MỤC LỤC
trang
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiêm bồi thường do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra
3
1.1 Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
4
1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra
4
1.3 Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 5
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
5
2.1 Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ 5
2.2 Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”
6
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật
của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
7
2.4 Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
7
3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra.9
3.1 Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được
chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
9
1
3.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế
cấp thiết, sự kiện bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị thiệt hại
11
3.3 Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật
13
II. Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Vụ việc thứ nhất
14
2. Vụ việc thứ hai
16
III. Một vài ý kiến nhằm bổ sung và khắc phục những điểm còn thiếu
sót trong quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra
17 – 20
C. KẾT THÚC
Từ viết tắt
BTTH : Bồi thường thiệt hại
BLDS : Bộ luật Dân sự
TAND : Tòa án nhân dân
2
A.MỞ ĐẦU
Hiện nay, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã giúp
giảm thiểu sức lao động, thúc đẩy nền sản xuất phát. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
nó cũng kéo theo sự gia tăng các tai nạn mang tính khách quan đôi khi nằm ngoài
sự chi phối, điều khiển của con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức
khỏe, tài sản… của các chủ thể trong xã hội. Chính những sự vật như máy móc,
phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt
động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc
dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng
vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát
đó.
Trên cơ sở đánh giá sự tiềm ẩn nguy cơ này với sự nhận định mối liên quan giữa
hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật
dân sự đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra. Vậy, nguồn nguy hiểm cao độ là gì ? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được xác định như thế nào ? Và áp dụng các quy
định của pháp luật về vấn đề này có những điểm gì đáng quan tâm ?
B.NỘI DUNG
I .Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
1. Định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiêm bồi thường do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra
3
1.1 Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được ghi nhận tại đoạn 1 khoản 1 Điều
623 BLDS 2005; trên cơ sở này, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/200, qui định rõ: “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao
gồm phương giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp
đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các
nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”
Từ định nghĩa trên, nhận thấy pháp luật không đưa ra khái niệm tổng quát về
nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ định nghĩa dưới dạng liệt kê. Tuy nhiên, nếu căn
cứ vào tính chất của sự vật như mức độ nguy hiểm cũng như khả năng kiểm soát
của con người đối với sự vật đó, có thể hiểu: “ Nguồn nguy hiểm cao độ là những
vật chất nhất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại
cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối.” Ví dụ
phương tiện giao thông vận tải cơ giới bao gồm phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không ,... là nguồn nguy hiểm cao
độ. Những trang thiết bị điện như: máy biến áp, đường dây tải điện, đèn cao áp, ...
cũng nằm trong danh mục nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định tại khoản 1
Điều 623 BLDS 2005. Ngoài ra, cũng theo quy định tại điều luật này, thú dữ như
hổ, báo, sư tử,... các loại vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao; nhà máy công nghiệp
nặng, công nghiệp nhẹ; thuốc nổ, pháo, thuốc súng; chất độc bảng A, chất phóng
xạ;... đang trong quá trình vận hành cũng được liệt kê vào danh sách nguồn nguy
hiểm cao độ.
1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Các quy định về trách nhiệm BTTH mới được quy định một cách chi tiết bắt
đầu từ BLDS 1995. Tiếp đó, BLDS 2005 hoàn thiện hơn nữa các quy định về trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, cụ thể được quy định tại Điều 604 BLDS 2005.
Trên cơ sở tại khoản 2 Điều 604 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp
4
pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không
có lỗi thì áp dụng quy định đó’’, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chính
là một trong những trường hợp được pháp luật quy định. Bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho
người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi.
1.3 Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp
BTTH ngoài hợp đồng, do đó ngoài những đặc điểm chung thì BTTH do nguồn
nguy hiểm cao độ cũng có những đặc điểm riêng.
+ Thứ nhất, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trường hợp BTTH do
tài sản gây ra. Tức là thiệt hại xảy ra có nguyên nhân chính được xuất phát từ tài
sản mà không phải là hành vi của con người.
+ Thứ hai, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải là trường hợp người bồi
thường phải bồi thường cho người bị thiệt hại ngay cả khi mình không có lỗi. Đây
là điểm khác biệt rất cơ bản với bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây
ra.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
2.1 Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi chủ thể trong xã hội và các
quan hệ pháp luật. Việc gây thiệt hại trái pháp luật là những thiệt hại do sự hoạt
động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật không cho phép. Những thiệt
hại về quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể trong xã hội do chính sự hoạt động
của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.Thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân
5
nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý
nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do
“tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng
nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ,
hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như: xe ô tô
đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại;
cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật.
Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép
không thể coi là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy
hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái
pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên
đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và
ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc
do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói
tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là
trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao
độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.2 Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho
bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên
quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao
động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ
6
phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người
bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ
sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra
thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm
cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản,
tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại
chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động
của nguồn nguy hiểm cao độ.
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn
nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên
nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt
động của nguồn nguy hiểm cao độ. Mối quan hệ nhân quả này chính là cơ sở xác
định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
2.4 Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra.
Khi có việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả
trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách
nhiệm bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3
Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có
lỗ, trừ các trường hợp sau đây.
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
7
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy
đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy
hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm
ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con
người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không
áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói
chung. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không
loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông
giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông
giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định
đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không
được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được
mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao
độ.
Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn
nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt
hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không
có lỗi của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều
khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi
xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan
nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi
của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
8
3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra.
Căn cứ vào khoản 2, 3, 4 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể
sau:
- Chủ sở hữu;
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Điều 165 Bộ luật dân sự quy
định nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ sở hữu được thực hiện mọi
hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc
làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác”. Khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trước tiên
người ta nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích
chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vì vậy, trách nhiệm bồi thường
trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được
trách nhiệm thuộc về người khác. Chúng ta có thể xem xét các trường hợp sau:
3.1 Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở
hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
Đoạn 2 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 đưa ra quy định: “ Chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.”
Trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ mà nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức
khỏe cho người khác, dù có lỗi của chủ sở hữu trong việc sử dụng, quản lý, trông
9
coi nguồn nguy hiểm cao độ hay không thì căn cứ khoản 2 Điều 623 BLDS 2005
cũng như khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở
hữu hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại.
Nếu chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao cho người khác theo ý chí của mình theo các giao dịch dân sự như cho thuê,
cho mượn hoặc chuyển giao theo nghĩa vụ lao động… thì theo quy định tại khoản
2 Điều 623 BLDS 2005 và được cụ thể hóa trong khoản b Điều 2 Mục III Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, những người được chuyển giao quyền phải chịu
trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa
thuận khác.
Tuy nhiên, có thể thấy, trong một số trường hợp chủ sở hữu chuyển giao
nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng trên thực tế, chủ sở hữu vẫn có
quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi đó, mặc
dù không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức
chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài
sản. Do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm đã được chủ sở hữu giao cho người khác
thì cần “ phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy
hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay
không để xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại “theo tinh thần
tại khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ví dụ : Chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo hợp đồng
10
lao động thì trong trường hợp này, người được chuyển giao nguồn nguy hiểm cao
độ là những người làm công, ăn lương, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để thực
hiện nghĩa vụ lao động. Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đang
trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm
bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Còn nếu, người làm công đang chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà gây tai nạn nhưng không nằm trong thời gian
thực hiện nghĩa vụ lao động thì người làm công phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005.
Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng sự chuyển
giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và chủ yếu thường
thông qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn... thì khi có thiệt hại xảy ra
trên thực tế do hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì căn cứ
khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường.. Ví dụ: chủ
sở hữu xe máy biết người thuê xe của mình chưa có giấy phép lái xe nhưng vẫn
cho thuê và trong quá trình bên thuê sử dụng xe máy đã mất phanh gây ra thiệt hại.
Trong trường hợp này, chủ sở hữu chiếc xe máy ( bên cho thuê ) sẽ phải bồi
thường thiệt hại
3.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp
thiết, sự kiện bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị thiệt hại :
Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả
khi không có lỗi. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của các chủ thể này sẽ không
11
được đặt ra trong một số trường hợp như: tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng
hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
“ Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang
thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của
mình hoặc của người khác mà không con cách nào khác là phải gây một thiệt hại
nhỏ hơn cần ngăn ngừa.” Để bảo vệ một lợi ích khác lớn hơn, để tránh những thiệt
hại lớn hơn có thể xảy ra, pháp luật dân sự Việt Nam tại khoản 3 Điều 623 quy
định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết thì không
phải bồi thường.
Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện phát sinh bất ngờ, đột xuất, nằm
ngoài ý thức, sự kiểm soát và lường trước của con người nói chung và của chủ sở
hữu, người được chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nói
riêng. Trong tình huống bất khả kháng, con người chỉ có thể lựa chọn cách một
cách xử lí nhất định nhằm giải quyết, khắc phục tương đối ổn thỏa nhất sự kiện đó.
Đồng thời, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng nằm ngoài tầm kiểm
soát của con người, do đó để đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu, người được
chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, khoản 3 Điều
623 BLDS 2005 quy định trường hợp này những chủ thể này không phải chịu trách
nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, theo khoản c Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng
dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, đối với trường hợp thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả
kháng mà những văn bản pháp luật khác vẫn yêu cầu trách nhiệm bồi thường do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại lúc này phải áp
dụng theo các quy định tại các văn bản pháp luật đó.
12
Lỗi không phải điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Tuy
nhiên, nếu lỗi xuất phát từ phía người bị thiệt hại, thì trách nhiệm bồi thường sẽ
không đặt ra cho chủ sở hữu hay người được chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005. Ví dụ: Xe máy đang tham gia giao
thông thì bất ngờ có người lao vào xe với ý định tự tử thì khi người này bị thương
nặng hay thậm chí tử vong, chủ sở hữu hay người đang trực tiếp điều khiển xe lúc
đó không phải bồi thường.
3.3. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật :
Chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi chiếm
hữu không có những căn cứ pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS 2005 như
chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua giao dịch dân sự vi phạm
các điều kiện có hiệu lực theo Điều 122 BLDS 2005; nguồn nguy hiểm cao độ có
được do trộm, cướp, hoặc các hành vi chiếm đoạt tài sản khác; ... Khi nguồn nguy
hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, khoản 4 Điều 623 BLDS 2005
và khoản d Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định thành
hai trường hợp sau :
Thứ nhất, “ Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc
để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các
quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
13
theo đúng quy định của pháp luật)” Như vậy, nếu nguồn nguy hiểm cao độ bị
chiếm hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp luật bao gồm trộm, cướp hoặc các
hình thức chiếm đoạt tài sản khác ví dụ như xe máy có được do trộm cắp, tàu
thuyền cướp được ... thì khi thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ thì người
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm
bồi thường.
Thứ hai, “ Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.” Quy định
này được hiểu là nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã không thực
hiện đúng các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ dẫn đến việc nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật. Trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra ngoài nguyên nhân chính là do hoạt
động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ còn có lỗi của chủ sở hữu cũng như có
dấu hiệu chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật. Do đó, việc
xác định trách nhiệm pháp lý liên đới được phát sinh trong trường hợp này là chính
xác, hợp lý.
II. Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Vụ việc thứ nhất
Nguyễn Văn Nam là người lái xe ôtô 3 tấn chuyên chở hàng đi giao cho các đại
lí hàng tạp hóa ở thành phố Vinh, một hôm anh Nam đang đi trên đường Quang
Trung với tốc độ 60km/h, bỗng nhiên trên đường giao thông có một người đang
chạy ra từ 1 nhà dân thẳng ra đường ngay trước mũi xe của anh và đứng im
không hề có ý định né tránh chiếc xe của anh với mục đích tự tử, anh Nam thấy
14
vậy liền đột ngột kéo phanh để hãm tốc độ xe lại nhưng vừa mới phanh xe nhưng
không kịp theo đà di chuyển xe tiến nên đâm thẳng vào gây ra cái chết cho chị
Đào Thu Hương. Được tin báo con chết gia đình chị Hương bắt anh Nam là phải
đền bù thiệt hại cho gia đinh về cái chết của chị Hương 70 triệu bằng không gia
đình sẽ kiện anh ra tòa. Qua lời kể của những người bán hàng chứng kiến ở đấy
anh được biết Hương là người cư trú tại nơi xẩy ra vụ việc, thời gian trước khi tai
nạn Hương có cãi cọ to tiếng với ba mẹ “ba mẹ không cần đứa con này thì con
cũng không muốn sống nữa.” Hương đã phi thẳng ra đường. Nghe được kể như
vậy anh Nam nghĩ mình không có lỗi trong việc này nên không bồi thường. Gia
đình chị Hương đã kiện anh ra tòa.
Nhận xét về vụ việc.
Ở đây anh Nam không phải bồi thường thiệt hại cho gia đình chị Hưởng bởi cái
chết của chị Hương là do lỗi cố ý của chị Hương, cố tình lao vào xe ôtô của anh
để tự tử. Ở đây chiếc xe ôtô là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng vấn đề bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ không được đặt ra. Bởi theo khoản 3 điều
623 BLDS “. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các
trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Theo như khoản này thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại
mà cụ thể là ở đây là chị Hương, còn anh Nam không có lỗi gì anh vẫn đi đúng
tốc độ và làn đường cho xe không hề vi phạm pháp luật về giao thông. Anh Nam
sẽ không phải bồi thường cho cái chết chủa chị Hương. Theo như hướng dẫn tại
nghị quyết số 03/HDTP năm 2006 quy định và hướng dẫn cụ thể đối với trường
hợp này “Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
15
- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; Thực tế đã có nhiều trường
hợp tự tử bằng cách lao vào xe ôtô đang lưu thông trên đường, chính vì vậy việc nghị quyết số
03 đưa ra ví dụ hướng dẫn việc này để dễ dàng cho việc áp dụng xử lý vụ việc 1 cách chính
xác.
2 Vụ việc thứ hai
Lúc 21g15 ngày 16/6/2007, anh Trần Hữu Cường điều khiển xe máy chở vợ là
Lương Thị Qui đi trên đường Nguyễn Văn Linh, phường Phú Lâm (TP Tuy Hòa).
Do vừa chạy xe vừa mải mê nói chuyện với vợ, nên xe máy của anh Cường lấn
sang phần đường bên trái, tông vào xe máy do anh Phạm Hồng Ngà đang lưu
hành ngược chiều. Vụ tai nạn khiến cho anh Ngà bị thương tích nặng, mù hai
mắt, tỉ lệ thương tật do Tổ chức Giám định pháp y tỉnh Phú Yên kết luận là 97%.
Sau khi khám nghiệm điều tra tại hiện trường, Công an TP Tuy Hòa xác định
nguyên nhân vụ tai nạn hoàn toàn do lỗi của anh Trần Hữu Cường. Do đó, anh
Cường bị truy tố, xét xử về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện
đường bộ.
Do người bị hại trong vụ tai nạn giao thông này là công nhân hàn gò
bậc 3/7, đang làm việc tại Công ty Công nghiệp tàu thủy Phú Yên với mức
lương mỗi tháng 1.247.000 đồng, nên ngoài việc yêu cầu bồi thường chi phí
điều trị thương tích cho nạn nhân tại các bệnh viện, vợ anh Ngà là chị
Nguyễn Thị Tính còn yêu cầu bồi thường các khoản mất thu nhập của nạn
nhân trong thời gian nằm viện, tiền công chăm sóc người bệnh, tiền tổn thất
tinh thần, chi phí tái phẫu thuật tại TP Hồ Chí Minh với tổng cộng hơn 104
triệu đồng. Ngoài các khoản nêu trên, đại diện bị hại còn yêu cầu người gây
tai nạn và người có trách nhiệm liên đới phải bồi thường theo mức thu nhập
tiền lương mỗi tháng anh Ngà đang hưởng 1.247.000 đồng và tiền công
người chăm sóc mỗi tháng 800.000 đồng cho đến khi nạn nhân qua đời.
* Giải quyết của tòa : bản án sơ thẩm số 57/2008/HSST ngày
16/6/2008 của TAND TP Tuy Hòa xử phạt bị cáo Trần Hữu Cường 9 tháng
16
tù. Về dân sự, buộc Cường bồi thường cho anh Ngà hơn 104 triệu đồng thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; bồi thường mức thu nhập tiền lương
cho anh Ngà mỗi tháng 1.247.000 đồng, tiền công người chăm sóc anh Ngà
mỗi tháng 800.000 đồng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi
anh Ngà chết.
* Bình luận : Trong vụ án nêu trên, việc TAND TP Tuy Hòa xác định
trách nhiệm BTTH của anh Cường là BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra (ở đây là chiếc xe máy) là đã có sự nhầm lẫn giữa bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật của con người gây ra liên quan đến nguồn nguy hiểm
cao độ với bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Ở đây,
anh Cường đã có hành vi vừa chạy xe vừa mải mê nói chuyện với vợ, nên xe
máy của anh Cường mới lấn sang phần đường bên trái, tông vào xe máy do
anh Phạm Hồng Ngà gây tai nạn. Thiệt hại xảy ra ở đây hoàn toàn do hành
vi trái pháp luật của anh Cường chứ không phải do hoạt động nội tại của
nguồn nguy hiểm cao độ là chiếc xe máy gây ra. Vì vậy, trong vụ việc này
cần xác định trách nhiệm BTTH của anh Cường là trách nhiệm BTTH thông
thường do hành vi trái pháp luật của con người, áp dụng các điều 608, 609
BLDS để xác định trách nhiệm BTTH.
III. Một vài ý kiến nhằm bổ sung và khắc phục những điểm còn
thiếu sót trong quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra :
1.Về định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ.
Quy định trong Khoản 1 Điều 623 theo hướng liệt kê, dẫn đến tình trạng
không bao quát hết được các nguồn nguy hiểm cao độ tòn tại trên thực tế, gây khó
17
khăn trong việc áp dụng luật. Vì vậy, trong điều 623 không nên định nghĩa nguồn
nguy hiểm cao độ theo hướng liệt kê mà chỉ cần xác định tiêu chí chung để được
coi là nguồn nguy hiểm cao độ như tính nguy hiểm, tính gây thiệt hại tiềm tàng…
của chúng.
2. Về điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.
Hiện nay chưa có quy định nào phân định cụ thể: khi nào áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng
không thống nhất trên thực tế. Nhiều trường hợp, tòa án thấy thiệt hại có liên quan
đến nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người hay do
tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Đây chính là sự mâu thuẫn trong áp dụng
pháp luật. Vì vậy, cần có quy định rõ ràng về việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại là do sự tác động tự
thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
3. Về chủ thể chịu trách nhiệm BTTH
Cần phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm
cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, cụ thể là trường hợp chuyển giao theo
quan hệ lao động và chuyển giao theo quan hệ dân sự như sau :
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác theo
nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong quá trình
người lao động quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ được giao
thì trách nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu
18
người được giao quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động
nhưng lại sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ vào mục đích khác không theo nhiệm
vụ mà gây thiệt hại thì họ phải tự chịu trách nhiệm.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm
hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên
khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm
bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật, bên mượn, thuê, nhận cầm
cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử
dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn
nguy hiểm cao độ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm
hữu, quản lý của họ thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Ta có thể thấy một ví
dụ cụ thể và rõ nhất cho vấn đề này là việc gửi giữ ô tô ở các nhà hàng, khách sạn,
quán caffee… hiện nay, khi các nhà hàng, khách sạn yêu cầu khách đưa cả chìa
khóa xe để nhân viên đưa xe vào bãi. Nếu trong quá trình xe di chuyển vào bãi mà
gây thiệt hại, chiếu theo quy định về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ hiện nay,
rất khó khăn để xác định chủ thể phải bồi thường thiệt hại.
4. Hiện nay trách nhiệm bồi thường nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên
chưa được đặt ra. Mặc dù những tài sản tự nhiên như vậy được quy định là thuộc
sở hữu của nhà nước (theo điều 17 Hiến pháp 1992) nhưng trên thực tế không có
văn bản nào quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ là tài sản của nhà nước gây ra, vì vậy quyền lợi hợp pháp
của người bị thiệt hại không được đảm bảo. Do đó cần phải bổ sung những văn bản
pháp lí quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước hoặc các bộ
ngành liên quan trong trường hợp thiệt hại cho chủ thể do nguồn nguy hiểm cao độ
19
trong tự nhiên gây ra, quy định cụ thể mức độ và trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước trong trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng như:
trưng dụng, tạm giữ…
5. Cần một số biện pháp giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức pháp luật
của người dân về nguồn nguy hiểm cao độ cũng như những thiệt hại mà nó có thể
gây ra để có biện pháp phòng tránh. Vẫn biết những thiệt hại đó nằm ngoài sự kiểm
soát của con người nhưng nếu mỗi người đều có trách nhiệm với tài sản của mình
như bảo quản, sử dụng cẩn thận, thường xuyên kiểm tra… thì sẽ phần nào giảm bớt
được nguy cơ thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Đồng thời, nên mở các
lớp tập huấn cho các cán bộ tư pháp, hướng dẫn chi tiết cách thức xác định thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và áp dụng nguyên tắc xác định chủ thể nào
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp để tránh xảy ra
những sai sót không đáng có trong quá trình xét xử, đảm bảo quyền lợi hợp pháp
của các bên chủ thế.
C. KẾT THÚC
Xác định thiệt hại do tài sản gây ra nói chung và thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra nói riêng luôn là một vấn đề hết sức phức tạp bởi cho đến nay,
BLDS và các văn bản hướng dẫn khác chưa thực sự quy định rõ. Với khả năng
tiềm ẩn gây thiệt hại cho con người, môi trường xung quanh, vần đề bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là vấn đề quan trọng đòi hỏi các nhà
làm luật phải tiếp tục hoàn thiện các quy định thống nhất để việc áp dụng được
20
chính xác, cụ thể, bảo vệ một cách đầy đủ và toàn diện quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị thiệt hại. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra sẽ phần nào nâng cao hơn ý thức của chủ
sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
hợp pháp trong việc sử dụng, vận hành tài sản là nguồn nguy hiểm của mình, nhằm
giảm bớt những thiệt hại đáng tiếc về người và của có thể xảy ra.
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2006.
2.
Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập hai, TS.Lê Đình
Nghị(chủ biên), Nxb. Giáo Dục.
3.
Bộ Luật Dân Sự 2005, Nxb. Lao Động - Xã Hội.
4.
Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số
03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
5.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và
tính mạng, TS. Phùng Trung Tập, Nxb. Hà Nội, 2009.
6.
Tìm hiểu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, Lê Phước Ngưỡng, Tạp chí Kiểm
sát số 1/2005.
7.
Các trang thông tin điện tử
22
BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 26
Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
23