nuôi trước hết là cải tạo và thay đổi giống, thay
giống đực ngoại, nuôi lợn thịt ngoại tăng, tỷ lệ trong lợn lai nhằm tăng trọng và tăng tỷ
lệ nạc, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, phát triển đàn bò lai Cùng với việc cải tiến cơ cấu
và khẩu phần thức ăn chăn nuôi, phương pháp chăn nuôi cũng thay đổi, nuôi lợn theo
phương pháp ủ men, mỗi hộ có thể nuôi hàng chục lợn thịt mỗi lứa và hàng nghìn con
gà công nghiệp Nhưng giá thành các sản phẩm chăn nuôi còn cao, do năng suất con
giống thấp, giá thành thức ăn gia súc cao và chưa tổ chức được vùng chăn nuôi hàng
hóa tập trung.
Về lâm nghiệp: Kinh tế đồi rừng được khuyến khích phát triển, thực hiện chương
trình 327 của Chính phủ đến cuối năm 1996 trồng mới hơn 4.000 ha rừng, 2.000 ha
vườn đồi chủ yếu là trồng vải thiều.
Đánh giá chung: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương
trước 1997 tuy diễn ra sôi động, đa dạng, bước đầu đạt một số kết quả, nhưng chưa đều.

Vai trò lãnh đạo của cấp uỷ cơ sở nói chung còn yếu nên phong trào có phần mang tính
tự phát, rập khuôn và chứa nhiều yếu tố rủi ro.
Sản xuất phân tán, manh mún, trình độ công nghệ trong nông-lâm-thuỷ sản lạc
hậu, khả năng cạnh tranh nông sản thấp, giá thành cao.
Cơ sở hạ tầng nông thôn còn yếu kém và chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền
nông nghiệp hàng hóa sản xuất lớn.
Quan hệ sản xuất ở nông thôn chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng dẫn đến trì trệ,
hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế thấp.



Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn có những yếu kém.
1.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dương thực hiện chủ trương của Đảng về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở địa phương
1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thứ nhất: Những quan điểm của Đảng về phát triển nông nghiệp trước Đại hội
Đảng lần thứ VI
Ngay từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện thực tế của nước ta về CNXH và con đường tiến lên CNXH. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: Đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Sau này các đại hội của Đảng đã khẳng định và từng bước làm rõ
thêm đặc điểm to lớn đó, lấy đó làm cơ sở để định ra đường lối chiến lược, trong đó có
đường lối kinh tế cho cách mạng Việt Nam. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III sau khi phân tích tình hình trong nước và thế giới, đã đề ra hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam là: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Trong đó chỉ rõ, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ
quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự
nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Đại hội III đã xác định: Công cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm
đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất sang nền
kinh tế dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng thành
một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở
ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
ở nước ta Hồ Chủ tịch xác định: "Vì nước ta là một nước nông nghiệp, mọi việc
đều dựa vào nông nghiệp", cho nên "Các cơ quan Nhà nước phải quan tâm hơn nữa đến



nông nghiệp, phát huy nhiều hơn nữa tác dụng của ngành mình trong sản xuất nông
nghiệp" [34, tr.415].
Đại hội đã nhấn mạnh một số quan điểm cơ bản như: Kết hợp cải tạo với xây
dựng, coi cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của công
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó lấy cải tạo nông nghiệp làm khâu chính của
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Trung ương 5 khoá III năm 1961 đã ra Nghị
quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp, trong đó nêu lên phương án cải tiến công cụ và cơ
giới hoá nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Sau này các Hội nghị
Trung ương Đảng tiếp tục bổ sung và phát triển chủ trương, nhằm đẩy mạnh sản xuất
nông nghiệp.
Trong giai đoạn này Đảng và Nhà nước đã đầu tư hàng nghìn máy kéo lớn nhỏ,
hàng vạn động cơ điện, động cơ nổ, hàng triệu công cụ cải tiến phục vụ cho nông nghiệp,
tạo ra năng suất chất lượng cao, do đó từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, đặc biệt là người nông dân luôn phấn khởi, tin tưởng vào đường lối
của Đảng, sản xuất nông nghiệp để đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, ngay cả trong
điều kiện có chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ở miền

Bắc.
Năm 1975 miền Nam nước ta được hoàn toàn giải phóng là một bước ngoặt, có ý
nghĩa lịch sử trọng đại của cả dân tộc ta, mở ra giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.
Nước ta từ chỗ bị chia cắt và chiến tranh ác liệt, lâu dài chuyển sang gia đoạn mới đó là
cả nước độc lập, thống nhất. Tình hình mới của đất nước sau giải phóng đặt ra cho Đảng
ta trách nhiệm phải bổ sung và hoàn chỉnh đường lối, nhằm chuyển cuộc cách mạng cả
nước, đồng thời xác định nhiệm vụ cụ thể phù hợp với đặc điểm từng miền. Để đáp ứng
yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) đã đề ra
đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế trong giai đoạn cách mạng mới ở nước
ta. Đặc biệt đại hội đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-
1980) là tập trung lực lượng phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, mạnh mẽ và
vững chắc; đồng thời đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
họp Hội nghị lần thứ hai (7/1977). Hội nghị lần thứ hai chủ trương: Tập trung cao độ
lực lượng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp.



Hội nghị vạch rõ: trong những năm trước mắt, phải phát triển vượt bậc sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết cho được vấn đề lương thực, thực
phẩm, tạo ra những điều kiện vật chất thuận lợi để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, đồng thời cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
Nhân dân ta bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ hai với những thuận lợi rất cơ bản:
lực lượng lao động dồi dào; tiềm lực to lớn của nền kinh tế cả nước đã thống nhất; sự
giúp đỡ và hợp tác kinh tế, kỹ thuật của cả nước xã hội chủ nghĩa và các nước dân chủ
tiến bộ trên thế giới, sự nhất trí về chính trị, tinh thần và khí thế phấn khởi của toàn dân
sau khi đã chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược Bên cạnh những thuận lợi ấy, đất nước
ta còn có rất nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề hơn 30 năm chiến tranh khốc liệt của
chế độ thực dân cũ và mới để lại, đòi hỏi chúng ta phải khắc phục trong thời gian dài.

Trong khi đó, những nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân đặt ra sau chiến tranh phải
giải quyết nhanh chóng, phải tổ chức lại nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu, dựa trên
sản xuất nhỏ là chủ yếu, tiến lên xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả
nước, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, vừa phải tích luỹ để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải bảo đảm củng cố nền an ninh quốc
phòng. Đặc biệt trong giai đoạn này nước ta luôn phải chống lại với thiên tai khắc
nghiệt trong mấy năm liền làm cho sản xuất nông nghiệp bị thất thu lớn, những trận bão
lụt liên tiếp xảy ra trên cả hai miền Nam, Bắc trong năm 1978 làm cho sản lượng lương
thực thất thu tới 3 triệu tấn, các phương tiện sản xuất bị phá huỷ và hư hỏng nặng. Để
khắc phục, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tương thân, tương ái "Nhường cơm sẻ áo"
giúp đỡ lẫn nhau, vượt qua khó khăn và thử thách. Nhiều nhân tố mới, tích cực đã xuất
hiện trong sản xuất, xây dựng và chiến đấu. Trong ba năm 1976-1978 ngành nông
nghiệp đã có thêm gần một triệu héc-ta đất phục hoá và khai hoang. Để đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách lớn như:
đầu tư làm thuỷ lợi, thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp đưa hàng vạn máy kéo lớn nhỏ,
hàng chục vạn động cơ nổ các loại vào phục vụ sản xuất Mặc dù đã có nhiều cố gắng
trong phát triển kinh tế, song nền kinh tế nông nghiệp ở nước ta trong giai đoạn này rất
thấp, những năm 1976-1980 sản xuất nông nghiệp tăng 1,9%, trong khi đó dân số mỗi
năm tăng gần 1 triệu người, nông nghiệp phát triển chậm không theo kịp sự gia tăng dân



số nên đất nước thiếu lương thực, thực phẩm triền miên. Nông nghiệp chậm phát triển,
trong đó nguyên nhân chủ yếu là do chính sách và cơ chế quản lý đối với nông nghiệp
không khuyến khích và thúc đẩy sản xuất phát triển, trong nhiều năm nông nghiệp chưa
được đầu tư thích đáng, đúng với vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân.
Trước tình hình cấp bách đó, đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương, chính sách đổi
mới trong kinh tế nông nghiệp. Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khoá IV) năm 1979 đã
khởi động với tư tưởng: làm cho sản xuất bung ra. Mở đầu là Chỉ thị 100 (1981) của
Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao

động trong nông nghiệp. Chỉ thị 100 tạo ra sự thay đổi bước đầu nhận thức về HTX, hộ
xã viên, tác động làm thay đổi cơ chế quản lý HTX, xác định vai trò, vị trí của người lao
động.
Chỉ thị 100 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981) là chính sách lớn
của Đảng đối với nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 1981-1987 mục tiêu đặt ra: đảm bảo
phát triển sản xuất nông nghiệp và nâng cao hiệu quả kinh tế; củng cố và tăng cường
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn; nâng cao thu nhập và đời sống của xã
viên, tăng tích luỹ HTX; làm tròn nghĩa vụ và tăng khối lượng nông sản cung cấp cho
Nhà nước. Điểm mấu chốt của Chỉ thị 100 là thực hiện khoán sản phẩm với việc:
Xác định lại về tổ chức quản lý và phân công lại lao động trong HTX.
Xóa bỏ phân phối theo ngày công thả nổi, chuyển sang phân phối theo ngày công
kế hoạch trên cơ sở định mức kinh tế, kỹ thuật. Thu nhập của xã viên bao gồm phần thu
trong khoán và toàn bộ phần thu vượt khoán.
Chỉ thị 100 ra đời đã tạo ra động lực mới khuyến khích lợi ích vật chất đối với
người nhận khoán. Do vậy chỉ sau 1 năm, hầu hết các HTX, tập đoàn sản xuất trong cả
nước đã triển khai thực hiện. Nông dân phấn khởi đầu tư thêm công sức, tiền vốn, vật
tư, áp dụng tiến bộ KH-CN, tận dụng đất đai để phát triển sản xuất mà trước hết là
lương thực. Nhờ đó sản xuất phát triển, số lượng lương thực nhập khẩu giảm; lương
thực, thực phẩm cung cấp cho Nhà nước được tăng lên. Trong 5 năm 1976 - 1980 mức
huy động chỉ đạt 13,3% sản lượng, thì ở giai đoạn 1981 - 1985 là 22%; sản lượng thịt
huy động cũng tăng từ 12 vạn tấn lên 26 vạn tấn.
Biểu 1.4: Kết quả đầu tư của xã viên trên ruộng khoán năm 1982
STT
Số hộ điều
% đầu tư thêm so với khoán
Tỷ lệ vượt



tra (h

ộ)

Phân
chuồng
Phân
hoá học
Công lao
động
khoá
n (%)

Hải Hưng 192 42,6 124,7 27,5 23,2
Hải phòng 304 12,8 24,7 6,5 59,3
Hà Nam Ninh 128 10,3 34,7 23,2 24,2
Vĩnh Phúc 122 27,3 45,0 20,2 17,0
Thanh Hoá 265 34,0 34,4 32,0 27,5
Nguồn: Thực trạng nông nghiệp và nông dân Việt Nam 1976-1990, Nxb Thống
kê, Hà Nội, 1991.
Biểu 1.5: Kết quả tăng trưởng sản xuất nông nghiệp
TT Đơn vị
1976-
1980
1980-
1985
1
Tốc độ gia tăng giá trị sản lượng lương
thực
% 1,9 4,9
2 Riêng trồng trọt % 1,7 4,2
3 Tổng sản lượng lương thực 5 năm Triệu tấn 66,8 85,1

4 Bình quân lương thực đầu người/năm Kg 268 304
5 Đàn lợn Triệu con 9,1 11,3
6 Đàn bò Triệu con 1,6 2,18
7 Giá trị xuất khẩu nông-lâm-ngư nghiệp
Triệu
USD/năm

112 259
Nguồn: Báo cáo đề tài sự tác động của các chủ trương chính sách và luật pháp
đối với nông nghiệp nông thôn và nông dân năm 1997, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
Thực tiễn của gần 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm
sau ngày đất nước thống nhất. Đảng ta ngày càng thấy rõ vị trí quan trọng của sản xuất
nông nghiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3 năm 1982) đã khẳng định
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và đề ra mục tiêu kinh tế-xã hội tổng quát, những
chính sách lớn cho chặng đường trước mắt:
Trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, cần tập trung sức phát triển
mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp
một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng



tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng,
kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong
một cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý [20, tr.62-63].
Đại hội chỉ rõ: Chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta đề ra những
phương hướng chiến lược kinh tế-xã hội của chặng đường này, quyết định được những
vấn đề có tính nguyên tắc về mục tiêu chính sách và biện pháp. Muốn vậy: Việc xây
dựng và phát triển công nghiệp nặng phải có mức độ phù hợp với điều kiện và khả

năng, nhằm phục vụ thiết thực và có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu
dùng, đáp ứng yêu cầu vừa bảo đảm tiêu dùng xã hội vừa có tích luỹ. Trên quan điểm
đó phải bố trí lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, quy định vị trí, nội dung và mức độ phát
triển các ngành kinh tế, kết hợp đúng đắn ngay từ đầu công nghiệp và nông nghiệp
trong một cơ cấu hợp lý. Đảng luôn trung thành và vận dụng sáng tạo có sự phát triển và
bổ sung lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình thực tiễn của cách mạng nước ta và
khẳng định: Trong đoạn đường đầu của thời kỳ quá độ việc đưa nông nghiệp một bước
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chưa có đại công nghiệp, điều đó đòi
hỏi nông nghiệp phải tự vươn lên để nhanh chóng tạo ra nông sản xuất khẩu, để có nguồn
vốn, mở rộng sản xuất. Xuất phát từ cái sẵn có tự khả năng có thể huy động được ngay để
tạo ra nguồn vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đồng thời đáp ứng
được những nhu cầu cấp bách về đời sống nhân dân và an ninh quốc phòng.
Với chủ trương đúng đắn của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến
và tiến bộ quan trọng, nhất là trong nông, lâm, thuỷ sản, đã đạt được tiến bộ rõ rệt.
Trong thời kỳ 1981-1985 nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,9% so với 1,9% hằng
năm của thời kỳ 1976-1980, sản lượng lương thực tăng bình quân 17 triệu tấn/năm so
với 13,4 triệu tấn/năm. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hằng năm 6,4% so với 0,4%.
Tuy vậy, trên thực tế những năm sau đó nông nghiệp vẫn chưa thực sự được coi là mặt
trận hàng đầu, không được đảm bảo những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật
tư, tiền vốn và chính sách khuyến khích. Vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách.
Chính vì vậy mà nhiều khó khăn, mất cân đối trong nền kinh tế đã không giải quyết
được, thậm chí còn trầm trọng thêm. Do bao cấp nặng nề, sản xuất có tăng nhưng hàng
hóa vẫn thiếu nghiêm trọng, ngân sách thiếu hụt lớn, tỷ lệ lạm phát cao nếu lấy năm
1976 là 100% thì năm 1989 là 313,7% và năm 1986 là 774,7%. Đứng trước những khó
khăn, thách thức của cách mạng, Đảng ta đã quyết định tiến hành công cuộc đổi mới.



Thứ hai: Những quan điểm của Đảng về phát triển nông nghiệp trong thời kỳ
đổi mới

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 là bước ngoặt trong
đổi mới tư duy của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội nói chung và về phát triển nông nghiệp
nói riêng. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại
hội đã khẳng định những thành tựu đã đạt được trên các mặt, nêu rõ những mặt yếu
kém, khó khăn gay gắt. Đại hội đã tổng kết bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có
bài học "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng" [21, tr.30]. Đại hội VI đã đề ra những quan điểm và chính
sách đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế; thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, nhấn
mạnh vai trò hàng đầu của nông nghiệp trong việc đáp ứng những yêu cầu cấp bách về
lương thực, thực phẩm, nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Phấn đấu
đưa nông nghiệp trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa; thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần; xác định đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xóa bỏ
cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật
khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế.
Đại hội chỉ rõ: "Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là
trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc
thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu" [21, tr.47].
Đại hội nhấn mạnh trong toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể cả
chặng đường hiện nay, không được tách rời giữa công nghiệp và nông nghiệp hoặc coi
trọng một ngành kinh tế nào. ở mỗi giai đoạn, trong từng chặng đường, vị trí, vai trò của
nông nghiệp và công nghiệp có khác nhau. Nhưng trong chặng đường hiện nay phải tập
trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông
nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Sau Đại hội VI, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm thực hiện đường lối của Đảng.
Công cuộc đổi mới được triển khai mạnh mẽ. Tuy vậy nền kinh tế nước ta năm 1987,
1988 diễn biến rất phức tạp, có lúc khó khăn tưởng chừng khó vượt qua. Ba năm liền
lạm phát vẫn ở ba con số: năm 1986 lạm phát lên đến 774,7%, đến đầu năm 1988 vẫn ở




mức 398,3%. Vì vậy, đời sống của những người hưởng lương và trợ cấp xã hội giảm sút
mạnh. Nhiều xí nghiệp quốc doanh và HTX tiểu thủ công nghiệp đình đốn thua lỗ, sản
xuất cầm chừng, thậm chí phải đóng cửa Đầu năm 1988 nạn đói xảy ra ở nhiều vùng
và năm 1988 nước ta vẫn phải nhập 45 vạn tấn lương thực. Những diễn biến quốc tế
phức tạp tác động xấu đến tình hình nước ta. Nước ta đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế-xã hội. Trong hoàn cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tỏ rõ bản
lĩnh vững vàng, phân tích rõ những nguyên nhân của khó khăn, nhất là những khuyết
điểm chủ quan như chậm tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ một số quan điểm và bước đi
trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Nhà nước chậm cụ thể hoá, thể chế hoá đường lối
của Đảng, sự chỉ đạo bộ máy của Đảng, Nhà nước còn nhiều thiếu sót. Nhận thức rõ
điều đó, Đảng và Nhà nước ra sức khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải
quyết những vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách, từng bước đưa Nghị quyết Đại hội VI vào
cuộc sống.
Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã tập trung bàn và
quyết định những chủ trương quan trọng của sự nghiệp đổi mới. Nhằm đưa nước ta
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội. Trong đó Nghị quyết 10 của Bộ Chính
trị, khoá VI (5-4-1988) có thể coi là mốc đánh dấu sự thay đổi về tư duy kinh tế của
Đảng, là bước ngoặt quan trọng trong phát triển của nền nông nghiệp nước ta. Nghị
quyết 10 nhằm thực sự giải phóng sức sản xuất; phát huy mọi tiềm năng của các thành
phần kinh tế, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích, nhất là lợi ích chính đáng
của người sản xuất, Nghị quyết đã khẳng định:
Thừa nhận sự tồn tại lâu dài, bình đẳng của các thành phần kinh tế quốc doanh,
tập thể, tư nhân, cá thể.
Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân, có tư
cách pháp nhân. HTX và tập đoàn sản xuất là những đơn vị kinh tế tự quản, tự xác định
hình thức, quy mô, phương hướng sản xuất, phương thức kinh doanh.
Hoàn thiện việc khoán đến hộ, ổn đinh lâu dài diện tích giao khoán từ 10 đến 15

năm và mức khoán là 5 năm. Khuyến khích phân công lao động trên nguyên tắc ai giỏi
nghề gì làm nghề đó.

×