Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

LUẬN VĂN: Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ - sự hình thành và phát triển doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.22 KB, 95 trang )










LUẬN VĂN:

Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa
Kỳ - sự hình thành và phát triển

















mở đầu



1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoa Kỳ tuy là quốc gia trẻ so với nhiều quốc gia có bề dày lịch sử như Anh, Pháp,
Đức, ý, Trung Quốc nhưng Hoa Kỳ đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nước, nhiều
nhà khoa học muốn nghiên cứu quốc gia này: "Mỹ là nước lớn, giàu và mạnh hàng đầu thế
giới, có trình độ phát triển rất cao về nhiều mặt, đã dính mũi vào nhiều nước, gây ra nhiều
cuộc chiến tranh và cũng có vai trò to lớn trong việc giải quyết nhiều vấn đề quốc tế"
[34, tr. 50]. Hay như tác giả cuốn "Văn minh Hoa Kỳ", Jean-Pierre Fichou viết: "Trong
vòng ba thế kỷ, đất nước này đã được gán vai trò là một mô hình mẫu hoặc là vật đối
chứng cho toàn cầu, nó đã sáng tạo ra một chế độ độc đáo bằng cách dựng nên một quan
niệm khác về cuộc sống" [32, tr. 3]. Hoa Kỳ đặc biệt vì là một trong những nước giàu
hàng đầu thế giới, tổng thu nhập GDP của Hoa Kỳ bằng cả của Nhật Bản và Tây Âu
cộng lại. Đặc biệt, vì Hoa Kỳ là nước tư bản phát triển nhất, kinh tế Hoa Kỳ được coi là
đầu tàu của kinh tế thế giới. Khi nghiên cứu về mô hình nhà nước Cộng hòa Tổng
thống, chúng ta không thể không tìm hiểu chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Tại sao vậy? Vì chế độ Tổng thống Hoa Kỳ là mô hình xuất hiện đầu tiên của chính thể
cộng hòa Tổng thống, là "nơi đầu tiên dạng cầm quyền này được thiết lập" [50, tr. 106],
là "hình thức chính thể cộng hòa Tổng thống lần đầu tiên trong lịch sử được thiết lập ở
Mỹ vào cuối thế kỷ 18" [2, tr. 44] đồng thời là mô hình đặc trưng, tiêu biểu của chính thể
cộng hòa Tổng thống. Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ cũng là mô hình áp
dụng điển hình nhất học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước, hay như
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung nhận xét tại Giáo trình luật hiến pháp các nước tư bản: "Loại
hình này được áp dụng một cách tương đối phổ biến ở các nước tư bản châu Mỹ, mà khuôn
mẫu của nó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ" [9, tr. 131]. Vì những lý do trên tác giả đã chọn
"Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ - sự hình thành và phát triển" làm đề
tài nghiên cứu.
Trong tình hình hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, chúng ta đang rất cần kinh nghiệm, cần lý luận về xây dựng nhà nước pháp




quyền của các nước trên thế giới. Chúng ta không phải học tập để sao chép máy móc mà
học tập với tinh thần cầu thị, học tập để chúng ta tìm ra và vận dụng những ưu điểm như
tác giả Thái Vĩnh Thắng viết trong Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, đó là những "hạt nhân
hợp lý trong tổ chức và hoạt động của chính phủ tư sản" [51, tr. 26] vào hoàn cảnh Việt
Nam, để xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân do dân và vì dân. Khi
nghiên cứu Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tác giả mong muốn làm phong
phú thêm kiến thức lý luận về nhà nước và pháp luật đồng thời cố gắng tìm những điểm
hợp lý và chưa hợp lý của mô hình này để có thể vận dụng một phần nào đó vào Việt
Nam: "Chúng ta có thể học hỏi được gì từ quá trình soạn thảo Hiến pháp Mỹ trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền; xây dựng một chính quyền mạnh và có hiệu quả" [21, tr.
9].
Riêng với Hoa Kỳ, Đảng và Nhà nước đã thực hiện chính sách: "Việt Nam mở
rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị và xã hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi" (Điều 14
Hiến pháp 1992), vì vậy Việt Nam và Hoa Kỳ đã bình thường hóa quan hệ và ký Hiệp
ước thương mại Việt - Mỹ. Việc tìm hiểu bộ máy nhà nước Hoa Kỳ cũng như pháp luật
Hoa Kỳ là công việc rất cần thiết để bảo vệ lợi ích của quốc gia vì khi chúng ta giao lưu
với đối tác nào, với quốc gia nào, chúng ta phải biết người biết ta "tri bỉ tri kỷ, bách phát
bách trúng". Ngoài ra, khi chúng ta nghiên cứu những định chế nhà nước Hoa Kỳ là
chúng ta đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và qua đó, thúc đẩy quan hệ Việt Nam
Hoa Kỳ càng tiến triển theo hướng có lợi cho hai nước, cũng như cho khu vực và quốc
tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây do Mỹ và Việt Nam ở hai bên trận tuyến của cuộc chiến tranh kéo
dài hai mươi năm, tiếp theo là chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam,
nên việc tìm hiểu nghiên cứu về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ không được giới nghiên
cứu luật học Việt Nam quan tâm nhiều. Sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với
Mỹ thì việc tìm hiểu nghiên cứu về nhà nước Mỹ được quan tâm nhiều hơn. Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia đã xuất bản một số sách về nhà nước Mỹ do các tác giả Việt



Nam dịch như Khái quát về chính quyền Mỹ của TS. Trần Thị Thái Hà và đồng sự dịch
năm 1999; Khái quát về lịch sử nước Mỹ, Nguyễn Chiến và đồng sự dịch năm 2000;
Lịch sử mới của nước Mỹ, Diệu Hương và đồng sự dịch năm 2003; Quốc hội và các
thành viên, Trần Xuân Danh và đồng sự dịch năm 2002 Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin xuất bản cuốn Lịch sử nước Mỹ do Lê Minh Đức và đồng sự dịch năm 1994; cuốn
Bốn hai đời Tổng thống Hoa Kỳ do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam dịch năm 1998. Các
học giả Việt Nam cũng công bố một số công trình nghiên cứu về chính trị và chính
quyền Mỹ như Hệ thống chính trị Mỹ do TS. Vũ Đăng Hinh chủ biên; Hoa Kỳ tiến trình
văn hóa chính trị do PGS.TS Đỗ Lộc Diệp chủ biên; Thể chế chính trị thế giới đương
đại do PGS.TS Dương Xuân Ngọc chủ biên. Luật hiến pháp đối chiếu của PGS.TS
Nguyễn Đăng Dung. Một số luận án, luận văn viết về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ như
Luận văn thạc sĩ luật học "Hệ thống kiềm chế đối trọng trong hiến pháp Mỹ" năm 1998
của tác giả Nguyễn Thị Hiền. Cũng trong năm 1998 sinh viên Hoàng Trung nghĩa làm
luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Quốc tế học với đề tài "Chế độ Tổng thống Hoa Kỳ".
Năm 2001 sinh viên Trương Thị Thùy Dung, khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà
Nội làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành luật với đề tài "Chế độ Tổng thống Hoa Kỳ".
Ngoài ra, có một số bài viết liên quan đến chế độ Tổng thống Mỹ như "Vai trò của Tổng
thống trong quá trình hoạch định chính sách đối Mỹ" của tác giả Lê Linh Lan trong tạp
chí Nghiên cứu quốc tế, tháng 12/2002; bài "Hệ thống cơ quan tư pháp của nhà nước tư
sản" của tác giả Thái Vĩnh Thắng trong Tạp chí Luật học, số 3, số 5 năm 1996. Các tác
phẩm, các công trình khoa học và các bài viết trên đã nghiên cứu một cách khái quát và
tương đối toàn diện về nhà nước Mỹ trên các mặt chính trị, văn hóa, lịch sử, thể chế nhà
nước, tuy nhiên nghiên cứu sâu và đi riêng về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ quá trình hình
thành và phát triển thì chưa có. Hai bản luận văn về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ mới chỉ
dừng lại ở mức độ nhất định trình bày về đặc điểm của chế độ Tổng thống Hoa Kỳ,
chưa đi sâu phân tích quá trình hình thành, đặc điểm và sự phát triển của chế độ Tổng

thống Hoa Kỳ, chưa lý giải tại sao Mỹ lại chọn chế độ Tổng thống khi xây dựng mô
hình chính quyền. Từ tình hình và lý do trên tác giả luận án mạnh dạn tiếp thu kế thừa
các kết quả nghiên cứu trên và đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu quá trình hình thành,
những đặc điểm nổi bật và sự phát triển của chế độ Tổng thống Hoa Kỳ.



Mục đích của luận văn
- Trình bày quá trình hình thành và phân tích các đặc điểm chế độ Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ. Xem xét quá trình phát triển của chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thông qua ba
ngành quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Từ những nghiên cứu trên, rút ra một số khuyến nghị với mong muốn đóng
góp chút ít vào kiến thức về nhà nước Mỹ để có thể vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, dựa trên các
học thuyết chính trị pháp lý về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn dùng các
phương pháp chứng minh, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp,
quan sát để tiến hành xem xét đánh giá các tài liệu, sự kiện.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ trên cơ sở
lịch sử phát triển và trên cơ sở Hiến pháp Mỹ.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chính thể cộng hòa Tổng thống Mỹ mà chủ
yếu hệ thống cơ quan quyền lực ở trung ương theo chiều ngang.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sự hình thành chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Chương 2: Đặc điểm của chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Chương 3: Sự phát triển của chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.




Chương 1
sự hình thành chế độ Tổng thống
hợp chúng quốc hoa kỳ

1.1. Sự hình thành mười ba bang nguyên khai đầu tiên
Sau khi nhà hàng hải Côlông (1450-1506) tìm ra châu Mỹ năm 1492, các nước
Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Hà Lan liên tục gửi các đoàn thám hiểm và tiến hành những
cuộc khai thác tài nguyên, buôn bán, và đưa người đến khai phá và định cư ở vùng đất
mới Tân thế giới này. Trong số các nước trên, Anh quốc có thể với vị trí địa lý hoàn
toàn bao bọc bởi biển cả nên buộc họ phải phát triển đội tàu thủy và hàng hải vì vậy họ
đã có những hạm đội khá mạnh. Cộng vào đó, Anh quốc có thể chế chính trị pháp lý
tiến bộ hơn các nước khác nên Anh quốc hùng mạnh hơn và có dã tâm chiếm vùng Tân
thế giới làm thuộc địa. Chính vì vậy mà vùng đất mới châu Mỹ đã xuất hiện các thuộc
địa Anh và chịu ảnh hưởng bởi Vua Anh cũng như các định chế pháp lý của ông ta. Lịch
sử còn ghi lại sự kiện sau khi Vua Jacques đệ nhất kế vị nữ hoàng Elizabeth năm 1603,
thì đến năm 1606 ông ta ban Ân chiếu cho công ty Virginia (còn có tên gọi khác là công
ty London) [29, tr. 19] được phép xây dựng các khu định cư ở mép bờ Đại Tây Dương
thuộc châu Mỹ. Vùng đất định cư ấy được đặt tên là Virginia và sau này trở thành bang
đầu tiên trong số mười ba bang nguyên khai để hợp thành quốc gia mới với tên gọi là
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Khi vua Jacques đệ nhất ban chiếu ngoài việc cho phép công
ty Virginia, xây dựng các khu định cư, buôn bán, chuyển các cư dân từ châu âu sang
còn cho phép các cư dân mới định cư vốn là các cư dân Anh quốc được hưởng các quy
chế pháp lý tương tự như khi họ còn ở Anh quốc: "Ân chiếu khẳng định rằng, tất cả các
di dân đều được hưởng mọi quyền tự do vốn là của họ khi họ còn ở chính quốc như thể
họ sinh ra và cư ngụ trong nước Anh, nghĩa là họ phải được bảo vệ của bản Đại hiến
Chương và Thông luật" [15, tr. 27] (Đại hiến chương là văn bản có 63 điều, là bản giao
kèo giữa nhà vua và thần dân gồm quý tộc, thị dân, nông dân, nhằm hạn chế sự độc đoán
của nhà vua, xác nhận quyền tự trị của các thành phố và quyền tự do đi lại buôn bán, được

ký dưới thời vua Giôn năm 1215 [55, tr. 168]. Còn Thông luật là luật pháp phát sinh từ



những phán quyết của tòa án gọi là phán quyết tư pháp để phân biệt với luật pháp do quốc
hội làm ra và ban hành [35, tr. 5]). Việc vua Anh ban Ân chiếu cho công ty Virginia kèm
theo các định chế pháp lý mà cư dân ở vùng đất mới này được hưởng là nhằm các mục
đích: Khẳng định vai trò của vua Anh với thuộc địa mới, duy trì pháp luật của Anh quốc
với các cư dân, động viên các cư dân vượt qua những khó khăn thách thức mà bất cứ
cuộc khai phá các vùng đất mới nào cũng gặp phải. Nhưng có điều mà vua Anh không ngờ
tới, đó là những định chế pháp lý của Anh quốc đã được người định cư vận dụng và rút
kinh nghiệm, để cùng với tư tưởng tìm kiếm tự do đã tạo tiền đề cho những người dân
định cư lập ra những định chế pháp lý để hạn chế quyền lực của Mẫu quốc, cũng như tìm
kiếm cho mình một mô hình chính quyền giống vua Anh nhưng cũng khác vua Anh:
Vào ngày 30 tháng 7 năm 1619 hội nghị đầu tiên các đại biểu người
Anh tại châu Mỹ được tổ chức tại nhà thờ của Jamestown (Jamestown là thành
phố đầu tiên được người định cư thành lập tại thuộc địa năm 1607). Ngoài vị
thống đốc và sáu cố vấn của ông, cơ quan lập pháp này gồm hai hai nhà tư
sản. Jamestown bầu ra hai đại biểu và mỗi đồn điền trong số mười đồn điền
bắt đầu mọc lên xung quanh Jamestown bầu ra hai đại biểu. Được gọi với cái
tên là viện các nhà tư sản, viện lập pháp này chính là mầm mống của ngành
lập pháp tương lai của Virginia [15, tr. 30].
Thực tế, trong hội nghị lập hiến 1787, bản kế hoạch của bang Virginia đệ trình về
xây dựng mô hình nhà nước Liên bang là nền tảng cho hội nghị này thảo luận và khi
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ra đời, chính bang Virginia đã cung cấp ba Tổng thống nổi tiếng
là Thomas Jefferson (1743-1826), James Madison (1751-1826), James Monroe(1758-
1834) và được gọi là" triều đại Virginia" [24, tr. 629]. Sự kiện người định cư đến
Virginia năm 1606 và nhất là sau khi xây dựng thành phố Jamestown năm 1607 về sau
được coi là lịch sử bắt đầu của nước Mỹ: "Lịch sử nước Mỹ bắt đầu từ năm 1607, khi
nước Anh thành lập thành phố Jamestown, quản lý thuộc địa bằng luật pháp, bầu chính

phủ, thống đốc chịu trách nhiệm trước Nữ hoàng" [25, tr. 159].
Tiếp sau Virginia, lần lượt mười hai vùng đất mới suốt dọc ven Đại Tây Dương
đã dần trở thành thuộc địa của Anh quốc. Có nơi được thành lập do vua Anh ban Ân



chiếu, có nơi do vua Anh công nhận sự hiện hữu của thuộc địa, có nơi do Anh chiếm
của Hà Lan, Pháp hay Tây Ban Nha. Đó là:
Tên bang Năm thành lập
Virginia 1624
Massachussettes 1691
Rhode Island 1644
New Hampshire 1670
Connecticut 1662
New Jersey 1664
New York 1674
Pennsyvania 1682
Delawre (ghi chú: New Jersey, Delawre chiếm của Hà Lan) 1702
Bắc Carolina 1729
Nam Carolina 1729
Maryland 1729
Georgia 1732
Nguồn: [15].
Như vậy, sau hơn một trăm năm từ 1607 đến 1732, mặc dù Anh quốc đến sau
Tây Ban Nha và một số nước khác, nhưng đã xác lập được mười ba thuộc địa trên vùng
đất châu Mỹ: "Như thế Pháp không còn mẩu đất nào trên lục địa Bắc Mỹ, một nước
Anh thắng trận và mạnh với một nước Tây Ban Nha rất yếu" [15, tr. 67]. Mười ba bang
nguyên khai này là tiền đề vật chất tự nhiên cần thiết để hình thành quốc gia Hoa Kỳ
sau này.
Về cư dân mười ba thuộc địa của Vương quốc Anh




Trước tiên, do người châu Âu tìm ra châu Mỹ do đó người đến định cư ở các
thuộc địa này là người châu Âu. Người đến định cư ở đây rất đa dạng có người Tây Ban
Nha, người Hà Lan, Pháp, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Đức, ý… Nhưng người Anh là
đông đảo nhất: "Phần lớn dân định cư tới Mỹ vào thế Kỷ XVII là người Anh, nhưng
cũng có cả người Hà Lan, Thụy Điển và Đức, một số tín đồ Tin lành Pháp, và các nhóm
rải rác người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ý" [29, tr. 40]. Điều đó cũng là dễ hiểu vì các
thuộc địa là của Anh nên người Anh đến đây là thuận lợi nhất và có nhiều giao lưu nhất.
Cũng trong thời gian này do vẫn còn duy trì chế độ nô lệ, vì vậy số người định cư còn
bao gồm cả số lượng nhân công nô lệ được mang từ châu Phi đến. Nghiên cứu đặc điểm
này giúp chúng ta giải thích vì sao các định chế chính trị pháp lý của Nhà nước Hoa Kỳ
lại có những nét giống với Anh quốc cũng như giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc đấu
tranh để xây dựng chính quyền liên bang giữa các bang có chế độ nô lệ và các bang
không có chế độ nô lệ. Chúng ta cùng xem xét bảng thống kê sau:
Số người di cư đến vùng thuộc địa Anh ở châu Mỹ đến năm 1780
(Nghìn người)

Nhập cư trước
năm 1700
Nhập cư từ năm
1700 - 1780
Tổng số
Từ châu Âu 395 438 833
Từ châu Phi 344 1.303 1.647
Tổng số 739 1741 2480
Nguồn: [16].
Qua bảng thống kê trên chúng ta có một số nhận xét sau đây:
- Thời kỳ này người định cư chỉ gồm người châu Âu và người nô lệ châu Phi,

chưa có người châu á và châu úc vì vậy các yếu tố chính trị pháp lý văn hóa chịu ảnh
của châu Âu là chủ yếu;
- Người định cư lúc đầu không nhiều và tăng dần cho nên để hình thành cộng
đồng người Mỹ mất trên một trăm năm;



- Số người là nô lệ châu Phi tăng nhanh chóng, điều đó chứng tỏ chế độ nô lệ ở
châu Mỹ và châu Phi vẫn tồn tại và đây là một trong những lý do tạo nên cuộc nội chiến
1861-1865 sau này.
Về lý do và động cơ của những người nhập cư? Tại sao họ lại từ bỏ quê hương,
Tổ quốc vượt đại dương với nhiều hiểm nguy để đến những vùng đất hoàn toàn xa lạ,
hoang dại, và nhiều rủi ro? Có thể đối với riêng từng cá nhân thì sẽ có rất nhiều lý do
khác nhau, nhưng có thể khái quát những động cơ và lý do để những người định cư tại
Mỹ thời kỳ đầu là:
- Những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng, đã tạo ra làn sóng người phải
bỏ quê hương, bỏ nhà cửa để chạy lánh nạn: "Sau năm 1680, nước Anh không còn là
nguồn cung cấp chính của dòng người nhập cư. Hàng nghìn người di tản đã rời lục địa
châu Âu để lánh nạn chiến tranh. Nhiều người rời quê cha đất tổ của họ để thoát cảnh
nghèo đói do sự đàn áp của chính phủ cùng nạn chiếm đất vắng mặt gây ra" [29, tr. 40].
- Do đói kém, thất nghiệp, nợ nần, phải từ bỏ quê hương, tổ quốc tìm kế mưu
sinh
- Do bị đàn áp tôn giáo, truy bức chính trị, áp chế tư tưởng, chán ghét nền cai trị
độc tài của vua chúa và trật tự phong kiến, muốn chạy khỏi châu Âu để tìm tự do, mong
muốn được hành đạo và truyền đạo, mong muốn được thể hiện các ý tưởng chính trị vì một
xã hội mới công bằng tốt đẹp hơn.
Từ những động cơ trên, cộng với sự tôi luyện qua thử thách trên những chuyến
vượt Đại Dương bão tố, thử thách trong những cuộc chiến với người da đỏ, thử thách
trong cuộc khai phá vùng đất hoang dại đã tạo cho những người định cư những tính
cách chung. Đó là tinh thần lạc quan,năng động, ý chí tự lập vươn lên, và sự khát khao

tự do, công bằng, sự mong muốn thiết lập một xã hội mới an ninh và thịnh vượng:
Hầu hết người dân Mỹ cho rằng thời kỳ di cư là giai đoạn anh hùng.
Những người đàn ông và đàn bà thường được cổ vũ bởi ý thức về sứ mệnh
thần thánh hay sự theo đuổi một cuộc sống trọn vẹn và công bằng hơn với cuộc
sống ở châu Âu đã không quản hiểm nguy gian khó vượt Đại Tây Dương, tấn
công vào sự hoang dại, dựng nên các khu định cư đông đúc và thịnh vượng, và



bằng cách nào đó vẫn có thời gian để tạo ra các thể chế tự do mà thậm chí
cho đến ngày nay vẫn là nền tảng của xã hội dân chủ [16, tr. 3].
Tất nhiên, bên cạnh những đức tính tốt đẹp đó, những người định cư còn mang
những tâm lý tiêu cực mà cuộc tranh giành vất vả để mưu sinh tạo nên như chủ nghĩa cá
nhân, tính tự do thái quá, luôn cạnh tranh để chiến thắng hay những mong muốn về
cuộc sống vật chất vô hạn độ: "Hơn một xã hội nào khác, xã hội Mỹ luôn luôn chạy đua
để thích nghi, để giành thắng lợi, Kẻ mạnh nuốt chửng kẻ yếu, đời là cánh rừng rậm,
trong đó khôn thì sống mống thì chết" [32, tr. 39]. Hay như nhà văn Pháp De
Tocqueville trong tác phẩm Luận về nền dân chủ Mỹ viết 1803 đánh giá: ở Mỹ mọi thứ
đều dựa vào mặt vật chất của cuộc sống, sự chiếm hữu của cải và sự thành đạt cá nhân
được đo bằng mức độ giàu sang, tâm lý ấy rất khó tranh khỏi dẫn đến tham lam vô hạn
độ.
Nghiên cứu về những động cơ của những người đến định cư ở Mỹ, cũng như
biết được tính cách của họ mới giúp chúng ta hiểu được cuộc cách mạng Mỹ, cũng như
quá trình những đại biểu của thuộc địa đấu tranh xây dựng hiến pháp Hoa Kỳ. Bởi vì rất
nhiều những tư tưởng những tính cách được phán ánh trong quá trình thảo luận xây
dựng hiến pháp cũng trong nội dung của hiến pháp.Ví dụ quyền tự chủ của các bang,
quyền tự do của người dân được thể hiện ở mười tu chính án đầu tiên.
1.2. Nhu cầu thành lập Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
1.2.1. Cách mạng Mỹ và sự ra đời của chế độ hợp bang
Kể từ năm 1607 đến năm 1829, mười ba thuộc địa của Vương quốc Anh đã

hình thành. Cộng đồng xã hội của mười ba thuộc địa này vận hành khác nhau nhưng
đều có chung hai đặc điểm lớn: Một là, cộng đồng người định cư phải tuân theo pháp
luật của Anh quốc và sự quản lý của Chính phủ Anh: "Mười ba thuộc địa mà người ta
thiết lập ở châu Mỹ dưới một hình thức độc lập khác hẳn thuộc địa cũ, coi như một bộ
phận tách từ chính quốc ra, hoặc do một công ty thương mại của Chính quốc thiết lập nên"
[36, tr. 161]. Còn bộ máy quản lý xã hội ở các thuộc địa thì một số do vua Anh chỉ định,
một số do người định cư bầu nên và được Anh quốc thừa nhận: "Mười ba thuộc địa đầu
tiên là do người Anh cai trị. Luật pháp, cơ cấu tổ chức chính quyền, đời sống văn hóa xã



hội thuộc địa Mỹ chủ yếu mang đặc điểm Anglo - Saxon" [39, tr. 95]. Hai là, các thuộc
địa có tính tự quản cao. Đặc điểm này xuất phát từ những lý do đã phân tích ở trên,
những người đến định cư ở thuộc địa mong muốn cuộc sống tự do đầy đủ hơn ở châu
Âu, muốn thoát khỏi những ràng buộc về chính trị, tư tưởng, tôn giáo của châu Âu, nhất
là của Anh quốc. Chính vì vậy, ở vùng đất mới họ đã cố gắng tổ chức nên những định
chế chính trị pháp lý mới để bảo vệ quyền tự do của họ, cũng như xu hướng thoát khỏi
sự phụ thuộc vào Vương quốc Anh. Hai đặc điểm này tạo ra hai quan điểm, một quan
điểm mong muốn sự che chở bảo hộ của Chính quốc chống lại các cuộc đột kích của
người da đỏ và sự nhòm ngó của Pháp và Tây Ban Nha, một quan điểm lại muốn vươn
lên tự tổ chức chính quyền để giành lấy độc lập.
Anh quốc đã áp dụng nhiều chính sách khắt khe của đối với thuộc địa như
chính sách cấm thuộc địa phát hành tiền giấy năm 1764: "Cũng trong năm 1764, Nghị
viện đã ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy. Nhờ đó các công dân có thể thanh
toán đối với các chủ nợ tại Anh. Một số lớn trong các thuộc địa, nhất là tại phía nam,
cảm thấy mình là nạn nhân trực tiếp của biện pháp này" [15, tr. 91]. Chính sách về thuế
như đạo luật Thuế dán tem (Stemp Atc) năm 1765: "Đạo luật này bắt buộc phải dán các
con niêm vào đủ các thứ giấy tờ, văn kiện người dân không thể thiếu. Các con niêm này
có giá từ nửa pency tới mười bảng Anh. Đạo luật ban hành đã tạo nên một làn sóng
phản đối và kiến nghị với những hành động bất tuân pháp luật kể cả bạo động" [15, tr.

92]. Các chính sách này của chính quyền Anh đã làm cho người dân thuộc địa vô cùng
bất mãn và chỉ chờ cơ hội là bùng nổ thành cách mạng: "Các chính quyền nối tiếp nhau
tại Luân Đôn đã áp dụng những biện pháp tại chỗ xem là hợp lý, nhưng tại các thuộc
địa, chỉ có thể khơi lên ngọn lửa của cuộc nổi dậy. Cho tới lúc này, sự kháng cự chỉ là lẻ
tẻ và không có tổ chức" [15, tr. 93].
Trên đây là những mâu thuẫn xã hội là nguyên nhân của cách mạng Mỹ, nhưng
sẽ là sai lầm và chưa đầy đủ nếu chúng ta không đề cập đến đến các yếu tố và các điều
kiện khác đã trực tiếp khơi nguồn cho cách mạng Mỹ. Đó là sự phát triển về giáo dục,
văn hoá, tôn giáo ở thuộc địa, là sự tiếp thu các tư tưởng chính trị pháp lý tiến bộ của
Thế kỷ ánh sáng. Những tư tưởng tiến bộ này đã trở thành vũ khí lý luận cho những nhà



lập quốc Mỹ, nó đã tạo ra một thế hệ tài năng để sau này trở thành những nhà lập quốc
kiến tạo nên một mô hình chính quyền mới ở nước Mỹ:
Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất tạo nên khoảng cách mỗi ngày một
lớn giữa chính quốc và thuộc địa đó là sự phổ biến một cách hết sức rộng rãi
tại các thuộc địa các tư tưởng và học thuyết cộng hòa hoặc đầy nghi kỵ đối
với tất cả mọi hình thức độc tài và độc đoán của chủ nghĩa quân chủ. Các tác
phẩm của John Milton và John Locke gặp thấy ở đây mảnh đất rất đặc biệt
màu mỡ. Hai bộ khảo luận về chính quyền dân sự của J. Locke nhất là tập hai
được coi là chất chứa mầm mống của Bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ.
Khá nhiều người Mỹ, và cả tầng lớp có học, đã đồng ý với quan điểm táo bạo
của nhà tư tưởng người Anh này: nhiệm vụ cao cả của nhà nước là bảo vệ sự
sống, tự do và quyền tư hữu của mỗi công dân. quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân và nhân dân ủy quyền cho chính quyền. Chỉ là cơ quan được ủy
nhiệm, chính quyền có phận sự thi hành vì quyền lợi của những người ủy
quyền cho mình quyền bính họ đã giao cho mình. Nếu chính quyền vi phạm
những quyền tự nhiên của công dân, những người công dân có quyền và bổn
phận bãi nhiệm [15, tr. 89].

Những tư tưởng này góp phần chuẩn bị chu đáo cho việc xây dựng một chính
quyền về sau : "Một hệ thống chính quyền mà nhà triết học Anh John locke góp phần
xây dựng đã được chuẩn bị một cách chu đáo, tỉ mỉ cho thuộc địa mới. Một trong những
đặc điểm của nó là xóa bỏ được sự tính toán nhằm tạo ra tầng lớp quý tộc cha truyền
con nối" [29, tr. 31].
Do Anh quốc thực hiện nhiều chính sách hà khắc và những đạo luật thuế đánh
vào kinh tế của người của người định cư, nên dân chúng thuộc địa đã bất mãn và nhiều lần
nổi dậy chống lại mẫu quốc. Để phong trào nổi dậy giành được kết quả cao hơn, những
người định cư đã có sáng kiến tổ chức Đại hội thuộc địa lần thứ nhất ngày mùng 5 tháng
9 năm 1774 ở Philadelphia thuộc Pennsylavani. Đại hội có hai quyết định chủ yếu dưới
đây:



Một là, Đại hội gửi kiến nghị của thuộc địa lên Vua và Nghị viện Anh yêu cầu
chấn chỉnh lại các thiệt hại đã gây nên một cách bất công cho các thuộc địa. Kiến nghị
của thuộc địa còn đòi quyền về tự do và tài sản cho người lập nghiệp, quyền ấn định
thuế của các thuộc địa và trong khi chờ đợi nhà Vua bày tỏ thiện chí của mình, Đại hội
ủng hộ việc tái phát động phong trào đòi tẩy chay hàng hóa Anh quốc.
Hai là, Đại hội thành lập Hiệp hội lục địa để dẫn dắt phong trào. Hiệp hội chủ
trương khích lệ những địa phương xóa bỏ những tàn dư của chính quyền Hoàng gia, chủ
trương phát triển kinh tế và công nghiệp, đồng thời chuẩn bị những điều kiện để vũ
trang khi cần: "Họ bắt đầu thu thập các trang thiết bị quân sự và động viên binh sĩ. Và
họ đã thổi bùng công luận nhằm tạo nên nhiệt tình cách mạng" [29, tr.78].
Tuy Đại hội thuộc địa lần thứ nhất chưa đi đến quyết định thành lập một chế độ
độc lập, nhưng rõ ràng đây là một bước chuẩn bị quan trọng về tư tưởng và tổ chức cho
một chế độ trong tương lai.
Khi biết rằng những kiến nghị đòi quyền tự do không được vua Anh chấp nhận,
Đại hội thuộc địa lần thứ hai đã được tổ chức vào ngày 10 tháng 5 năm 1775 tại
Philadelphia bang Pennsylavani. Đại hội đã có hai quyết định quan trọng: Một là quyết

định tiến hành chiến tranh vũ trang với quân đội Anh; và hai là quyết định thành lập
Lực lượng vũ trang lục địa thay cho lực lượng dân quân thuộc địa, đồng thời cử đại tá
Geoge Washington (1732 - 1799) làm Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Mỹ. Dưới sự
lãnh đạo của Washington nhiều trận đánh ác liệt đã nổ ra, thắng có, thua có cuộc chiến
chưa có hồi kết, nhưng có điều được khẳng định là các thuộc địa đã thực sự tách khỏi
Anh quốc và chỉ chờ một tuyên bố chính thức mà thôi: "Vào ngày 10 tháng 5 tức là
đúng một năm sau Đại hội thuộc địa lần thứ hai, một nghị quyết đã được thông qua kêu
gọi ly khai. Lúc này chỉ cần một bản tuyên ngôn theo đúng thủ tục và nghi thức mà
thôi" [29, tr. 81]. Đáp ứng lời kêu gọi đó, một ủy ban gồm năm người do Thomas
Jefferson (1743 - 1826) người bang Virginia đứng đầu đã soạn thảo bản Tuyên ngôn và
được công bố vào ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776, chính thức tuyên bố ra đời một quốc
gia mới, độc lập hoàn toàn với Vương quốc Anh. Về sau ngày 4 tháng 7 năm 1776 được
coi là ngày quốc khánh của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ: "Trên phạm vi rộng lớn, tác phẩm
của Jefferson, Bản Tuyên ngôn độc lập được thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1776 không



chỉ tuyên bố ra của một quốc gia mới mà còn trình bày một triết lý về tự do của con
người, điều đó đã trở thành động lực trong toàn bộ thế giới" [29, tr. 82]. Tiếng vọng về
một tư tưởng tự do và độc lập trong Bản tuyên ngôn này, hơn một trăm năm sau, ngày 2
tháng 9 năm 1945, ở bên kia bờ Thái Bình Dương, lại vang lên một lần nữa trong Bản
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch để khai sinh một quốc gia mới là nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Sau khi tuyên bố độc lập với Anh, những người định cư ở các thuộc
địa đã lập ra nhà nước của mình. Đại hội lục địa lần thứ hai đã hoạt động như một nhà
nước liên bang: "Các điều khoản của Hợp bang được thông qua một cách khó khăn vào
năm 1777, được phê chuẩn còn khó khăn hơn nữa vào năm 1781, đã là những cố gắng
đầu tiên của các thuộc địa trên con đường đi đến một chính quyền trung ương" [15, tr.
121].
1.2.2. Những yếu kém của chế độ Hợp bang và nhu cầu thành lập Chế độ
Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ

Sau khi tuyên bố sự ra đời của quốc gia, chính quyền Mỹ vận hành theo Hiến
pháp lúc đó với tên gọi là Các điều khoản Hợp bang gồm mười ba điều được phê duyệt
và có hiệu lực năm 1781. Theo quy định của Các điều khoản Hợp bang thì Nhà nước
liên bang chỉ có cơ quan lập pháp là Quốc hội mà không có điều khoản nào nói về cơ
quan hành pháp liên bang, không có Tổng thống và cơ quan tư pháp liên bang. Điều đó
nói lên rằng mô hình nhà nước này đã không dựa trên học thuyết chính trị pháp lý nào,
hay nói đúng hơn là không được ánh sáng của một lý thuyết nào về tổ chức nhà nước
soi đường. Quốc hội gồm đại diện của các tiểu bang cử đến, mỗi bang có từ hai đến bảy
thành viên. Quốc hội theo Các điều khoản Hợp bang được trao một số quyền hạn quyết
định một số vấn đề đối với liên bang, nhưng để quyết định có hiệu lực thì hiến pháp lại
quy định phải được đa số tiểu bang đồng ý, mà đại diện các tiểu bang thì khó lòng đồng
thuận, do đó quốc hội rất không hiệu quả: "Hội nghị lục địa (Quốc hội liên bang) có
quyền điều khiển các lĩnh vực ngoại giao, chiến tranh, bưu chính, đúc tiền, và bổ nhiệm
các sĩ quan trong quân đội liên bang. Các quyết định của Hội nghị lục địa muốn có hiệu
lực phải được sự đồng ý của đa số tiểu bang, riêng những quyết định tối quan trọng phải
được sự chấp thuận của chín trên mười ba tiểu bang" [25, tr. 12]. Quốc hội lúc đó được
nhìn nhận: "Như chỉ là một tổ chức tập hợp các đại sứ của các địa phương mà thôi" [44,



tr. 15]. Không có cơ quan hành pháp liên bang nên không ai đứng ra thi hành pháp luật
và bảo vệ hiến pháp. Các thống đốc thì chỉ có quyền hạn trong các tiểu bang. Những
vấn đề cần giải quyết ngay nhanh chóng và hiệu quả thì không có ai đứng ra lãnh trách
nhiệm và thừa hành mà đều chờ đợi quyết định của Quốc hội một cách chậm chạp và
thụ động nên thường lỡ thời cơ. Không có cơ quan hành pháp, không có ai đứng ra gánh
trách nhiệm cụ thể, mô hình chế độ hợp bang rõ ràng đã để trống vắng một khoảng
quyền lực vô cùng cần thiết trong một nhà nước. Còn quyền tư pháp, Chế độ Hợp bang
cũng không có một hệ thống tòa án liên bang để có thể tiến hành xét xử các hành vi vi
phạm hiến pháp và pháp luật. Điều đó nói lên rằng, chế độ Hợp bang đã chưa có đủ tầm
nhìn để thấy được vai trò quan trọng của quyền lực tư pháp. Chế độ hợp bang đã không áp

dụng lý thuyết về phân quyền cũng như không thực hiện cơ chế đối trọng kiểm soát cân
bằng trong các ngành quyền lực nhà nước. Đây là những thiếu sót to lớn mà sau này các
nhà lập quốc Mỹ đã phát hiện ra và đã sửa chữa triệt để trong chế độ cộng hòa Tổng
thống sau này.
Đối với các tiểu bang, theo Điều II của Các điều khoản Hợp bang quy định:
"Mỗi tiểu bang vẫn duy trì chủ quyền, sự tự do và nền độc lập của mình và mọi quyền
khác không giao phó cho quốc hội của Hợp chúng quốc", vì thế, mỗi tiểu bang đều coi
mình giống như một quốc gia đều không chịu nhường quyền lực cho chính quyền liên
bang. Các bang đều đặt quyền lợi trực tiếp của mình lên quyền lợi của liên bang. Các
bang đều có hiến pháp có chính quyền và tự phát hành tiền, có nhiều bang tổ chức quân
đội: "Chín bang đã tổ chức quân đội riêng, một số bang có hải quân riêng. Còn tồn tại
rất nhiều các loại tiền xu và đủ mọi loại tiền giấy của quốc gia và của các tiểu bang, sự
đa dạng ấy khiến người ta phải ngạc nhiên, song tất cả các loại tiền đều mất giá nhanh
chóng" [29, tr. 96].
Về mối quan hệ của chính quyền liên bang với các bang là vô cùng lỏng lẻo,
Liên bang hầu như không thể phối hợp các nỗ lực của các bang với nhau và cũng không
thể đảm bảo thống nhất trong lãnh đạo. Chính quyền liên bang không điều hành dân
chúng trực tiếp mà thông qua chính quyền bang, nhưng lại không có khả năng buộc
chính quyền bang phải tuân theo các quyết định của liên bang. Nhược điểm này đã được
Hamilton (1755-1804) một nhà lập quốc nổi tiếng của Hoa Kỳ chỉ rõ:



Tuy chính phủ Liên Hiệp có quyền trưng dụng nhân lực và tiền tài,
nhưng lại không có thẩm quyền trực tiếp với các cá nhân công dân của Liên
Hiệp. Kết quả là tuy trên phương diện lý thuyết, những quyết định của chính
phủ Liên Hiệp là những đạo luật mà hiến pháp bắt buộc các tiểu bang phải
tuân theo, nhưng trên phương diện thực hành, những quyết định đó chỉ là
những đề nghị để tùy ý các chính phủ tiểu bang thi hành hay bác bỏ [44, tr.
55].

Trên đây là mô hình chính quyền tổ chức theo Điều khoản Hợp bang, mô hình
này đã tỏ rõ vô vàn yếu kém và không hiệu quả, không tạo ra được một chính quyền
trung ương mạnh để đảm bảo an ninh và thịnh vượng chung, cũng không tạo ra được
mối liên kết bền chắc giữa liên bang với các bang cũng như các bang với nhau. George
Washington với cương vị Tổng tư lệnh quân đội lục địa là người thấy rõ nhất những yếu
kém bất cập của chế độ Hợp bang:
Suốt tám năm giữ chức Tổng tư lệnh quân đội lục địa, ông đã từng
chỉ huy mười ba đạo quân đồng minh của các tiểu bang do các tiểu bang này
cung cấp lương thực và trả lương, nhưng chưa bao giờ cung cấp được đầy đủ
số lượng mà Quốc hội Đại lục đòi hỏi. Ngay trong thời kỳ khói lửa và trước
hiểm họa xâm lăng, các tiểu bang cũng rất chậm chạp trong việc đoàn kết
thành một khối thống nhất chính trị [5, tr.11].
Sau này Washington đã thừa nhận:
Chính quyền tổ chức theo bộ luật này đã từng thể hiện sự yếu kém và
thiếu hiệu quả trong thời chiến. Đến thời hòa bình khi các tiểu bang càng ít
phụ thuộc nhau, thì liên minh lỏng lẻo của mười ba tiểu bang thật sự gặp
nguy hiểm. George Warhington nhận xét rằng: các bang chỉ được liên kết với
nhau bằng một sợi dây bằng cát [21, tr. 18].
Một mô hình tổ chức chính quyền như vậy đã tạo ra tình trạng một liên bang
lỏng lẻo, lộn xộn, hỗn loạn và có nguy cơ tan rã:
"Tiền giấy tràn ngập khắp đất nước tạo ra sự lạm phát kinh khủng,
tới mức nửa cân chè ở một vài vùng có thể phải mua bằng số tiền lớn là một



trăm đô la. Tình trạng kinh doanh suy thoái đang lấy đi sinh mệnh của nhiều
nông dân và chủ đất nhỏ. Một số phải vào tù vì nợ nần, và rất nhiều ruộng
đất bị tịch thu hay phải bán để trả thuế. Uy tín nền cộng hòa bị nghi ngờ và
công chúng bắt đầu mất niềm tin vào chính quyền. Hiệp ước với Anh bị cả
hai phía phớt lờ và hầu như không có hiệu lực. Chính quyền Hợp bang cũng

chẳng có uy tín trong con mắt của các nước châu Âu. Đó là một chính thể
cộng hòa đang bị tê liệt. Bất kỳ người dân nào cũng có thể suy đoán về một
kết cục thảm hại sẽ xảy ra [21, tr. 17].
Nguy hại cho Liên bang hơn nữa là bắt đầu có sự nổi dậy của dân chúng, mà
điển hình là cuộc nổi dậy năm 1876, với sự cầm đầu của một cựu đại úy quân đội lục
địa là Daniel Shays. Với tất cả những diễn biến như vậy thì sự sụp đổ của liên bang
giống như cơn giông tố đang lấp ló ở chân trời: "Từ trang trại đồng quê Mout Vernon,
Washington đã viết cho James Madison: tại thời điểm hiện nay, sự khôn ngoan, sự hiểu
biết và các tấm gương tốt là cần thiết để cứu hệ thống chính trị này khỏi cơn bão đang
treo lơ lửng… Tại mỗi tiểu bang đều có những mầm cháy, mà chỉ cần một tia lửa cũng
có thể bùng lên mầm cháy" [21, tr. 17]. Đến lúc này, thực tế chế độ Hợp bang đang
đứng trước hai con đường buộc phải lựa chọn: hoặc là tan rã hoặc là phải thay đổi thì
mới tồn tại được.
Nhận xét về chế độ Hợp bang:
Dưới góc độ lý luận, chế độ hợp bang được xây dựng trên cơ sở hiến pháp 1781
do đó cũng là một điểm cách mạng so với các mô hình nhà nước ở châu Âu, châu á thời
kỳ đó các nhà nước này vẫn là cha truyền con nối. Chế độ Hợp bang dựa vào Hiến pháp
1781 cũng đã hạn chế được sự chuyên chế độc tài vẫn thường xuất hiện trong chính
quyền bằng cách quy định mọi quyết định quan trọng dựa vào sự đồng thuận của các
tiểu bang. Về mô hình nhà nước, do không có hệ thống lý luận soi đường, nên nhà nước
Hợp bang không chú ý xây dựng ngành quyền lực hành pháp và tư pháp và do đó luật
và các quy định của hiến pháp đã không được các bang tôn trọng và thi hành. Về điểm
này Hamliton nhận xét: "Những thất bại mà chúng ta trải nghiệm không phải bắt nguồn
từ vài lỗi nhỏ lẻ nào, mà do những sai lầm căn bản, có tính nguyên tắc trong việc hình
thành chính quyền, và không thể sửa đổi, nếu không có những thay đổi cơ bản nhất về



mô hình chính quyền" [21, tr. 19]. Về mối quan hệ của nhà nước trung ương với các
bang đã không quy định rõ ràng, hay có quy định nhưng lại không có gì để bảo đảm nó

được tôn trọng và thi hành. Nói tóm lại về lý thuyết, mô hình nhà nước Hợp bang tuy
dựa trên hiến pháp, nhưng mô hình đó không áp dụng các lý thuyết phân quyền, không
có một lý thuyết tiến bộ nào được áp dụng trong tổ chức quyền lực nhà nước trung
ương, cũng như trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy đó,
mối liên hệ giữa liên bang với tiểu bang cũng không được xử lý tốt.
Dưới góc độ thực tế: Mô hình nhà nước Hợp bang đã vận hành không tốt. Nhà
nước trung ương đã không đủ quyền, không đủ mạnh, để liên kết sức mạnh của các
bang, thiếu sự lãnh đạo tập trung nhanh chóng và thông suốt nên trong thời chiến gặp
nhiều khó khăn. Trong thời bình, nhà nước trung ương nợ nần chồng chất mà không thu
được thuế, tình trạng một xã hội rối loạn, luật pháp không được thi hành dẫn đến các cuộc
nổi loạn của dân chúng, còn các bang mỗi nơi một giang san cát cứ, không tuân thủ hiến
pháp liên bang. Về đối ngoại các hiệp ước của Hợp bang với các nước khác không được
tôn trọng, có bang còn tiến hành đàm phán riêng với các nước, uy tín của Hợp bang với
quốc tế không còn. Hamilton (1755-1804) đánh giá:
Chúng ta có những lãnh thổ và những tô giới mà ngoại quốc đã cam
kết với chúng ta là sẽ trả lại cho chúng ta và đáng lẽ phải trả lại cho chúng ta
từ lâu rồi. Thế mà hiện nay ngoại quốc còn giữ những lãnh thổ và tô giới đó,
vừa làm thiệt hại tới quyền lợi của quốc gia chúng ta, vừa xâm phạm tới
quyền lực của quốc gia chúng ta. Chúng ta có đủ khả năng để đẩy lùi ngoại
xâm không? Nhưng chúng ta không có quân đội, không có tài chính, mà
cũng không có cả chính phủ nữa (ý muốn nói Chính phủ Hợp bang). Do vị trí
địa lý của quốc gia chúng ta, chúng ta có quyền tự do giao thông trên sông
Mississipi hay không? Nhưng Tây Ban Nha không cho chúng ta hưởng
quyền giao thông đó [44, tr. 52].
Ngoài ra, chúng ta còn thấy rằng, mô hình chế độ Hợp bang do xây dựng và vận
hành trên hiến pháp 1781 là bản hiến pháp rất nhiều yếu kém, không dựa trên một học
thuyết nào, không vận dụng những kinh nghiệm, những bài học lịch sử về xây dựng
chính quyền của các nước trong lịch sử. Như Hamliton đánh giá:




Thứ hiến pháp mà Hamliton, chính trị gia xuất sắc thuộc thế hệ thứ
hai của cuộc Cách mạng Mỹ, sau này trở thành một trong những kiến trúc sư
cho hệ thống chính quyền và kinh tế Mỹ, gọi là một sự khờ dại … và: Quốc
hội Hợp bang chỉ là nhóm chính trị gia có tầm nhìn hạn hẹp, những người dễ
dàng hi sinh mạng sống của binh lính và tương lai của toàn bộ dân tộc bằng
cách lãng phí thời gian trong những cuộc tranh luận vụn vặt, chứ không phải
những nghiên cứu, tranh luận thấu đáo hay suy xét kỹ càng, có tầm nhìn xa,
trông rộng, trong quá trình hình thành chính sách. chính quyền tổ chức theo
bộ luật này đã từng thể hiện sự yếu kém và thiếu hiệu quả trong thời chiến
[21, tr. 18].
Như vậy trên cả phương diện lý luận và thực tiễn nhà nước Hợp bang chưa phải
là nhà nước pháp quyền thực thụ, mà là một nhà nước kém hiệu quả và có nguy cơ sụp
đổ: "Nhiều người Mỹ coi các điều khoản của Liên bang không phân tách này là một sai
lầm" [46, tr. 26]. Hồ Chủ tịch khi nghiên cứu về cách mạng Mỹ cũng đánh giá như sau:
Đối với cách mạng Mỹ, Nguyễn ái Quốc cho rằng trong buổi đầu
Tuyên ngôn độc lập và các điều khoản của Liên bang về quyền con người là
tiến bộ. Song cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, một cuộc cách mạng
không triệt để, Tuyên ngôn độc lập và các điều khoản của Liên bang được
coi là hiến pháp đầu tiên của nước Mỹ, trong đó nói quyền lực tối cao thuộc
về nhân dân nhưng thực tế quyền lực đó rơi vào tay một số ít người, còn đa
số công nông vẫn cực khổ [33, tr. 109].
Tình hình đó làm xuất hiện một nhu cầu cấp thiết và cấp bách là cần một mô
hình chính quyền liên bang mới, vừa hạn chế được căn bệnh độc tài chuyên chế, vừa
hiệu quả, mạnh mẽ, để có thể tạo được an ninh và thịnh vượng chung, cũng như có thể
liên minh bền chặt giữa các tiểu bang trong một quốc gia thống nhất. Trước đòi hỏi như
thế, một hiến pháp mới đã ra đời, và cùng với các điều kiện khác, một chế độ mới được
xây dựng - Chế độ Tổng thống hợp chúng Hoa Kỳ.




1.3. Chế độ Tổng thống Hoa Kỳ là kết quả của sự thỏa hiệp các xu hướng chính
trị; tổng kết các tư tưởng chính trị pháp lý và kinh nghiệm về xây dựng chính quyền
của các quốc gia
1.3.1. Các xu hướng chính trị về xây dựng nhà nước
Như trên đã phân tích, chế độ Hợp bang đã thể hiện rõ ràng tình trạng bất cập,
và nhu cầu thành lập một chế độ mới đã ngày càng trở nên cấp bách. Nhưng bỏ chế độ
Hợp bang thì xây dựng một chế độ mới như thế nào? Vấn đề này đã diễn ra nhiều cuộc
tranh luận giữa các bang, giữa các chính khách và trong công chúng Mỹ. Để giải quyết
nhu cầu này, một đại hội gồm năm lăm đại biểu đến từ các bang được triệu tập tại
Philadelphia bang Pennsilavani vào thứ sáu, ngày 25 tháng 5 năm 1787. Hội nghị này
về sau được gọi là Hội nghị lập hiến. Tại Hội nghị này, ba mô hình chính quyền mới
được đệ trình, và xoay quanh ba mô hình này là hai xu hướng chính trị chủ yếu, tiêu
biểu cho nguyện vọng của các bang và của công chúng cũng như các nhà lập quốc Mỹ.
Tất nhiên thời kỳ này có nhiều xu hướng nhưng có hai xu hướng chính trị chủ yếu là: xu
hướng ủng hộ liên bang và xu hướng phản đối liên bang, hai xu hướng này về sau là nền
tảng cho việc xuất hiện hai đảng lớn ngự trị trên chính trường nước Mỹ cho đến thời kỳ
hiện đại. Ba mô hình chính quyền được đệ trình lên Hội nghị là:
* Phương án Virginia
Phương án này do bang Virginia đệ trình. Phương án có mười năm điểm, dựa
theo Hiến pháp trước đó của bang và có nhiều điểm bổ sung. Trong đó có những điểm
chủ yếu như quyền lực của nhà nước sẽ được phân làm ba ngành quyền lực. Đó là
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, mỗi ngành quyền lực sẽ được cấu
trúc để kiểm soát và tạo thế cân bằng với hai ngành kia. Quyền lập pháp sẽ giao cho
quốc hội gồm hai viện. Quyền hành pháp tức là Tổng thống sẽ được cả hai viện của
Quốc hội bầu chọn. Còn bộ máy của cơ quan tư pháp sẽ bao gồm tòa án các cấp, và các
cơ quan này cũng do cơ quan lập pháp chọn ra. Chính quyền trung ương sẽ được giao
rất nhiều quyền ví dụ chính quyền trung ương có quyền phủ nhận mọi bộ luật mà cơ
quan lập pháp tiểu bang ban hành. Nhìn vào mười lăm điểm của kế hoạch Virginia,
chúng ta thấy đây là một mô hình chính quyền đã áp dụng học thuyết phân quyền, chính




quyền trung ương được tập trung nhiều quyền hành rộng rãi, nhưng quyền hạn của các
tiểu bang không được coi trọng, quyền hạn của công dân chưa được đề cập đến. Những
điểm này đã gây tranh cãi rất nhiều giữa đại biểu của các bang, giữa bang lớn và bang
nhỏ, giữa những người ủng hộ quyền dân chủ của công dân và những người ủng hộ một
chính quyền trung ương hùng mạnh.
* Phương án New Jersey
Phương án do bang New Jersey đưa ra gồm chín điểm. Trong đó những nội
dung chính của kế hoạch này là tăng cường thêm quyền lực cho quốc hội. Quốc hội có
quyền điều hành thương mại trong toàn quốc, quyền thu thuế. Các đạo luật của quốc hội
và những hiệp ước mà quốc hội thông qua sẽ là đạo luật tối cao bắt buộc đối với các
bang. Điểm bốn của kế hoạch này quy định quốc hội có quyền thành lập bộ máy hành
pháp và các viên chức của bộ máy này: "Quốc hội Liên minh chọn lựa bộ máy hành
pháp quốc gia bao gồm một số người giữ chức vụ trong một nhiệm kỳ một số năm, nhận
chính xác một lượng tiền nhất định, tại những thời điểm nhất định, bồi thường cho công
việc của họ" [21, tr. 87]. Theo phương án này quốc hội chỉ có một viện duy nhất, bộ
máy hành pháp sẽ do một nhóm cá nhân lãnh đạo, về quyền tư pháp thì theo điểm ba
của kế hoạch này quy định tòa án liên bang chỉ được trao quyền phúc thẩm. Như vậy
qua những điểm chủ yếu của phương án New Jersey thì mô hình chính quyền mới, chỉ
thay đổi và mở rộng thêm một số quyền mà chính quyền Hợp bang trước chưa có.
Phương án này được các bang nhỏ như New jersey, Delaware, Marylan ủng hộ. Về thực
chất mô hình chính quyền chỉ sửa đổi mô hình nhà nước Hợp bang mà thôi: "Thay vì đề
xuất một mô hình chính quốc gia mới, phương án của Paterson (1745 - 1806) - một đại
biểu của bang New Jersey (tức kế hoạch New Jersey) chỉ là một loạt sửa đổi đối với
Các điều khoản Hợp bang. Các đại biểu từ bang nhỏ đều tập hợp quanh phương án này"
[21, tr. 25]. Nhìn chung phương án Virginia được các bang lớn ủng hộ và cũng được
nhiều đại biểu của hội nghị hưởng ứng. Đánh giá về hai phương án, ông John Lansing
(1754 - 1829), một đại biểu của bang New York nhận xét: "Kế hoạch này (tức phương

án New Jersey) quả thật là một kế hoạch để tu chính lại bản Điều khoản Liên hiệp, còn
kế hoạch của Virginia thì nhằm mục tiêu thay thế Liên hiệp bằng một chính phủ quốc gia"
[5, tr. 62].



* Phương án Hamilton
Đứng trước tình hình, Hội nghị tranh luận gay gắt mà chưa thống nhất để chọn
lựa một mô hình chính quyền mới nào, Hamilton (1755-1804) một thư ký và là bạn của
Warshington, đại biểu của bang New York đã đưa ra một phương án thứ ba. Những
điểm chính của phương án thứ ba là các tiểu bang sẽ không có quyền lực nào ngoài việc
quy định những vấn đề thuộc địa phương, những bang này gần với như là một đơn vị
tỉnh của một quốc gia thống nhất và hùng mạnh. Quốc hội cũng chia làm hai viện nhưng
thượng viện có quyền lực cao hơn hạ viện. Trưởng ngành hành pháp, có một quyền lực
to lớn, giống như một vị quân vương nhưng được bầu theo nhiệm kỳ và theo hành vi
đúng đắn của ông ta, có thể phủ nhận tất cả các dự án luật của quốc hội. Mô hình mà
Hamilton đưa ra, được các đại biểu đánh giá là giống như mô hình chính quyền Anh, ở đó
có một ông vua độc đoán chuyên quyền, điều mà mọi người dân Mỹ vẫn còn lo sợ, do vậy
phương án Hamilton không được các đại biểu hưởng ứng. Nhưng chính Hamilton lại cho
rằng mô hình chính phủ Anh lại là thích hợp ở nước Mỹ: "Ông không lưỡng lự một chút
nào mà đề nghị, nhưng chỉ nhân danh ý kiến riêng của ông mà thôi, rằng chính phủ Anh
là chính phủ hoàn hảo nhất nước Anh và trên thế giới; và ông tin tưởng là không một
chính phủ nào nếu không tương tự với chính phủ Anh lại có thể thích hợp được cho
nước Mỹ" [5, tr. 64]. Phương án mà Hamilton đưa ra tuy không được chấp nhận, nhưng
những ý tưởng và cách đánh giá của ông về mô hình chính quyền Anh, chứng tỏ Ông có
tầm nhìn rộng lớn và sự hiểu biết sâu sắc về các hình thức chính thể. PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung đánh giá: "Anh quốc là quê hương của các chính thể".
Ngoài ba phương án trên, trong quá trình thảo luận các đại biểu còn đưa ra một
số mô hình chính quyền khác như: Chia Liên bang làm mười ba lãnh thổ bằng nhau;
hoặc để một số bang tự liên kết với nhau thành một quốc gia; hoặc soạn thảo một hiến

pháp để những bang tự động muốn tham gia thì ký kết để hình thành liên minh. Nhưng
tất cả các mô hình này đều không được đưa ra thảo luận. Toàn bộ thời gian của hội nghị
dành cho phương án của bang Virginia, và của bang New Jersey. Có rất nhiều xu hướng
chính trị khi tranh luận về hai phương án này, nhưng tựu trung lại có hai xu hướng
chính. Một bên là các bang lớn (Massachusetts, Virginia, Pennsylavania) và một bên là các
bang nhỏ (Marylan, Delaware, New Jersey). Một bên là những người ủng hộ một chính



quyền liên bang mạnh mà đại diện tiêu biểu là Hamliton, một bên là những người muốn
bảo vệ chủ quyền của các tiểu bang và e sợ về một chính quyền mạnh, đe dọa đến quyền
của dân chúng và của các bang, tiêu biểu là Thomas Jefferson (1743-1826), người sau
này làm Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ. Một bên là các bang miền bắc như, New
hampshire, New York, Massachusetts và những người muốn xóa bỏ chế độ nô lệ, một
bên là các bang miền nam như Nam Carolina, Marylan, Delaware và những người muốn
duy trì chế độ nô lệ. Hai xu hướng, đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình thảo luận
để tìm ra một mô hình chính quyền, một chế độ mới để thay thế chế độ Hợp bang. Hai
xu hướng này, mà franklin (1706 -1790) một người được coi là nhà bác học Mỹ, trong
một buổi trò chuyện với bạn ông là Cutler franklin so sánh như một con rắn có hai đầu:
Ông franklin vừa mới nhận được ngày hôm nay con rắn hai đầu
ngâm trong chai rượu. Trong khi hai người nói tới con rắn kỳ lạ này, ông
franklin nói rằng con rắn này chắc chắn bị phiền nhiễu vì khi nó bò trong bụi,
nếu vướng vào một cành cây nào, nó sẽ không biết theo đầu nào và bò sang
phía nào. Chuyện con rắn hai đầu lại làm cho franklin nhớ tới một việc xảy ra ở
Hội nghị lập hiến, khiến Ông ví con rắn hai đầu đó như nước Mỹ [5, tr. 77].
Xu hướng phân đôi này, như trên đã nói, đã ảnh hưởng tới việc hình thành các
đảng phái chính trị ở Mỹ: "Trong buổi thảo luận, đại biểu Wilson đã thể hiện một kiến
thức và trí tuệ về nhà nước đặc biệt xuất sắc về bênh vực một mô hình chính quyền liên
bang mạnh. Nhưng Lansing, tiểu bang New York và Paterson tiểu bang New Jersey kiên
quyết đấu tranh đòi giữ lại quyền của tiểu bang. Sau này, quyền của tiểu bang là một trong

những nguyên nhân chủ yếu hình thành các đảng phái chính trị ở Mỹ" [21, tr. 89]. Hai xu
hướng trong thời kỳ hình thành chế độ Cộng hòa Tổng thống Hoa Kỳ xuất hiện hoàn toàn
không phải do lợi ích của một cá nhân hay một nhóm người nào, mà hình thành là do thực
trạng lúc đó ở nước Mỹ. Các bang không phát triển đồng đều, tình hình kinh tế và
phương thức sản xuất ở các bang là khác nhau, vị trí địa lý và tài nguyên của các bang
cũng khác nhau, dẫn đến quyền lợi khác nhau và hai phe là đại diện cho những quyền
lợi khác nhau đó:
Cuộc xung đột hình thành vào những năm 1790 giữa phái ủng hộ chủ
nghĩa liên bang và phe chống chủ nghĩa liên bang đã có ảnh hưởng mạnh mẽ



tới lịch sử nước Mỹ. Phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang do Alexander Hamliton
lãnh đạo… đại diện cho những quyền lợi thương mại đô thị của các vùng cảng
biển; phe chống chủ nghĩa liên bang do Thomas Jefferson(1743-1826) lãnh
đạo ủng hộ những quyền lợi của nông thôn và của miền nam [29, tr.112].
Hai xu hướng này không chỉ diễn ra trong hội nghị mà ảnh hưởng tới toàn thể
xã hội:
Cũng giống như tại Hội nghị, các chính trị gia và dân chúng trên khắp
cả nước cũng chia thành hai phe: chống bản hiến pháp, chống chế độ Liên
bang, họ chống báng hiến pháp vì cho rằng Hiến pháp chỉ nói đến phân
quyền mà không nói đến nhân quyền và phe ủng hộ bản hiến pháp, ủng hộ
chế độ Liên bang. Quan điểm của những người ủng hộ cũng như chống đối
Hiến pháp được in đi in lại trên tất cả các tờ báo trong cả nước [21, tr. 36].
Hai xu hướng trên cũng góp phần tạo ra các đảng phái chính trị sau này: "Chính
sự ăn thua này dẫn đến sự hình thành trong nước hai mầm mống đầu tiên của các đảng
phái chính trị, ủng hộ chế độ liên bang và chống lại chế độ liên bang" [15, tr. 134].
Những người ủng hộ liên bang tập hợp quanh Hamliton thành lập đảng Liên bang,
những người chống liên bang tập hợp xung quanh Jefferson, thành lập Đảng Cộng hòa -
dân chủ (Đảng này khác với đảng Cộng hòa của Tổng thống Abraham Linconln (1809-

1865) lập năm 1854). Cuộc tranh luận của hai phe diễn ra rất gay gắt trong quá trình xây
dựng hiến pháp và cũng tác động rất lớn đến việc hình thành Chế độ Tổng thống: "Quá
trình thảo luận để đi đến hiến pháp là một quá trình đấu tranh giữa các trường phái tư tưởng
đại diện cho những lợi ích khác nhau, giữa những người chủ trương xây dựng một chính
quyền trung ương mạnh và những người ủng hộ duy trì chế độ quyền hành chủ yếu nằm
trong tay tiểu bang, giữa lợi ích nông nghiệp và lợi ích công nghiệp" [30, tr. 14]. Nội
dung chủ yếu của các cuộc tranh luận đó là chọn mô hình hình chính quyền nào? quyền
lực của liên bang và tiểu bang như thế nào cho phù hợp, làm thế nào để có được chính
quyền trung ương mạnh mà không thôn tính chủ quyền của các bang? Làm thế nào để
giữ được các quyền rộng rãi của công dân vừa giành được từ Anh quốc, vừa tránh được
tình trạng dân chủ thái quá và sự tiếm quyền của các tiểu bang. Hai phe còn đấu tranh
gay gắt về quyền đại diện và cách thức bầu cử hai viện của Quốc hội.

×