Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Trách nhiệm vật chất trong luật lao động Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.32 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ HƯỜNG




TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT TRONG LUẬT LAO
ĐỘNG VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOÀN THIỆN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ HƯỜNG



TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT TRONG LUẬT
LAO ĐỘNG VIỆT NAM - THỰC TRẠNG
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN


Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HỮU CHÍ



Hà Nội - 2010

2

MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KỶ LUẬT LAO ĐỘNG VÀ
TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT 10
1.1. Khái niệm kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất. 10
1.1.1. Khái niệm kỷ luật lao động 10
1. 1. 2. Khái niệm trách nhiệm vật chất 14
1.2. Sự cần thiết quy định trách nhiệm vật chất trong luật lao động 23
1.2.1. Đảm bảo và củng cố mối quan hệ hài hòa, ổn định của các bên
trong quan hệ lao động 23
1.2.2. Đảm bảo lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên tham gia quan
hệ lao động 25
1.3. Điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm vật chất trong quan hệ lao
động 26
1.3.1. Phạm vi, đối tượng điều chỉnh 26
1.3.2. Căn cứ áp dụng trách nhiệm vật chất 27
1.3.3. Xác định mức bồi thường và cách thức thực hiện bồi thường 31
1.3.4. Trình tự, thủ tục áp dụng trách nhiệm vật chất 36
1.3.5. Giải quyết tranh chấp 38
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT THEO PHÁP LUẬT
LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM 40
2.1. Lược sử hình thành và phát triển quy định pháp luật lao động về
trách nhiệm vật chất ở Việt Nam 40

3
2.2. Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm vật chất 44
2.2.1. Căn cứ áp dụng trách nhiệm vật chất 45
2.2.2. Xác định mức bồi thường và cách thức thực hiện bồi thường 50
2.2.3. Trình tự, thủ tục và thời hiệu áp dụng trách nhiệm vật chất 57
2.2.4. Giải quyết tranh chấp 65
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT TRONG

LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 72
3.1. Yêu cầu hoàn thiện 72
3.1.1. Bảo đảm và mở rộng quyền quản lý lao động của người sử dụng
lao động trong mối tương quan với bảo vệ quyền lợi người lao động 74
3.1.2. Tăng cường đảm bảo trật tự kỷ cương của Nhà nước và xã hội
trong lĩnh vực lao động 77
3.1.3. Đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế 79
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện trách nhiệm vật chất 82
3.2.1. Về mức bồi thường và cách thức thực hiện bồi thường 84
3.2.2. Về việc phân chia bồi thường thành hai trường hợp 90
3.2.3. Về hợp đồng trách nhiệm 92
3.2.4. Về vấn đề thời hiệu xử lý trách nhiệm vật chất 94
4.2.5. Những quy định về giải quyết khiếu nại kỷ luật lao động và trách
nhiệm vật chất. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100




4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một trong
những mục tiêu quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế đất nước ta. Từ
Đại hội lần thứ VII đến lần thứ IX của Đảng đều nhấn mạnh chủ trương phát
triển kinh tế này. Báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Đường lối kinh

tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa Ngoài ra, Đảng ta cũng khẳng định chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 là chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp [13].
Kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất là một trong những vấn đề
thực tiễn gắn liền với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để
thực hiện được quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có những
người lao động có tác phong công nghiệp. Không thể sử dụng người lao động
vô kỷ luật, vô tổ chức, không có tác phong công nghiệp để thực hiện và sử
dụng công nghệ hiện đại. Do đó, tác phong công nghiệp là một yêu cầu tất
yếu đối với người lao động trong xã hội công nghệ hiện đại. Nó đồng thời còn
được xem như là một trong những nhân tố quan trọng góp phần đem lại thắng
lợi của công cuộc xây dựng đất nước. Để có được tác phong công nghiệp,
việc tuân thủ kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất của người lao động giữ
một vai trò quan trọng. Chính việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về
kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất sẽ tạo và rèn luyện cho người lao

5
động có được tác phong làm việc công nghiệp. Các quy định về thời gian làm
việc, các quy tắc và trật tự trong quá trình làm việc sẽ dần buộc người lao
động tuân thủ đúng kỷ luật lao động, tạo cho họ thói quen chấp hành kỷ luật.
Trên cơ sở đó, người lao động sẽ làm tốt nhiệm vụ được giao.
Vấn đề thiệt hại trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật lao
động nói riêng là một vấn đề hết sức nhạy cảm vì nó liên quan trực tiếp đến
những lợi ích vật chất thiết thân của các bên. Trong chế độ trách nhiệm bồi
thường của luật lao động thì trách nhiệm vật chất là một nội dung tương đối
quan trọng. Đây là trách nhiệm của người lao động phải bồi thường thiệt hại

cho người sử dụng lao động khi họ có hành vi vi phạm kỷ luật và gây thiệt hại
về tài sản cho người sử dụng lao động. Trách nhiệm vật chất có liên quan, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống người lao động cũng như vấn đề tổ chức lao
động sản xuất của các đơn vị sử dụng lao động. Vì vậy, pháp luật lao động
cần có những quy định chặt chẽ nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động,
đồng thời đảm bảo quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người sử dụng lao động
thuộc mọi thành phần kinh tế; thông qua đó góp phần ổn định sản xuất xã hội
và là vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều hòa mâu thuẫn về lợi ích của
các bên.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, người lao động đem
sức lao động của mình làm việc cho người sử dụng lao động và phải tuân theo
sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động thông qua việc thuê mướn,
sử dụng lao động nhằm thu được những giá trị mới lớn hơn – lợi nhuận. Do
vậy, mục tiêu đạt được lợi ích tối đa luôn là động lực trực tiếp của các bên
nên giữa họ khó có thể thống nhất được các quyền và nghĩa vụ trong quá trình
thực hiện quan hệ lao động. Những lợi ích đối lập này giữa người lao động và
người sử dụng lao động sẽ trở thành mâu thuẫn, bất đồng nếu hai bên không
dung hoà được quyền lợi của nhau.

6
Kể từ khi ban hành Bộ luật lao động đến nay, vấn đề về bồi thường
thiệt hại theo trách nhiệm vật chất đã được quy định tương đối đầy đủ. Tuy
nhiên, còn nhiều điểm bất cập chưa phù hợp với thực tiễn nên đã gây ra nhiều
khó khăn khi áp dụng trên thực tế. Mặt khác, còn nhiều vấn đề hiện nay chưa
được đề cập đến nhưng thực tế giải quyết tranh chấp ở Tòa án đang gặp phải.
Thêm vào đó là sự hiểu biết pháp luật của người lao động còn hạn chế và sự
mâu thuẫn về lợi ích như đã nêu ở trên là những nguyên nhân dẫn đến sự sai
phạm trong việc xử lý bồi thường trong thời gian qua ở các doanh nghiệp.
Xuất phát từ tầm quan trọng của trách nhiệm vật chất đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đời sống của người lao động;

xuất phát từ tính cấp thiết phải làm rõ các quy định của pháp luật về trách
nhiệm vật chất; với mong muốn tìm hiểu, phân tích nguyên nhân thực trạng
và góp ý làm hoàn thiện hơn pháp luật về trách nhiệm vật chất; tôi mạnh dạn
chọn đề tài “Trách nhiệm vật chất trong luật Lao động Việt Nam - thực trạng
và phương hướng hoàn thiện” làm đề tài cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các công trình nghiên cứu về các chế định của pháp luật lao động Việt
Nam như hợp đồng lao động, tranh chấp lao động, giải quyết tranh chấp lao
động, đình công, tiền lương đã được thực hiện khá nhiều. Tuy nhiên, nghiên
cứu sâu vấn đề về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất lại không nhiều.
Vấn đề về trách nhiệm kỷ luật lao động đã được quan tâm hơn song vấn đề về
trách nhiệm vật chất lại chưa được quan tâm đúng mức.
Giáo trình Luật Lao động của một số trường đại học có viết về trách
nhiệm vật chất như giáo trình Luật lao động của Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2009; giáo trình Luật lao động Việt Nam của trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn năm 1995; giáo trình luật Luật lao động của Đại học Huế (hệ từ
xa) năm 2003. Song, với tư cách là một nội dung trong chế định về kỷ luật lao

7
động thì trách nhiệm vật chất mới chủ yếu được đề cập đến với những vấn đề cơ
bản nhất về khái niệm và nội dung theo quy định của pháp luật hiện hành.
Một số bài viết mang tính chất nghiên cứu trao đổi và các luận văn thạc
sỹ, các luận án tiến sỹ, tuy có đề cập đến trách nhiệm vật chất nhưng lại
thường gắn với trách nhiệm kỷ luật lao động như “Pháp luật về kỷ luật lao
động ở Việt Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” luận án Tiến sỹ
của Trần Thị Thúy Lâm, “Chế độ kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất
trong luật lao động Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” luận văn
thạc sỹ của Đỗ Thị Dung, “Một số vấn đề cơ về kỷ luật lao động trong Bộ luật
Lao động” của Nguyễn Hữu Chí đăng trên tạp chí luật học số 2/1998, “Khái
niệm và bản chất pháp lý của kỷ luật lao động” của Trần Thị Thúy Lâm đăng

trên tạp chí Luật học số 9 năm 2006
Nhìn chung, các bài viết và luận văn đã nêu lên một số khía cạnh khác
nhau của trách nhiệm vật chất. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu
hệ thống và toàn diện về trách nhiệm vật chất, những vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng cũng như những giải pháp tổng thể để hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm vật chất ở Việt Nam.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm
vật chất, thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm vật chất hiện hành, từ
đó dựa trên quan điểm định hướng cơ bản của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa lao động, quan hệ lao
động đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm vật chất ở
nước ta hiện nay.
Mục đích trên được cụ thể trong việc khái quát những nhiệm vụ chính
của luận văn là:

8
Thứ nhất, nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định của
pháp luật lao động Việt Nam liên quan đến trách nhiệm vật chất. Làm sáng tỏ
cơ sở lý luận của vấn đề trách nhiệm vật chất trong kỷ luật lao động và làm
nổi bật vai trò quan trọng của trách nhiệm vật chất đối với doanh nghiệp. Trên
cơ sở đó, so sánh với pháp luật lao động về trách nhiệm vật chất của một số
nước trên thế giới.
Thứ hai, nghiên cứu rõ các quy định của pháp luật lao động về trách
nhiệm vật chất và tình hình thực hiện các quy định này của pháp luật.
Thứ ba, thông qua việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng để đưa ra các
đánh giá tổng quan về thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm vật chất và
nêu lên các kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc hoàn thiện
pháp luật đối với lĩnh vực này đồng thời xây dựng cơ chế cho việc áp dụng

chúng một cách phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài trước hết tập trung nghiên cứu làm rõ
mặt lý luận cũng như các quy định của pháp luật lao động về trách nhiệm vật
chất, đồng thời cũng đi sâu tìm hiểu tình hình thực trạng của việc áp dụng
trách nhiệm vật chất ở các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, đưa ra đánh giá về
thực trạng áp dụng và phương hướng hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, lý giải và bình luận các quy định của trách nhiệm
vật chất, chúng tôi có nghiên cứu, tham khảo, tìm hiểu quy định của pháp luật
một số nước trên thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cũng như nhiều khoa học pháp lý khác, trong quá trình tìm hiểu và
nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như quan điểm đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước về quan hệ lao động trong cơ chế thị
trường nói chung và trách nhiệm vật chất nói riêng làm cơ sở phương pháp

9
luận cho việc tìm hiểu nghiên cứu đánh giá vấn đề theo một quan điểm đúng
đắn, biện chứng và khoa học. Trong từng nội dung cụ thể, luận văn sử dụng
các phương pháp khác nhau một cách có hệ thống và nhất quán nhằm làm
sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu như sử dụng phương pháp thống kê, phân tích,
tổng hợp, điều tra, khảo sát Luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích,
so sánh các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia
điển hình, thu thập kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trong việc quy
định và áp dụng các vấn đề liên quan đến trách nhiệm vật chất. Từ đó, rút ra
những ưu điểm trong pháp luật quốc tế và một số nước điển hình; xem xét
tính phù hợp với điều kiện của Việt Nam để hướng tới hoàn thiện các quy
định của pháp luật Việt Nam trong việc quy định các vấn đề liên quan đến
trách nhiệm vật chất.
5. Kết cấu của luận văn.

Luận văn về đề tài “Trách nhiệm vật chất trong luật Lao động Việt
Nam- thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, ngoài phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất
Chương 2: Trách nhiệm vật chất theo pháp luật lao động ở Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện trách nhiệm vật chất trong luật lao động Việt
Nam.








10
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KỶ LUẬT LAO ĐỘNG
VÀ TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT

1.1. Khái niệm kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất.
1.1.1. Khái niệm kỷ luật lao động
Theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam thì “kỷ luật là phép tắc do tổ chức đề
ra, cần phải theo để giữ gìn trật tự” [20]. Thông qua khái niệm về kỷ luật này
chúng ta có thể khẳng định rằng kỷ luật được coi là nền tảng để xây dựng mối
quan hệ giữa người với người trong hoạt động sản xuất của các tổ chức xã
hội. Trong một tổ chức, các thành viên đều bắt buộc phải tuân theo các quy
định, phép tắc của tổ chức để đảm bảo cho tổ chức hoạt động bền vững. Ở
phạm vi xã hội, kỷ luật cũng là nền tảng để xây dựng xã hội. Kỷ luật trong xã
hội điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người trong đời sống sinh hoạt,
cũng như trong lao động sản xuất, trong vui chơi đảm bảo các mối quan hệ

đó luôn được duy trì ở trạng thái cân bằng, ổn định. “Nhờ có kỷ luật nên hoạt
động của con người mang tính chất nề nếp, hướng tới mục tiêu rõ rệt. Điều đó
đảm bảo sự hoạt động bình thường của các tổ chức xã hội” [21]. Kỷ luật trong
xã hội được xây dựng trên những chuẩn mực đạo đức của xã hội hiện hành,
và được thể hiện dưới hình thức là các quy định của pháp luật, quy định của
các tổ chức, hương ước, tập quán Kỷ luật tồn tại ở các dạng như: kỷ luật lao
động, kỷ luật của các tổ chức Đảng, đoàn thể Trong quan hệ lao động, kỷ
luật lao động được coi là tổng thể những quy định có tính chất bắt buộc đối
với các thành viên tham gia quá trình lao động.
Tính chất của kỷ luật lao động do quan hệ sản xuất thống trị trong xã
hội mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Mỗi khi
phương thức sản xuất xã hội thay đổi thì bản chất và hình thức kỷ luật cũng

11
thay đổi. Dưới chế độ cộng sản nguyên thủy, tự giác và bình đẳng là những
nguyên tắc ứng xử trong quan hệ lao động cũng như phân phối sản phẩm.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chủ nô có quyền lực vô hạn đối với nô lệ
và gia đình họ. Bản thân người nô lệ cũng như mọi thành quả lao động của họ
làm ra đều thuộc sở hữu của chủ nô. Kỷ luật lao động được đặc trưng bằng
chế độ lao động cưỡng bức và bóc lột tàn nhẫn của chủ nô đối với nô lệ.
Trong xã hội phong kiến, địa chủ chiếm giữ hầu hết đất đai, người nông
dân không có đất, phải làm công cho địa chủ và bị bóc lột thậm tệ bằng hình
thức địa tô và bằng các hình thức lao dịch khác. “Kỷ luật lao động do địa chủ
đặt ra rất tàn bạo, dựa vào roi vọt, kỷ luật mang tính chất nhục mạ và bạo
ngược, vô lý nhất, trắng trợn nhất và thô bạo nhất đối với con người” [35].
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội. Người công nhân không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động
của mình, phải làm thuê. “Giai cấp tư sản dùng thủ đoạn cưỡng bức về kinh tế,
đó là dùng tiền lương để cưỡng bức. Mất việc, không lương, người công nhân
sẽ lâm vào tình cảnh không nhà, đói rét. Kỷ luật lao động trong xã hội tư bản là

thứ kỷ luật được xây dựng trên sự đói, thứ kỷ luật gọi là kỷ luật tự do thuê
mướn, thứ kỷ luật thực tế là kỷ luật của chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa” [35].
Như vậy, trong những hình thái kinh tế xã hội có đối kháng giai cấp, kỷ
luật lao động luôn có tính chất cưỡng bức, đối lập với quyền lợi của người lao
động và được dùng làm một biện pháp để tăng cường bóc lột. Giai cấp thông
trị sử dụng kỷ luật lao động như một công cụ nhằm cưỡng bức người lao động
đem sức lao động của mình tạo ra những giá trị lợi ích cho giai cấp thống trị.
Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa ra đời, cùng với nó là sự ra đời
và phát triển của kỷ luật lao động mới. Kỷ luật lao động xã hội chủ nghĩa là
kỷ luật lao động tự giác, biểu hiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và
quan hệ lao động hợp tác của những người lao động. Quan hệ sản xuất đó đã

12
tạo ra và khuyến khích mối quan hệ tự nguyện, tự giác đối với người lao động
và coi lao động là nghĩa vụ đối với xã hội.
Dưới góc độ pháp lý, kỷ luật lao động là một yếu tố của quan hệ pháp
luật lao động, là một chế định không thể thiếu của Luật lao động.
Với tư cách là một yếu tố của quan hệ pháp luật lao động, kỷ luật lao
động là một nội dung của quan hệ này, vì người lao động khi đã vào làm việc
trong bất cứ một đơn vị sử dụng lao động nào họ cũng phải chấp hành kỷ luật
lao động, tuân thủ nội quy lao động, quy trình công nghệ, an toàn lao
động do pháp luật quy định hoặc do đơn vị yêu cầu. Người sử dụng lao động
có quyền yêu cầu người lao động chấp hành kỷ luật lao động, đồng thời duy
trì kỷ luật lao động trong đơn vị.
Với tư cách là một chế định của luật lao động, kỷ luật lao động là tổng
hợp các quy phạm pháp luật quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao
động và người sử dụng lao động đối với doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; quy
định những biện pháp khuyến khích người lao động gương mẫu chấp hành
cũng như những hình thức xử lý đối với người lao động không chấp hành
hoặc chấp hành không đầy đủ những nghĩa vụ, trách nhiệm đó.

Trong một doanh nghiệp, kỷ luật lao động là “việc tuân theo thời gian,
công nghệ và điều hành sản xuất kinh doanh thể hiện trong nội quy lao động”
(Điều 82 Bộ luật Lao động). Kỷ luật lao động tập trung vào duy trì trật tự, nề
nếp trong lao động của doanh nghiệp, bao gồm những vấn đề cơ bản sau: thời
gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi; trật tự trong doanh nghiệp; an toàn lao
động, vệ sinh nơi làm việc; bảo vệ tài sản, bí mật công nghệ, kinh doanh của
đơn vị; hành vi vi phạm kỷ luật lao động; hình thức xử lý kỷ luật lao động và
trách nhiệm vật chất. Như vậy, trong doanh nghiệp, người sử dụng lao động
căn cứ vào các quy định của pháp luật lao động xây dựng nên những khuôn

13
mẫu buộc người lao động phải tuân theo. Khi người lao động không tuân thủ
những khuôn khổ đó, họ phải chịu những hậu quả pháp lý nhất định.
Để làm rõ hơn về kỷ luật lao động, chúng ta hãy phân biệt kỷ luật lao
động trong doanh nghiệp với kỷ luật hành chính áp dụng cho cán bộ, công
chức trong các cơ quan nhà nước (kỷ luật hành chính). Sự khác biệt thể hiện ở
các điểm sau:
Thứ nhất, kỷ luật lao động được áp dụng cho người lao động tham gia
vào quan hệ lao động làm công ăn lương. Quan hệ này được xác lập với
người lao động theo hợp đồng lao động. Kỷ luật hành chính được áp dụng cho
cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. Những người này được tuyển
dụng chủ yếu bằng hình thức thi tuyển vào biên chế.
Thứ hai, kỷ luật lao động chỉ được áp dụng khi người lao động thực
hiện các quyền và nghĩa vụ lao động trong thời gian làm việc tại doanh
nghiệp hoặc theo yêu cầu của người sử dụng lao động. Trong khi đó, kỷ luật
hành chính được áp dụng trong một không gian và thời gian không hạn chế.
Cho dù người cán bộ công chức thực hiện hành vi vi phạm đạo đức, danh dự
nghề nghiệp ngoài phạm vi cơ quan nhà nước, ngoài giờ làm việc, ở địa
phương này hay bất cứ địa điểm nào khác, thì họ cũng sẽ bị xử lý kỷ luật.
Thứ ba, người lao động trong quan hệ lao động chịu trách nhiệm trước

người sử dụng lao động về các hành vi vi phạm kỷ luật lao động của mình;
trong kỷ luật hành chính thì cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước nhà
nước, trước cơ quan đơn vị chứ không phải trước người quản lý.
Thứ tư, người có thẩm quyền ra quyết định kỷ luật lao động là người sử
dụng lao động, hoặc người được người sử dụng lao động ủy quyền. Trong kỷ
luật hành chính, người ra quyết định kỷ luật và cán bộ, công chức bị kỷ luật
có quan hệ trực thuộc.

14
Thứ năm, trong kỷ luật lao động, căn cứ vào những quy định của pháp
luật lao động, người sử dụng lao động quy định cụ thể các hình thức, mức độ
kỷ luật lao động trong nội quy lao động phù hợp với tình hình của doanh
nghiệp để áp dụng khi xử lý kỷ luật lao động. Trong xử lý kỷ luật hành chính,
chủ thể không phải cụ thể hóa các quy định của luật mà áp dụng chính xác
những quy định sẵn có. Cùng một hành vi vi phạm, thì với bất kỳ ai, không
gian nào cũng sẽ bị xử lý như nhau.
Kỷ luật lao động có vai trò rất lớn trong lao động sản xuất và trên toàn
xã hội, nên tôn trọng và chấp hành kỷ luật lao động là nghĩa vụ cơ bản của
người lao động. Nhà nước nói chung và người sử dụng lao động nói riêng đã
sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, có biện pháp mang tính giáo dục, có biện
pháp thể hiện tính cưỡng chế để mọi người lao động tuân thủ kỷ luật lao động
trong doanh nghiệp.
1. 1. 2. Khái niệm trách nhiệm vật chất
a. Khái niệm
Trường hợp, hành vi vi phạm kỷ luật của người lao động gây ra thiệt
hại về tài sản cho người sử dụng lao động thì ngoài việc bị áp dụng trách
nhiệm kỷ luật, người lao động còn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài
sản cho người sử dụng lao động. Việc bồi thường những thiệt hại về tài sản
cho người lao động do hành vi vi phạm kỷ luật lao động của người lao động
gây ra được gọi là trách nhiệm vật chất trong luật lao đông.

Như vậy, trách nhiệm vật chất trong quan hệ lao động là loại trách
nhiệm pháp lý do người sử dụng lao động áp dụng với người lao động bằng
cách bắt buộc người lao động phải bồi thường những thiệt hại về tài sản do
hành vi vi phạm kỷ luật lao động của họ gây ra.
Trách nhiệm vật chất áp dụng đối với người lao động trong quan hệ lao
động là một loại trách nhiệm pháp lý được quy định trong luật lao động. Quy

15
định về trách nhiệm vật chất trong luật lao động là thể chế hóa quy định của
Hiến pháp về quyền sở hữu về vốn và tài sản trong doanh nghiệp. Điều 22
Hiến pháp nước ta đã quy định: “Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp
được Nhà nước bảo hộ” và Điều 58 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp của công dân”.
Việc buộc người lao động bồi thường những thiệt hại về tài sản do hành
vi vi phạm kỷ luật lao động không chỉ nhằm bảo đảm quyền sở hữu của người
sử dụng lao động mà còn góp phần vào việc đảm bảo và tăng cường kỷ luật
trong các đơn vị sử dụng lao động. Đồng thời, nó còn nâng cao ý thức của
người lao động trong việc chấp hành kỷ luật, buộc người lao động phải tuân
thủ các quy định về kỷ luật lao động mà người sử dụng lao động đã đặt ra.
Tuy nhiên, bồi thường thiệt hại theo trách nhiệm vật chất hầu như lại
chỉ được quy định trong hệ thống pháp luật các nước xã hội chủ nghĩa (cũ).
Còn đa số các nước khác, đặc biệt những nước có nền kinh tế thị trường phát
triển lại không có quy định riêng về loại trách nhiệm pháp lý này. Lý do cơ
bản để pháp luật các nước không có quy định riêng về trách nhiệm này trong
luật lao động, bởi họ cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật lao
động cũng chính là bồi thường thiệt hại về tài sản. Người lao động nếu đã gây
thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động (dù đó là hành vi vi phạm kỷ
luật lao động hay không vi phạm kỷ luật lao động) thì cũng đều có trách
nhiệm phải bồi thường và vấn đề bồi thường đã được quy định trong luật dân

sự. Bởi vậy, không cần thiết phải có các quy định riêng về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo trách nhiệm vật chất trong luật lao động. Các nước theo
hệ thống xã hội chủ nghĩa (cũ) thì lại cho rằng, cần thiết phải có những quy
định riêng về bồi thường thiệt hại trong luật lao động. Bởi, khi tham gia vào
các quan hệ lao động, người lao động bao giờ cũng được chủ sử dụng giao

16
cho quản lý, sử dụng những tài sản nhất định. Do đó, trong quá trình thực
hiện các quyền và nghĩa vụ lao động không thể tránh khỏi việc người lao
động gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động. Hơn nữa, người lao
động gây thiệt hại về tài sản xét trên phương diện nào đó cũng là lỗi của
người sử dụng lao động. Bởi người sử dụng lao động là người quản lý, phân
công lao động cũng như giao tài sản cho người lao động sử dụng; nên nếu
người sử dụng lao động không đánh giá đúng năng lực của người lao động,
phân công lao động không hợp lý cũng sẽ dẫn đến việc người lao động gây
thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động.
Do đó, cần phải có những quy định riêng về vấn đề bồi thường theo
trách nhiệm vật chất nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Việt Nam
là một trong những nước hiện vẫn theo quan điểm này, có những quy định
riêng về bồi thường thiệt hại trong luật lao động.
b. Đặc điểm của trách nhiệm vật chất.
Trách nhiệm vật chất trong luật lao động có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, trách nhiệm vật chất trong luật lao động chỉ áp dụng đối với
một bên của quan hệ lao động đó là người lao động làm công ăn lương theo
hợp đồng lao động.
Thứ hai, trách nhiệm vật chất chỉ phát sinh trong trường hợp người lao
động thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động của mình khi tham gia vào quan
hệ lao động.
Thứ ba, trách nhiệm vật chất do người sử dụng lao động áp dụng với
người lao động.

Thứ tư, tài sản bị thiệt hại thuộc quyền quản lý, sử dụng, bảo quản, lưu
giữ hoặc chế biến của người lao động dựa trên chức năng, nhiệm vụ của
người lao động hoặc hợp đồng trách nhiệm.

17
Sự phát sinh trách nhiệm vật chất có ảnh hưởng, liên quan trực tiếp đến
đời sống người lao động cũng như vấn đề tổ chức lao động sản xuất của các
đơn vị sử dụng lao động. Do vậy, để áp dụng trách nhiệm vật chất đúng đắn
và hiệu quả, cần phải có những căn cứ cụ thể.
c. Phân biệt trách nhiệm vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong luật lao động
Trong các quy định của luật lao động, chúng ta gặp khá nhiều các quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên trong quan hệ lao động.
Trách nhiệm bồi thường chủ yếu tập trung vào ba nội dung là: trách nhiệm
bồi thường do vi phạm hợp đồng; trách nhiệm bồi thường tính mạng sức
khỏe; trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật lao động là loại bồi thường
phát sinh khi một trong các bên chủ thể gây thiệt hại cho bên kia trong quá
trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động, được các quy phạm pháp luật
lao động điều chỉnh. Khi một bên trong quan hệ lao động mà có hành vi gây
thiệt hại cho phía bên kia, thì việc bồi thường thiệt hại có thể được đặt ra phù
hợp với các quy định của pháp luật.
Như vậy, trách nhiệm vật chất quy định trong chế độ kỷ luật và trách
nhiệm vật chất được phân biệt với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở những
điểm sau:
Về phạm vi áp dụng: Trách nhiệm vật chất chỉ là một nội dung trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong luật lao động. Trách nhiệm vật chất chỉ được áp dụng trong trường
hợp người lao động vi phạm kỷ luật lao động được quy định trong nội quy lao
động hoặc vi phạm sự quản lý điều hành của người sử dụng lao động, còn

trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ đối với người lao động mà còn đối

18
với cả người sử dụng lao động khi vi phạm các quyền và nghĩa vụ ghi nhận
trong nội quy lao động, hợp đồng lao động và các quy định khác.
Về chủ thể áp dụng: Trong trách nhiệm vật chất, thì bên có nghĩa vụ
bồi thường là người lao động, bên được bồi thường là người sử dụng lao
động. Còn trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chủ thể có nghĩa vụ bồi
thường có thể là người lao động hay người sử dụng lao động.
Về nguyên tắc bồi thường: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung
vừa theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ, kịp thời, ngang giá những thiệt hại
xảy ra của luật dân sự, vừa theo nguyên tắc bồi thường một phần thiệt hại như
bồi thường về tính mạng sức khỏe cho người lao động khi bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp; bồi thường thiệt hại khi người lao động gây ra do sơ suất.
Thông thường, nếu người bồi thường là người sử dụng lao động thì thường là
theo nguyên tắc của luật dân sự, bồi thường cả những thiệt hại trực tiếp và cả
những thiệt hại gián tiếp. Còn nếu người bồi thường là người lao động thì việc
bồi thường có thể được bồi thường một phần hoặc bồi thường toàn bộ. Trong
khi đó, trong trách nhiệm vật chất, người lao động thường chỉ phải bồi thường
những thiệt hại trực tiếp, và có thể bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt
hại.
Tóm lại, trách nhiệm vật chất chỉ là một nội dung trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong luật lao động.
d. Phân biệt trách nhiệm vật chất trong luật lao động với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong luật dân sự
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, việc phân biệt trách nhiệm vật chất
trong luật lao động với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự giúp
việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ được chính xác khi có hành
vi gây thiệt hại về tài sản xảy ra. Việc phân biệt dựa vào các đặc điểm khác
biệt sau đây:


19
Về đối tượng và phạm vi áp dụng: Trách nhiệm vật chất trong luật lao
động chỉ áp dụng đối với người lao động làm công ăn lương theo hợp đồng
lao động trong doanh nghiệp có hành vi vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại
về tài sản cho người sử dụng lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
luật dân sự được áp dụng đối với hành vi gây thiệt hại đến những lợi ích được
pháp luật bảo vệ. Những tổn hại này có thể là những tổn hại về vật chất và tổn
hại về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo luật dân sự có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Về căn cứ áp dụng: Hành vi vi phạm trong trách nhiệm vật chất chỉ
giới hạn trong quan hệ lao động. Tức là người lao động chỉ khi nào đang thực
hiện các quyền và nghĩa vụ lao động theo hợp đồng lao động mà có hành vi vi
phạm nội quy lao động gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động thì
mới phải chịu trách nhiệm vật chất. Những hành vi gây thiệt hại về tài sản cho
người sử dụng lao động ngoài phạm vi quan hệ lao động, ngoài thực hiện
nghĩa vụ lao động thì không thuộc phạm vi áp dụng trách nhiệm vật chất. Bồi
thường thiệt hại theo quy định của luật dân sự được xác định trong trường hợp
có các hành vi vi phạm hợp đồng dân sự, hay một số trường hợp bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cụ thể do Bộ luật dân sự quy định. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong luật dân sự được áp dụng có cả lỗi vô ý và cố ý.
Nguyên tắc bồi thường: Trong trách nhiệm vật chất, việc bồi thường
được thực hiện theo nguyên tắc: chỉ bồi thường thiệt hại trực tiếp về tài sản,
một số trường hợp chỉ bồi thường một phần thiệt hại, việc bồi thường thực
hiện theo cách trừ dần vào lương. Trong khi đó, bồi thường thiệt hại theo quy
định của luật dân sự là bồi thường toàn bộ, kịp thời nhằm khôi phục tình trạng
ban đầu trước khi xảy ra thiệt hại. Việc bồi thường được áp dụng với cả thiệt

20

hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp, và phải bồi thường cả những thiệt hại về uy
tín, nhân phẩm, danh dự.
e. Phân biệt trách nhiệm vật chất trong luật lao động và trách nhiệm tài
sản trong luật kinh tế
Trách nhiệm tài sản trong luật kinh tế được hiểu là sự gánh chịu hậu
quả bất lợi của bên có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế như: trả tiền phạt,
tiền bồi thường Trách nhiệm tài sản cũng có nhiều điểm giống trách nhiệm
vật chất trong lao động, đó là đều nhằm đảm bảo sự ổn định của các quan hệ,
đảm bảo trật tự trong quản lý, khôi phục lại lợi ích của các bên vi phạm, giáo
dục ý thức pháp luật và phòng ngừa các vi phạm pháp luật. Để phân biệt hai
loại trách nhiệm này, chúng ta cần căn cứ vào những điểm sau đây:
Về chủ thể áp dụng: Trách nhiệm vật chất do người sử dụng lao động
áp dụng đối với người lao động làm công ăn lương theo hợp đồng lao động.
Người sử dụng lao động là cá nhân hoặc tổ chức có khả năng sử dụng thuê
mướn lao động. Người sử dụng lao động là cá nhân có đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật lao động. Chủ thể áp dụng trách nhiệm tài sản trong quan
hệ hợp đồng về kinh tế là pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh. Các bên
căn cứ vào các quy định của pháp luật thỏa thuận trách nhiệm bồi thường,
trong trường hợp khi có tranh chấp xảy ra mà các bên không thỏa thuận được
thì trách nhiệm bồi thường sẽ do cơ quan tài phán quyết định.
Về căn cứ áp dụng: Trong trách nhiệm vật chất, hành vi vi phạm của
người lao động là những hành vi vi phạm kỷ luật, còn trách nhiệm tài sản
trong quan hệ hợp đồng kinh tế thì hành vi vi phạm là hành vi của một bên
chủ thể đã xử sự trái với những nội dung đã cam kết trong hợp đồng kinh tế
hoặc hành vi trái với những quy định của pháp luật. Đó là những hành vi
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những nghĩa vụ
theo hợp đồng kinh tế hoặc hành vi trái với quy định của pháp luật. Đó là

21
những hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ

nghĩa vụ theo hợp đồng.
Về thiệt hại vật chất, thì trong trách nhiệm vật chất, tài sản bị thiệt hại
phải thuộc quyền quản lý sử dụng, lưu trữ của người lao động, còn trách
nhiệm tài sản trong quan hệ hợp đồng kinh tế, tài sản bị thiệt hại có thể của
một hoặc hai bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng kinh tế.
Trong áp dụng trách nhiệm vật chất, chỉ khi nào người lao động có lỗi
trong hành vi gây thiệt hại tài sản mới phải bồi thường. Người sử dụng lao
động phải chứng minh được lỗi của người lao động. Lỗi để áp dụng trách
nhiệm tài sản trong quan hệ hợp đồng kinh tế là lỗi suy đoán, nghĩa là, khi
một bên không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ hợp đồng thì đương
nhiên bị coi là có lỗi. Chỉ trong trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp
luật thì bên vi phạm được xét giảm, miễn trách nhiệm tài sản.
Về nguyên tắc bồi thường: Trách nhiệm vật chất trong luật lao động
được áp dụng theo nguyên tắc bồi thường những thiệt hại trực tiếp, bồi
thường từng phần. Còn trong trách nhiệm tài sản, bên vi phạm bồi thường
không chỉ những thiệt hại trực tiếp mà cả những thiệt hại gián tiếp, bao gồm
giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng kể cả tiền lãi phải trả cho ngân hàng hoặc
cả các khoản thu nhập trực tiếp và thực tế không thu được do vi phạm hợp
đồng với đầy đủ chứng cứ rõ ràng, hợp lệ; số chi phí để ngăn chặn và hạn chế
thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.
g. Phân biệt trách nhiệm vật chất trong luật lao động và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại khi đình công bất hợp pháp gây thiệt hại cho người sử dụng
lao động
Trong thực tế, nhiều cuộc đình công không những diễn ra bất hợp pháp
mà còn gây thiệt hại cho người sử dụng lao động. Vì vậy, để giảm thiểu
những thiệt hại này và bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động,

22
pháp luật đã có những quy định về bồi thường thiệt hại khi đình công bất hợp
pháp gây thiệt hại cho người sử dụng lao động. Như vậy, cả trách nhiệm vật

chất và nghĩa vụ bồi thường khi đình công bất hợp pháp đều hướng đến việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động khi quy định
nghĩa vụ bồi thường đều thuộc về người lao động. Tuy nhiên, hai loại trách
nhiệm này cũng có những điểm khác biệt riêng, thể hiện ở những khía cạnh
như sau:
Về phạm vi áp dụng: Trách nhiệm vật chất chỉ được áp dụng trong
trường hợp người lao động vi phạm kỷ luật lao động được quy định trong nội
quy lao động hoặc vi phạm sự quản lý điều hành của người sử dụng lao động,
còn trách nhiệm bồi thường khi đình công bất hợp pháp thuộc về tổ chức, cá
nhân tham gia đình công gây thiệt hại cho người sử dụng lao động trong hợp
cuộc đình công bị Toà án nhân dân tuyên bố là bất hợp pháp [8].
Về chủ thể áp dụng: trong cả hai loại trách nhiệm, bên được bồi thường
đều là người sử dụng lao động. Tuy nhiên, bên có nghĩa vụ bồi thường trong
trách nhiệm vật chất là người lao động với tư cách cá nhân, luật lao động hiện
nay chưa quy định trách bồi thường tập thể, trong khi đó bên có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại khi đình công bất hợp pháp thuộc về tổ chức, cá nhân lãnh
đạo cuộc đình công. Cụ thể là Ban chấp hành công đoàn cơ sở nếu tổ chức
công đoàn cơ sở lãnh đạo; hoặc thuộc về những người được cử làm đại diện
tập thể lao động và những người lao động tham gia đình công nếu do đại diện
tập thể lao động lãnh đạo. Trong trường hợp này, đại diện tập thể lao động và
những người lao động tham gia đình công phải chịu trách nhiệm cá nhân theo
phần trong việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao
động [2].
Về nguyên tắc bồi thường: điểm chung của cả hai loại đều là bồi
thường những thiệt hại trực tiếp, nếu bồi thường theo trách nhiệm cá nhân thì

23
mức bồi thường không quá 3 tháng lương và đều thực hiện bằng cách khấu
trừ dần vào tiền lương, tiền công hàng tháng của người đó nhưng không quá
30% mức lương, tiền công ghi theo hợp đồng lao động làm cơ sở đóng, hưởng

bảo hiểm xã hội và. Tuy nhiên, nếu tổ chức công đoàn phải bồi thường thì
nguồn chi phí được lấy từ quỹ công đoàn.
Tóm lại, cùng là nghĩa vụ bồi thường cho người lao động người sử
dụng lao động nên các quy định về mức bồi và cách thức thực hiện bồi
thường của hai loại trách nhiệm là tương đối giống nhau, chỉ có điểm khác là
bồi thường khi đình công trái pháp luật còn có có những quy định về trách
nhiệm của tổ chức.
1.2. Sự cần thiết quy định trách nhiệm vật chất trong luật lao động
Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và quy định về
trách nhiệm vật chất trong luật lao động nói riêng đã trải qua chặng đường dài
phát triển cùng với lịch sử phát triển của đất nước. Điều này đã góp phần làm
minh thị hơn những quy định của pháp luật, đề cao ý thức trách nhiệm của
mỗi cá nhân và các tổ chức trước Nhà nước, trước xã hội về những thiệt hại
trái pháp luật và cũng là căn cứ chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
bên bị xâm phạm một cách có hiệu quả nhất. Quy định về trách nhiệm vật
chất không những đảm bảo và củng cố được mối quan hệ hòa hòa và ổn định
của các bên mà nó còn góp phần trong việc đảm bảo lợi ích hợp pháp, chính
đáng của các bên trong quan hệ lao động.
1.2.1. Đảm bảo và củng cố mối quan hệ hài hòa, ổn định của các bên trong
quan hệ lao động
Mỗi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội đều xác lập những
quyền và nghĩa vụ cụ thể với nhau, việc thực hiện nghĩa vụ của chủ thể này là
điều kiện để đảm bảo quyền của chủ thể khác. Nếu chủ thể có nghĩa vụ không
thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình sẽ xâm hại quyền lợi của các để giữ

24
mối quan hệ của các bên được ổn định, hài hòa, đòi hỏi mỗi bên phải thực
hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình, tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của nhau. Tuy nhiên, không phải lúc nào kỷ luật lao động cũng được tôn
trọng mà nguyên nhân chủ yếu là do ý thức tham gia quan hệ của các bên còn

hạn chế, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Do vậy, cần có những biện pháp đảm bảo cho kỷ luật lao động được thực hiện
nghiêm túc.
Hiểu theo nghĩa rộng, kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất không
chỉ là kỷ luật để đảm bảo nghĩa vụ an toàn, vệ sinh lao động trong quá trình
lao động mà nó còn được hiểu là sự nghiêm minh và thái độ nghiêm túc trong
việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động cũng như các điều khoản
cam kết giữa các bên trong hợp đồng lao động.
Mặt khác, Hiến pháp nước ta đã quy định: “Các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và
tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ” và “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
hợp pháp của công dân” [25]. Vì vậy, trong khi thực hiện quyền và nghĩa vụ
lao động, nếu người lao động vi phạm kỷ luật lao động hoặc không có tinh
thần trách nhiệm làm thiệt hại đến tài sản của người sử dụng lao động thì họ
không những phải chịu trách nhiệm kỷ luật và pháp luật còn quy định trách
nhiệm phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của họ gây ra [24].
Quy định về trách nhiệm vật chất là đánh vào thu nhập, vào kinh tế của
người lao động. Trách nhiệm này áp dụng những người không tuân thủ kỷ
luật lao động là giải pháp hiệu quả trong giai đoạn hiện này. Bởi nếu chỉ áp
dụng các hình thức khác như khiển trách, cảnh cáo mà không bắt người lao
động phải bồi thường những thiệt hại về tài sản do lỗi của họ thì họ sẽ không
có tinh thần trách nhiệm đối với các tài sản mà mình được người sử dụng giao
trách nhiệm quản lý, bảo quản. Từ đó, người lao động sẽ buông lỏng việc

×